Anh Hùng Bắc Cương

Chương 2: Phật tính, ma tính




Phật tính, Ma tính -

Nhật-Hồ lão nhân hướng Minh-Thiên chắp tay:

- Đại sư! Năm nay lão phu đúng một trăm tuổi. Không biết đại sư niên kỷ đã bao nhiêu?

Minh-Thiên đáp lễ:

- So về tuổi tác, khi tiên sinh thành danh, cùng với Đông-Nhật lão nhân lập lên nhà Hán, lúc ấy tiểu tăng chưa ra đời. Năm nay tiểu tăng sáu mươi tuổi.

Minh-Thiên lại vái liền hai vái:

- Tiểu tăng nghĩ niên kỷ, đức độ đã kém, đâu dám so với tiên sinh? Nhưng vì có lệnh của Bình-Nam vương, tiểu tăng đành cam thất lễ.

Nhật-Hồ lão nhân vui vẻ:

- Lão phu vắng bóng trên giang hồ hơn hai chục năm nay, bây giờ mới xử dụng lại võ công, không biết có chịu nổi mười chiêu của cao tăng đắc đạo không. Nhưng vì thể diện đất nước, lão phu đâu dám sợ nguy hiểm. Hôm nay, lão phu là chủ, đại sư là khách, lão phu xin nhường đại sư ra chiêu trước.

Tự-Mai nói nhỏ với Tôn Đản:

- Lão này thực đáng sợ. Cứ nghe lời nói cùng hành xử của lão, rõ ra đại tôn sư võ nghệ, đạo cao đức trọng. Có ai dám ngờ lão là một đại ma đầu, giết người không gớm tay. Kể cả Trung-quốc, Đại-Việt, số người mà Hồng-thiết giáo của lão giết, thây chất ắt cao hơn mấy chục ngọn Hoàng-liên sơn.

Trần Kiệt gật đầu:

- Suốt cuộc đời lão, lúc nào lão cũng ngọt ngào, từ ái, khoan thai. Kể cả lúc lão xử tử người ta, lão cũng nhỏ nhẹ như vậy. Thành ra nhiều người lầm lẫn, chết vì cái ngọt của lão.

Quảng trường im lặng đến không một tiếng động. Vì võ lâm đều muốn nghe, muốn kiến thức đại tôn sư của hai nước giao đấu.

Minh-Thiên biết, với thân phận của Nhật-Hồ, lão không thể xuất chiêu trước. Ông chắp tay:

- Xin thất lễ.

Tay phải nắm thành quyền. Tay trái xòe thành chưởng. Ông quay tròn đẩy về trước một chưởng. Chưởng chưa phát ra hết, mà mọi người trên đài muốn nghẹt thở.

Nhật-Hồ lão nhân khum tay như ưng vồ mồi, đẩy về trước một chưởng. Ầm một tiếng. Cả hai lảo đảo lui lại. Đại tôn sư của bang Hồng-hà Sử Canh. Bang Đông-hải Hùng Cơ. Phái Phật-thệ Chế Ma Thanh. Phái Vạn-tượng Phủ Văn. Phái Cửu-long Kim Sinh, vì công lực kém, phải nhảy xuống đài, để tránh áp lực làm bị thương.

Nhật-Hồ cất tiếng khen:

- Kim-cương ban nhược chưởng của phái Thiếu-lâm quả danh bất hư truyền.

Qua một chiêu đầu Minh-Thiên cảm thấy công lực của Nhật-Hồ thực khủng khiếp. Trong nhu có cương, trong cương có nhu. Trong chính có tà. Trong tà có chính. Bảo rằng tinh diệu cũng thực tinh diệu. Bảo rằng dũng mãnh cũng thực dũng mãnh. Trong tâm ông kinh hãi:

- Trước đây Đông-Nhật lão nhân Lưu Trí-Viễn, đơn chưởng qui tụ đệ tử lập ra nhà Hán, vang bóng một thời. Anh hùng Trung-Quốc không ai địch nổi. Thế mà lão già này lại là sư phụ của Trí-Viễn, quả thực lão không tầm thường.

Minh-Thiên tấn công liền bảy chiêu. Mỗi chiêu biến thành bẩy nữa hoá ra bốn mươi chín chiêu. Đây là một tuyệt kỹ đệ nhất của phái Thiếu-lâm, Minh-Thiên thắng khắp anh hùng thiên hạ nhờ chiêu này. Mỗi chiêu đánh ra, chưởng phong cực kỳ trầm trọng.

Nhật-Hồ lão nhân từng giao đấu với đủ hạng người Hoa, Việt. Tuy chưa biết chiêu chưởng này. Nhưng lão chỉ đỡ chiêu đầu đã hiểu được nguyên lý. Lập tức lão không đỡ nữa, mà phát ra bẩy chiêu cực kỳ thô kệch. Cứ mỗi chiêu lão phát ra, chạm vào chưởng phong của Minh-Thiên, lại bật lên tiếng ầm. Minh-Thiên phải lui một bước.

Khi hết bẩy chiêu, Nhật-Hồ quay tròn người, chưởng phong hai tay lão hóa ra thành đồng vách sắt. Minh-Thiên ngơ ngác, vì trên đời ông chưa từng thấy thứ võ công này bao giờ. Nhật-Hồ vừa quay tròn, vừa tiến lại, bất đắc dĩ ông phải đẩy một chiêu Kim-cương ban nhược chưởng vào người lão. Nhưng chưởng vừa ra, lập tức kình phong của ông, hợp với kình phong của lão hoá thành lớp chân khí mới đẩy ngược lại ông. Kinh hoàng ông vội thu chân khí lại, lão đã sát người ông. Ông phi thân lên cao, tránh thế tấn công kỳ quái. Ở trên cao, ông đá gió một cái, người rơi xuống giữa đài.

Dưới dài, Thanh-Mai hỏi Đỗ Lệ-Thanh:

- Đỗ phu nhân, võ công này phải chăng nằm trong Hồng-thiết kinh?

Đỗ Lệ-Thanh gật đầu:

- Thưa cô nương đúng thế. Chiêu vừa rồi gọi là Cuồng phong đại tuyết. Nguyên bên xứ Tây-vực, hàng năm tuyết rơi đến năm tháng. Khi tuyết rơi, gặp gió, thường biến thành lốc tuyết. Nếu Minh-Thiên đánh thẳng vào đó, sẽ bị khí hàn lãnh nhập cơ thể, chân tay tê liệt mà mất mạng. Chiêu này gồm năm biến. Nhật-Hồ mới xử dụng có bốn biến.

Trên đài Minh-Thiên đã phản công. Kim-cương ban nhược chưởng lấy yếu chỉ trong kinh Kim-cương thuộc Vô-nhân tướng thiền công. Nguyên Thiền-công nhà Phật có ba lọai gồm Vô-nhân tướng, Vô-ngã tướng, Vô-chúng sinh tướng. Cả ba hợp lại thành Vô-ngã tướng.

Khi xưa đức Thích-ca Mâu-ni, khi ngồi dưới gốc cây Bồ-đề tìm lẽ giải thoát, có không biết muôn vàn ma vương, quỷ dữ mà ngài mắc nợ với chúng từ bao kiếp trước kéo đến đòi nợ. Ngài đã tìm ra phép Thiền, để giải những nghiệp dĩ đó, rồi đi tới vô thượng chính đẳng chính giác tức đắc đạo. Sau ngài truyền cho đệ tử là Ma-ha Ca-Diếp. Từ Ma-ha Ca-diếp, truyền đến đời thứ tám là ngài Tăng-Giả Nan-Đà.

Ngài Tăng-giả Nan-Đà đến Lĩnh-Nam hoằng dương đạo pháp, truyền cho công chúa Trần Năng, Phật-Nguyệt và Trần Thị Phương-Chi trong khi bốn bà đang dự trận hồ Động-Đình. Từ sau trận đánh Hằng-sơn, Phật-Nguyệt với Trần Thị Phương-Chi bỏ đi tu rồi tuyệt tích. Còn Trần Năng, khi Bắc-bình vương Đào Kỳ với vương phi Phương-Dung tuẫn quốc, bà cùng Hùng Bảo bỏ vào Cửu-chân kháng chiến. Lúc thế nước tuyệt vọng. Bà đem khắc hết Vô-ngã tướng thiền công vào trong động Xuân-đài, về sau Bố-cái Đại-vương học được. Nay Khai-Quốc vương với Tự-Mai vô tình tìm ra, luyện nhưng chưa thành tựu.

Thiền-công Vô-ngã tướng còn chép trong bộ Lĩnh-Nam vũ kinh, mà Mỹ-Linh đã luyện thành.

Hai loại thiền công này vẫn tồn tại. Trong khi tại Tây-trúc đã tuyệt tích. Kể từ Phật Thích-ca, đến đời thứ hai mươi tám bên Tây-trúc, ngài Bồ-đề Đạt-ma cỡi thuyền đến Lĩnh-Nam truyền đạo. Ngài Bồ-đề Đạt-Ma lại chỉ học được loại thiền công Vô-nhân tướng. Sau khi ở Lĩnh-Nam ít lâu, ngài sang Trung-nguyên, lập ra phái Thiếu-lâm. Cho nên yếu chỉ thiền công mà Minh-Thiên dùng tức Vô-nhân tướng công. Về sau tổ thứ ba của phái Thiếu-lâm tên Tăng-Sán, đã nhân luyện thiền, rút yếu chỉ trong kinh Kim-cương, chế ra ba mươi sáu chiêu Kim-cương ban nhược chưởng.

Cứ bình tâm mà xét, bất cứ cao thủ của phái nào, dù cao đến đâu, cũng không thể đấu với Nhật-Hồ lão nhân. Bởi vì lão thành một thiên tài võ học. Hơn nữa lão đã có một trăm năm công lực. Võ công của lão vốn rút từ Hồng-thiết kinh, một kinh của tà ma bên Tây-thiên. Với công lực đó, từ mấy chục năm nay, không ai đỡ nổi của lão mười chiêu. Trước đây, chỉ có Vạn-Hạnh thiền sư đấu ngang tay được với lão mà thôi. Nay thêm Minh-Thiên chịu được mấy chục chiêu, đã tạo một kỳ tích. Vì Thiền-công của ông thuộc Phật gia, có thừa tính chất hoá giải bất cứ ma nghiệp, ma công nào. Cho nên mỗi chiêu Nhật-Hồ đánh ra, đều bị Kim-cương chưởng hoá giải hết.

Những cao thủ nhìn cuộc đấu, đều nhận thấy công lực, chiêu số của Nhật-Hồ tinh diệu, hùng mạnh hơn Minh-Thiên nhiều. Mỗi chiêu lão đánh ra như núi lở, như thành nghiêng, nhưng chạm vào chưởng Minh-Thiên, lại biến mất.

Đấu được hơn trăm hiệp, thình lình Nhật-Hồ lão nhân đánh ra một chiêu rất hung hiểm. Đám cao thủ phái Tản-viên la lớn:

- Ác ngưu nan độ.

Bình một tiếng. Minh-Thiên bật lui liền ba bước, mặt đỏ gay. Trong khi Nhật-Hồ lão nhân thản nhiên như không. Thấy thành công, lão tỉnh ngộ, phát chiêu nữa đến vù một cái. Minh-Thiên nghiến răng đỡ. Ầm một tiếng, ông bật lui liền ba bước, người lảo đảo.

Đám đệ tử phái Mê-linh lại kêu lên:

- Thiết kình phi chưởng.

Nguyên Nhật-Hồ lão nhân có rất nhiều giáo chúng thuộc đủ mọi môn phái qui phục. Trong khi đàm luận, lão học được một số chiêu thức võ công Đại-Việt. Bây giờ vô tình lão đem xử dụng lại thắng thế.

Lão nghĩ thầm:

- Chưởng của mình do hai vị thánh Mã-Mặc, Lệ-Anh chế ra không thể thắng nổi Kim-cương ban-nhược chưởng của bọn tà ma Phật từ Tây-trúc truyền qua. Trong khi chưởng của Lĩnh-Nam, lại thắng dễ dàng là tại sao? À phải rồi, tất cả võ công cổ của Lĩnh-Nam đều do lòng tin vào thần quyền nhảm nhí tức một loại tà ma. Ta xử dụng mà đắc thế chẳng qua lấy tà chọi tà.

Nhật-Hồ lão nhân theo Hồng-thiết giáo từ nhỏ. Lão tin tưởng tuyệt đối vào tôn giáo của mình. Mà quan niệm của Hồng-thiết giáo, tất cả tôn giáo khác đều thuộc tà ma ngoại đạo, phải giết hết. Ai càng giết nhiều giáo chúng ngoài Hồng-thiết giáo, khi chết về với thế giới Mã-Mặc, Lệ-Anh sẽ càng mau trở thành thần, thành thánh. Lão u mê như vậy, nên lão giết người lại coi như một nhiệm vụ.

Hôm nay, lão thấy võ công Hồng-thiết của mình rõ ràng cực kỳ cao thâm. Cực kỳ tinh diệu, lại không thắng nổi Kim-cương ban-nhược chưởng. Trong khi lão chỉ dùng mấy chiêu tạp nhạp của Đại-Việt lại thắng Minh-Thiên dễ dàng. Lão quy vào Hồng-thiết là võ công Thánh không thể thắng võ công nhà Phật, một thứ võ công tà ma. Phải dùng võ công Lĩnh-Nam, cũng một thứ tà ma mới thành công. Tức dĩ độc, trị độc.

Lão tiếp tục phát những chiêu thức lẻ tẻ của các phái, bằng công lực cực kỳ cao thâm. Đến chiêu thứ mười, Minh-Thiên bay tung xuống đài. Ông oẹ một tiếng, miệng phun ra máu. Ông nghiến răng, ngồi dậy, điều tức, mửa ra một búng máu nữa. Là cao tăng đắc đạo, thắng bại đối với ông không quan trọng. Ông khoan thai lên đài chắp tay:

- Lão nhân! Bần tăng chịu thua lão nhân.

Nói rồi ông định bước xuống đài. Bỗng thấp thoáng, một người từ dưới đài nhảy lên, chính là Thiếu-Mai. Nàng móc trong bọc một bình thuốc, đổ ra bốn viên, hai tay dâng lên cho Minh-Thiên:

- Đại sư! Tiểu nữ xin cúng dàng bốn viên thuốc này. Đại sư dùng ngay đi, e không bị nội thương nặng.

Minh-Thiên cầm lấy mấy viên thuốc bỏ vào miệng. Ông chắp tay tạ Thiếu-Mai:

- Đa tạ tiểu cô nương.

Ông xuống đài, tư thái nhẹ nhàng, tựa như không thiết tha đến sự thua được vừa rồi. Qua cuộc đấu, rõ ràng ông chiến đấu vì Tống, có hại cho Đại-Việt. Nhưng tư thái đạo mạo, thanh thản của một cao tăng đắc đạo đã khuất phục quần hùng.

Sư thái Tịnh-Tuệ hướng vào Triệu Thành:

- Triệu thí chủ. Khi thí chủ nhận cho hai bên Tống, Việt đấu ba trận. Nếu bên Việt thắng hai, sứ đoàn phải quỳ gối làm lễ đủ tám lễ trước bàn thờ anh hùng đất Việt. Sau nữa không được bàn đến việc niên hiệu, quốc danh nữa. Nay Đại-Việt thắng, xin các vị giữ lời hứa cho.

Mặt Triệu Thành xám như tro. Y vẫy tay gọi thủ hạ lên đài. Trần Tự-An, Đoàn Huy thắp hương trao cho sứ đoàn. Triệu Thành cùng cả bọn quỳ gối lễ đủ tám lễ. Lễ xong y nói:

- Khi xưa ngài Đào Kỳ được vua Quang-Vũ nhà Hán phong tước Hán-trung vương. Nay tại hạ được phong Bình-Nam vương, thuộc hàng con cháu. Hán-trung vương làm đại công thần nhà Hán. Tại hạ lễ trước bàn thờ ngài để tỏ lòng hiếu kính bậc tiền bối. Hy vọng sau này đất Giao-chỉ sẽ còn nhiều anh hùng vì Trung-quốc ra sức, để tiếp nối sự nghiệp của Hán-trung vương.

Sư thái Tịnh-Huyền nói:

- Bần ni nhân danh võ lâm Đại-Việt kính mời các vị ở lại thụ lộc, uống chén rượu nhạt. Không biết các vị có nhận cho không?

Triệu Thành lắc đầu. Y nói với Nhật-Hồ:

- Tiên sinh! Vãn bối xin phép tiên sinh được nói mấy câu với Nam-bình vương Lý Công-Uẩn.

Nhật-Hồ lão nhân gật đầu:

- Dĩ nhiên được. Triệu đại hiệp không thể nhân đanh Bình-Nam vương ra lệnh cho võ lâm Đại-Việt. Nhưng vẫn có thể nhân danh sứ thần triều Tống, nói với Đại-Việt hoàng đế.

Triệu Thành vận khí vào đơn điền nói lớn:

- Nam-Bình vương gia. Khi vua Thái-tông bản triều còn tại thế, người hằng băn khoăn về đất Giao-chỉ này, nơi rồng nằm hổ phục. Niên hiệu Thiên-phúc thứ nhì (981), thiên triều nghe lời sàm tấu của bọn biên thần, sai Hầu Nhân-Bảo, Tôn Toàn-Hưng, Quách Quân-Biện mang quân sang đánh Giao-chỉ. Vì vậy mới xẩy ra trận Bạch-đằng, Chi-lăng. Sau người cho điều tra, biết rằng bị sàm tấu, đã ra lệnh chém bọn chúng, rồi sắc phong cho Lê Hoàn làm Giao-chỉ quận vương. Suốt bao năm, Lê Hoàn trấn phương Nam, làm cho dân chúng ấm no, giặc cướp không còn. Hàng năm sai sứ sang triều kiến, lễ số không thiếu. Vì vậy tiên hoàng không ngớt lời khen y, gia phong chức tước.

Ngừng lại một lúc, y tiếp:

- Công đức của Lê Hoàn khiến tiên hoàng dự định cải Giao-chỉ thành nước An-Nam. Đến đời Chân-tông niên hiệu Cảnh-đức thứ nhì (1005) giữa lúc triều đình định sai sứ sang sách phong, thì Lê-Hoàn chết. Sau đó các con tranh nhau. Cuối cùng Ngoạ-triều lên nối ngôi, tàn ác quá đáng, nên Thiên-triều không thể phong cho làm vua một nước.

Y hắng rặng một tiếng, rồi tiếp:

- Long-Đĩnh chết. Bấy giờ vương gia đang làm Tả-thân vệ điện tiền chỉ huy sứ, tự lên kế ngôi thay Long-Đĩnh. Thiên-triều nhiều lần sai sứ sang dục vương gia tìm con cháu nhà Lê tái lập chính thống. Nhưng vương gia đều thượng biểu rằng con cháu nhà Lê không còn ai. Thiên triều cũng tin vậy, phong cho vương gia tước Nam-Bình vương, tạm quyền trị nước. Thế mà vương gia tiếm xưng đế hiệu Thuận-Thiên, quốc hiệu Đại-Việt. Như vậy thực quá lắm.

Y chỉ vào Hồng-Sơn đại phu:

- Năm trước đây, Thiên-Thánh hoàng-đế cử tiểu vương đi sứ, mục đích tìm con cháu nhà Lê. Hay đâu trời không phụ lòng người, tiểu vương tìm được Nam-Quốc vương Lê Long-Mang, chính là nhân vật kỳ vĩ, võ công vô địch thiên hạ, ơn đức trải khắp Hoa-Việt. Tiểu vương về tâu lại, ắt hẳn Thiên-triều sẽ phong cho Nam-Quốc vương làm hoàng đế, quốc hiệu vẫn còn tên Đại-Việt. Niên hiệu tùy Nam-Quốc vương chọn.

Y ngừng lại nghỉ để thở mấy hơi rồi tiếp:

- Vậy tiểu vương nghĩ Nam-Bình vương nên trả ngôi chính thống cho họ Lê. Vạn nhất vương không trả, cái gì sẽ xẩy ra? Võ lâm Giao-chỉ sẽ nổi dậy chống vương. Phái Sài-sơn dĩ nhiên chống vương. Phái Đông-a đã hai đời thân Lê. Đương kim Thiên-trường ngũ kiệt vốn bạn cũ của Hồng-Sơn đại phu, ắt phái Đông-a thành đạo quân chính kéo về Thăng-long. Chiêm-thành, Chân-lap, Lão-qua sẽ đem quân vào. Đại quân Thiên-triều ở hai lộ Quảng hơn trăm vạn vượt biên tiến sang. Như vậy liệu vương gia có giữ nổi không? Việc đó tùy vương gia xử trí.

Triệu Thành để ý, thấy Hồng-Sơn đại phu có vẻ rửng rưng với lời nói của y. Y chửi thầm:

- Thằng Lê Long-Mang này kiến thức không tầm thường, lại thêm con vợ đẹp như tiên của nó luôn công kích Thiên-triều. Có khi y đổi ý kiến cũng nên. Đã vậy ta bốc lão già hiếu danh Nhật-Hồ lên cho bọn Nam-man đánh nhau chơi, có như thế ta mới tiến quân sang được.

Nghĩ vậy y cúi đầu trước bàn thờ lễ tám lễ rồi tiếp:

- Thưa các vị anh hùng con cháu Bắc-bình vương. Qua ba trận đấu vừa rồi, tiểu vương thấy võ công Giao-chỉ thịnh hơn bao giờ hết. Giao-chỉ xứng đáng thành Đại-Việt. Người cai trị Đại-Việt không phải quận vương, mà phải thành hoàng đế. Đại-Việt hoàng đế chỉ có thể là Nam-Quốc vương. Nếu vì lý do nào đó, các vị không tin tưởng vào Nam-Quốc vương, phải cử lấy một vị đại tôn sư võ lâm lên thay. Thiên-triều cũng sẽ phong làm Đại-Việt hoàng đế, và tránh khỏi chiến tranh. Thôi, tiểu vương xin lui. Sau hai ngày nữa, tiểu vương sẽ đến Cổ-loa xem duyệt binh, chờ kết quả quyết định của Nam-Bình vương cùng các vị tôn sư võ lâm.

Nói rồi y định xuống đài, thấp thoáng bóng xanh, Thanh-Mai nhảy lên, đứng cạnh y. Y giật mình lùi lại, miệng lắp bắp:

- Trần cô nương. Từ Thiên-trường cách biệt, cô nương vẫn mạnh chứ?

Miệng nói, mà tim y đập rộn ràng. Dưới ánh nắng hè, da mặt Thanh-Mai hồng hào, tươi đẹp như một bông hoa lan mới nở, đang khoe sắc. Quần hùng thấy thế khinh thân của nàng vừa mau, vừa nhẹ, tỏ ra nội công thâm hậu vô cùng. Khi nhìn rõ thấy vẻ đẹp sắc sảo của nàng, giới trẻ bật lên những tiếng suýt xoa. Thanh-Mai chắp tay thi lễ:

- Tiểu nữ Trần Thanh-Mai, đệ tử phái Sài-sơn, xin kính cẩn ra mắt Triệu vương gia.

Triệu Thành kinh ngạc:

- Trần cô nương! Rõ ràng cô nương thuộc phái Đông-a, hơn nữa là ái nữ của vị chưởng môn danh trấn thiên hạ, cớ sao lại xưng làm đệ tử phái Sài-sơn?

Thanh-Mai cười rất tươi:

- Dĩ nhiên, gia nghiêm làm chưởng môn phái Đông-a. Nhưng tiểu nữ được Hồng-Sơn đại phu ưu ái thu làm đệ tử. Không những thu làm đệ tử, mà được coi như ái đồ của người. Vương gia có biết tại sao không? Trong mười đại đệ tử của người, tiểu nữ vốn nhỏ tuổi nhất, vì vậy cũng được sư phụ cưng chiều.

Triệu Thành thấy Thanh-Mai lên đài, y biết thế nào cô gái xinh đẹp này cũng gây sự với mình chứ không sai. Y hỏi:

- Không biết cô nương có điều chi dạy bảo? Kể từ ngày gặp gỡ cô nương lần đầu, tại hạ thấy không gian như thu hẹp lại, trăm hoa kém tươi. Tại hạ những tưởng về Trung-nguyên, cử mai mối, đem xe vàng đón cô nương làm vương phi. Thế nhưng... thế nhưng cô nương cứ theo làm khó dễ tại hạ hoài, đạo lý ở chỗ nào?

Thanh-Mai dõng dạc nói:

- Triệu vương gia ơi, tiểu nữ không hề làm khó dễ vương gia. Bình tâm mà xét, trong thiên hạ, vương gia chỉ ngồi dưới có Thiên-Thánh hoàng-đế, mà ngồi trên trăm triệu người, uy quyền biết mấy. Võ công kiến thức vương gia lại xuất chúng. Đương nhiên vương gia trở thành nguồn ước mơ của các thiếu nữ thiên hạ. Khi vương gia mới gặp tiểu nữ. Vương gia đã tỏ ý cầu thân. Tiểu nữ có phải gỗ đâu mà không cảm động?

Nàng ngừng lại chỉ vào Hồng-Sơn đại phu:

- Huống hồ cứ như lời vương gia nói, vương gia sang đây mục đích vì sư phụ của tiểu nữ, hưng diệt, kế tuyệt. Vương gia đã đến Vạn-thảo sơn trang cùng Thiên-trường tặng lễ vật lớn cho sư phụ cùng gia nghiêm tiểu nữ. Với bằng ấy lý do, đời nào tiểu nữ dám vô phép với vương gia, mà vương gia bảo rằng tiểu nữ làm khó dễ?

Nàng đưa mắt nhìn Đoàn Huy, rồi tiếp:

- Có điều tiểu nữ sinh làm gái Việt. Vương gia ơi, gái Trung-quốc lấy chồng, chỉ biết có chồng. Chồng là nhất. Nhưng gái Việt lại khác. Gái Việt yêu nước hơn yêu chồng. Chồng đứng thứ tư, sau nước, sau sư phụ, và sau song thân.

Cả quảng trường vỗ tay vang dội, hết tràng này đến tràng khác.

Người người tán tụng:

- Đệ tử danh gia có khác. Nói năng đúng đạo lý. Hành xử đâu ra đấy.

- Truyện! Một kiến thức của ông bố đã làm nghiêng thiên hạ rồi. Huống hồ thêm kiến thức của Hồng-Sơn đại phu!

- Người ta đồn nàng là một trong Thuận-Thiên cửu hùng thì phải. Em kết nghĩa của Khai-Quốc vương. Nghe đâu Thuận-Thiên hoàng đế định phong làm Vương phi Khai-Quốc vương đấy.

- Nếu hoàng-cung có một Vương-phi như vậy thực phúc đức quá. Nghe đâu phen này Hồng-Sơn đại phu được Thiên-trường đại hiệp hỗ trợ về đòi lại ngôi vua. Thế không biết nàng theo sư phụ với bố hay theo nghĩa huynh.

- Chắc theo sư phụ. Nàng vừa nói: Gái Việt coi trọng nhất nước thứ đến sư phụ. Chồng đứng thứ tư kia mà.

- Cứ chờ xem!

Thanh-Mai đợi cho tiếng vỗ tay ngưng, nàng tiếp:

- Suốt hơn năm qua, mỗi bước chân đi của vương gia, tiểu nữ hằng theo dõi. Vì vậy, hôm nay vương gia tới đây, ngỏ lời với anh hùng về ngôi chính thống của Đại-Việt, tiểu nữ bắt buộc phải lên tiếng.

Triệu Thành kinh hoảng:

- Con nhỏ này kiến thức thực bao la, trí mưu không thua ai. Mình không cẩn thận e nguy với nó. Bất cứ nó nói gì, ta cứ chối biến là xong.

Y làm ra vẻ đa tình:

- Tại hạ xin rửa tai nghe lời vàng ngọc của cô nương.

Thanh-Mai mỉm cười chỉ vào bọn Triệu Anh:

- Ngày mười tư tháng hai năm trước, tiểu nữ theo bổn sư vào Thanh-hoá dự lễ Lệ-Hải bà vương. Trên đường đi tiểu nữ gặp Tung-sơn tan kiệt cùng Quách Quỳ. Các vị ỷ lớn hiếp nhỏ, toan giết một thiếu niên thôn dã. Rồi đêm đến vào đập phá đền thờ Tương-Liệt đại vương.

Nàng vẫy tay, Tôn Đản từ dưới đài bước lên. Nó thuật tỷ mỉ cuộc đấu võ giữa nó với Quách Quỳ, sau đó bọn Triệu Thành đột nhập đền thờ Nguyễn Thành-Công phá tượng tìm di thư như thế nào một lựơt, không bỏ một chi tiết nhỏ.

Triệu Thành biết không chối được. Y tự biện lý:

- Việc đó do Tung-sơn tam kiệt tự tác. Bản nhân đã nộp vàng tại trấn Thanh-hóa theo luật Giao-chỉ để chuộc tội rồi.

Quần hào đồng lên tiếng nguyền rủa. Thanh-Mai đợi cho tiếng nguyền rủa của dứt. Nàng tiếp:

- Lần đầu tiên tiểu nữ gặp Vương-gia trên núi Chung-chinh, vào ngày hôm sau, tức rằm tháng hai năm trước. Vương gia cùng với tất cả các vị tùy tòng đây không ngớt xỉ mạ võ công Đại-Việt là thứ võ công học lóm của Trung-quốc. Vương gia không hề nói đến việc tìm con cháu nhà Lê. Vương gia dụ dỗ bọn thiếu niên để chúng chỉ động Xuân-đài tìm nơi cất võ công thời Lĩnh-Nam. Trong đêm đó, vương gia dùng độc chất của Hồng-thiết giáo Trung-quốc, mưu hại đại ca của tại hạ, nhưng không thành.

Nàng vẫy tay, Tôn Trung-Luận lên đài:

- Vị tiền bối này bấy giờ đang làm ông từ giữ đền Tương-Liệt đại vương làm chứng. Ngày mười bẩy tháng hai, Vương gia cùng sứ đoàn đến lục xét đền thờ Tương-Liệt đại vương lần nữa, bắt trói ông từ tra khảo nơi cất võ kinh.

Tôn Trung-Luận tường thuật tỷ mỷ những việc xẩy ra hồi ấy. Nhưng ông cố ý lờ vụ anh em Đàm Toái-Trạng, Đàm An-Hoà phản quốc làm gian tế cho Tống, vì Khu-mật viện muốn việc bọn họ Đàm phản quốc chưa đến lúc công bố.

Nàng hướng vào công chúa Lĩnh-Nam Bảo-quốc Hoà-dân, đang ngồi trên ghế của vua Bà Bắc-biên:

- Ngày hai mươi mốt tháng hai, trong lúc chúng tôi tế Lệ-Hải Bà-vương, Đông-Sơn lão nhân, Địch Thanh, Lý Tự xuất hiện, mưu giết công chúa Bình-Dương, cùng phá đại hội. Giữa lúc đó vua Bà Bắc-biên xuất hiện, kể tội trạng nguyên Địch Thanh ăn trộm vàng của công khố Đại-Việt.

Công-chúa Lĩnh-Nam Bảo-Hòa đứng lên kể chi tiết vụ Lý Tự toan giết Mỹ-Linh cùng việc bọn Đông-Sơn lão nhân, Địch Thanh xâm nhập Bắc-biên dụ dỗ các khê động theo Tống, ăn cắp vàng của công khố Đại-Việt. Sau đó âm thầm đi Thiên-trường, rồi vào Thanh-hoá.

Đợi công chúa Lĩnh-Nam Bảo-Hòa kể xong, Thanh-Mai thuật chi tiết bọn Tung-sơn tam kiệt cùng với Vệ-vương Đinh Toàn tìm hầm đá, chép bộ Linh-Nam vũ kinh vào cuốn sử của Mỹ-Linh. Sau đó hủy những tấm bia kia đi.

Thanh-Mai thuật đến đây, quảng trường ồn ào hẳn lên bàn tán. Quần hùng căm phẫn sứ đoàn đến cùng tận.

Nguyên từ khi thành lập nước Việt cho đến thời Lý, chưa bao giờ võ học lại phồn thịnh như thời Lĩnh-Nam. Sau khi vua Trưng tuẫn quốc, các phái phải qui ẩn, bí mật thu dụng đệ tử. Vì vậy trải hơn nghìn năm Bắc thuộc, võ công bị mai một đi rất nhiều. Cho đến khi vua Ngô lập lại tự chủ, các gia, các phái mới hoạt động trở lại. Nhưng võ học thời Lĩnh-Nam, mười phần, thất lạc đến tám chín. Các đại tôn sư chỉ biết than ngắn thở dài. Trong gần một trăm năm qua, võ lâm Trung-quốc, Đại-Việt, Đại-lý, Chiêm-thành, Lão-qua thi nhau tìm di tích bộ Lĩnh-Nam võ kinh, nhưng tuyệt vô âm tín. Người ta cho rằng, ai tìm thấy bộ võ kinh đó, sẽ trở thành anh hùng vô địch, võ lâm đại đế.

Bây giờ họ nghe Thanh-Mai nói bọn Triệu Thành được Vệ-vương Đinh Toàn chỉ cho chỗ cất dấu di thư. Sau khi chép xong, bọn y phá hủy bia đá đi. Quần hùng thấy rằng, muốn tìm lại võ thuật thời Lĩnh-Nam, phải tranh dành với sứ đoàn Triệu Thành. Nhưng phái nào cũng cảm thấy e dè, vì bọn Triệu-Thành tuy ít người, nhưng gồm toàn những đại đao thủ. Vì vậy không ai muốn ra mặt gây hấn. Họ im lặng, tìm kế vạn toàn.

Thanh-Mai thuật tiếp việc bọn Tung-sơn tam kiệt bắt nàng cùng Mỹ-Linh, Bảo-Hòa đi Vạn-hoa sơn trang, Vạn-thảo sơn trang. Cùng những việc xẩy ra trong Vạn-thảo sơn trang. Nàng kết luận:

- Cho đến lúc này, vương gia mới biết sư phụ của tôi là Nam-quốc vương. Vương gia không ngần ngại gì ném Vệ-vương Đinh Toàn vào hồ nước. Tại sao? Vì Vệ-vương thân cô, thế cô, võ công lại không cao. Trong khi sư phụ tôi võ công vô địch thiên hạ. Ơn đức trải khắp lê dân. Thế mà vương gia bảo Thiên-Thánh hoàng-đế cử vương gia sang Đại-Việt hưng diệt, kế tuyệt, tìm con cháu nhà Lê! Ai mà tin được. Tôi xin mời một nhân vật tối ư quan trọng lên làm chứng. Nhân chứng ấy chính là sư mẫu tôi.

Từ chỗ phái Sài-sơn, một thiếu phụ, cực kỳ xinh đẹp trong lớp áo lụa đỏ, quần đen, dây lưng xanh, cổ choàng khăn xanh, khoan thai lên đài. Dưới ánh nắng chói chang, nước da trắng hồng, mái tóc đen nhánh óng ánh. Mỗi bước đi của nàng như muôn ngàn bông hoa trổ sắc. Người đó chính là Lâm Huệ-Phương. Quảng trường có hàng mấy vạn người, mà không một tiếng động. Muôn con mắt đều đổ vào Huệ-Phương. Không ai có thể ngờ, tạo hoá lại nặn ra con người đẹp đến như vậy.

Huệ-Phương lên đài, hướng vào bàn thờ Bắc-bình vương lễ tám lễ, rồi nàng tường thuật chi tiết việc Triệu Thành tới Vạn-thảo sơn trang thuyết phục Hồng-Sơn đại phu khởi binh cũng như thái độ trở mặt của Triệu Thành với Đinh Toàn. Huệ-Phương đã xinh đẹp, tiếng nói lại ngọt ngào, ai nghe cũng phải xiêu lòng.

Trước đây Thuận-Thiên hoàng-đế cùng ba vị hoàng hậu, tốn không biết bao nhiêu công phu mới tuyển được Huệ-Phương cho Khai-Quốc vương, với hy vọng Vương vừa ý, sau đó phong nàng làm Vương-phi. Bẵng đi hơn năm, trong ngày hội yến ở điện Long-hoa, hoàng-đế cũng như hoàng-hậu không thấy Huệ-Phương đến chầu. Các ngài cật vấn Vương. Vương im lặng chịu tội. Hôm sau, các ngài tới vương phủ điều tra, mới biết vương đã đem nàng trả cho Hồng-Sơn đại phu. Long tâm nổi giận vô cùng. Vì ngài cho rằng sự hy sinh của Khai-Quốc vương vô ích. Theo các ngài nghĩ Huệ-Phương ắt hùa theo Hồng-Sơn đại phu, khi việc thành, nàng đương nhiên trở thành hoàng-hậu. Chứ tội gì giúp họ Lý.

Hôm nay, trong lúc nguy nan, trước áp lực của Tống, của quần hùng, ngai vàng rung rinh, Huệ-Phương xuất hiện. Nàng không những không hùa theo giúp Hồng-Sơn đại phu mà lại thẳng thắn tố cáo âm mưu của Tống. Bất giác ngài đưa mắt nhìn Khai-Quốc vương. Trong khi Vương như ngây như dại, ngắm nhìn Huệ-Phương đắm đuối.

Huệ-Phương kết luận:

- Triệu vương gia. Tiểu nữ đa tạ vương gia đã chiếu cố tới phu quân của tiểu nữ. Xây đựng lại đại nghiệp của tổ tiên, ai mà chẳng muốn, chẳng cầu? Huống hồ phu quân của tiểu nữ. Tiểu nữ là gái Việt. Lấy chồng, chồng đứng hàng tư trên đời. Đạo lý Lĩnh-Nam định rằng, lấy chồng, phải gánh vác giang sơn nhà chồng. Đúng ra tiểu nữ phải nhất tâm, nhất dạ cùng đại phu lo lập lại chính thống Lê triều. Nhưng giữa chính thống Lê triều với việc an nguy xã tắc mấy ngàn năm của giòng Việt lại không thể cùng đứng trong trường hợp này.

Tiếng vỗ tay khắp quãng trường vang dội. Pháo thăng thiên tung lên nổ khắp bầu trời. Ban nhạc Hồng-thiết giáo, Sài-sơn cử bài Xuân Việt-nữ chiến Trường-an của Nguyễn Giao-Chi thời Lĩnh-Nam.

Đợi cho bản nhạc dứt, Triệu Thành chỉ vào Huệ-Phương hỏi Hồng-Sơn đại phu:

- Nam-Quốc vương gia! Vương gia thuộc giòng dõi chính thống của triều Lê. Xin vương gia quyết cho một điều, rằng vương gia muốn lập lại Lê triều hay không? Không lẽ vương gia quên mất sự nghiệp của tiên vương đã tốn không biết bao nhiêu tâm huyết xây dựng? Còn vị nữ lưu này có phải quý phu nhân không? Dù nàng có phải quý phu nhân, những gì nàng nói, có phải ý vương gia không?

Hồng-Sơn đại phu đứng dậy khoan thai nói:

- Dĩ nhiên nàng là tiện nội. Những điều nàng nói, nàng nhân danh con dân Đại-Việt. Xin vương gia đối thoại với nàng.

Huệ-Phương hướng về phía phái Sài-sơn, chỗ Hồng-Sơn đại phu ngồi:

- Hồi nãy, Trần tiểu thư đã nói: Gái Việt yêu nước hơn yêu chồng. Tiện nữ đành lỗi đạo với phu quân, đặt sự an nguy trăm họ lên trên hạnh phúc vợ chồng. Đặt sự nghiệp của Lê triều, sau sự nghiệp mấy nghìn năm của vua Hùng, vua An-Dương, vua Trưng. Hiện nay phía Bắc, Thiên-triều mắc vạ với Khất-đan. Phía Tây gặp Tây-hạ binh hùng tướng mạnh. Thiên-triều đành hướng xuống Nam mưu tính Đại-Việt, Chiêm-thành, Chân-lạp, Lão-qua. Sau đó đến Đại-lý. Bấy giờ có đủ lương thực, quân lính, tiến chiếm Liêu, Tây-hạ. Muốn tính Đại-Việt nhưng Thiên triều thấy đống xương ở Chi-lăng cao hơn núi, xác lấp sông Bạch-đằng chưa thông. Vì vậy phải làm cho người Việt đánh nhau. Khi cuộc nội chiến chấm dứt, võ lâm chia rẽ, tinh lực kiệt quệ, bấy giờ mới khiến Chiêm-thành từ dưới đánh lên. Lão-qua từ Tây đánh vào. Quân thiên triều từ Lưỡng-Quảng theo đường bộ tràn sang. Thủy quân Mân-Việt đổ vào vùng Thiên-trường. Sau khi chiếm được Đại-Việt, ắt Chiêm-thành, Chân-lạp, Lão-qua không đánh cũng phải qui hàng.

Triệu Thành cười ha hả, rồi nói:

- Nam-quốc vương phi. Những lời vương phi nói đó chẳng qua là lý luận. Chứ thực sự thiên triều chỉ muốn lập lại giòng giống trung thành mà thôi. Xin vương phi cho biết chứng cớ ở đâu?

Huệ-Phương mỉm cười:

- Chứng cớ ư? Ở đây có rất nhiều. Tôi để Trần tiểu thư nói ra. Vì Trần tiểu thư là một trong nạn nhân của vương gia.

Thanh-Mai vận nội lực, nói lớn:

- Triệu vương gia ơi! Triệu vương gia tài thì có tài. Nhưng phải cái vương gia khinh địch, coi Đại-Việt không người, nên việc làm của vương gia bị lộ hết rồi. Sau khi rời Vạn-thảo sơn trang, vương gia âm thầm đi Thanh-hóa, đến họp ở Hồng-hương mật cốc, phía sau chùa Sơn-tĩnh. Bọn tại hạ theo dõi biết hết.

Triệu Thành cười hả hả đánh trống lảng:

- Trần tiểu thư ái nữ của Côi-sơn đại hiệp, không lo học văn, luyện võ, mà theo dõi bọn tại hạ. Như vậy cô nương làm việc cho Khu-mật viện của họ Lý ư?

Thanh-Mai lắc đầu:

- Triệu vương gia lại quên rằng gái Việt yêu nước hơn yêu thầy, yêu cha mẹ, yêu chồng con. Khi tiểu nữ biết vương gia ẩn ẩn hiện hiện mưu hại Đại-Việt, tiểu nữ cần theo dõi. Việc phòng vệ đất nước đâu phải của Khu-mật viện, mà của tất cả con dân Đại-Việt.

Quảng trường vỗ tay vang dội. Thanh-Mai tiếp:

- Trong đêm họp ở Hồng-hương mật cốc, có bằng này người: Vương gia với các vị tùy tùng. Phía Chiêm-quốc có chưởng môn phái Phật-thệ Chế Ma-Thanh, phu nhân Mỵ-Thu, đại tướng quân Ngô Đà. Phía Lão-qua có hoàng thúc Phủ Văn cùng vương phi Nàng Chay. Phía phái Tiêu-sơn có Nguyên-Hạnh đại sư cùng phu nhân tên Cao Thạch-Phụng.

Cả quảng trường ồ lên đồng loạt, đưa mắt nhìn vào Minh-Không thiền sư. Phái Tiêu-sơn, nơi xuất thân của vua Lê Đại-Hành, của đương kim thiên tử, nơi tượng trưng cho tinh thần quốc gia. Nguyên-Hạnh là cao tăng đắc đạo, đệ tử của Bố-Đại hoà thượng. Suốt bao năm qua uy tín chùa Sơn-tĩnh muốn ngang với Tiêu-sơn. Bây giờ Thanh-Mai tố đích danh Nguyên-Hạnh họp với Tống, hơn nữa tố rõ Nguyên-Hạnh có vợ tên Cao Thạch-Phụng. Hỏi ai không kinh hoàng?

Thanh-Mai chỉ vào Phủ Văn, với Chế Ma Thanh:

- Triệu vương gia cho người dụ dỗ Phủ vương gia giết cháu, đoạt ngôi vua, sau đó đem quân đánh vào phía Tây Đại-Việt. Dụ dỗ hoàng-đệ Chế Ma Thanh chiếm ngôi vua của anh, rồi đem quân đánh vào phía Nam Đại-Việt. Vương gia lầm lẫn mất rồi. Vương gia quên rằng Quốc-tổ, Quốc-mẫu cho các hoàng tử thứ ba mươi mốt tới bốn mươi vào Nam. Hoàng tử thứ bốn mươi mốt tới năm mươi vượt núi, sang phía Tây qui dân lập ấp. Vì vậy người Chàm, người Lào, người Việt đều thuộc giòng giống Việt-thường. Hoàng thúc Phủ Văn, hoàng đệ Chế Ma Thanh một mặt giả chấp thuận đề nghị của thiên triều. Một mặt cho người báo cho Khu-mật viện Đại-Việt biết hết mọi tin tức của cuộc họp này.

Quần hùng vỗ tay hoan hô vang dội.

Thực sự ra không phải vậy. Phủ Văn, Chế Ma Thanh muốn mượn thế Tống, giết chúa lên làm vua. Chúng hối lộ vàng bạc cho Triệu Thành để được phong chức tước. Không ngờ Mỹ-Linh, Thiệu-Thái biết rõ âm mưu này, báo về cho Khai-Quốc vương. Nhân khi bọn Tống đi từ Thiên-trường về Thăng-long, bị Thanh-Mai cho người trộm hết vàng bạc, thư tín.

Khai-Quốc vương nhân đó tương kế tựu kế. Khi hai phái Phật-thệ, Vạn-tượng về Thăng-long họp anh hùng đại hội, mưu cùng với bọn Nguyên-Hạnh, cùng phái Sài-sơn, Đông-a ép Thuận-Thiên hoàng-đế thoái vị, để cho Hồng-Sơn đại phu lên ngôi, hầu thực hiện kế hoạch của Tống. Đang đêm, Khai-Quốc vương gửi Huệ-Sinh tới gặp Phủ Văn. Nùng-Sơn tử gặp Chế Ma Thanh, nói rõ cho chúng biết rằng kế hoạch đã bại lộ. Nếu hai người thuận làm theo Khu-mật viện ngôi vị vẫn được giữa nguyên. Bằng chống lại, bao nhiêu thư tín của chúng viết cho Tống đều được gửi cho vua Chiêm, vua Lào, hai người không có đường về. Gia quyến sẽ bị xử tử. Hai người líu ríu vâng lời.

Lúc Thuận-Thiên hoàng-đế lên đài tặng quà cho hai người. Khai-Quốc vương lấy nguyên số lễ vật của hai người tặng Triệu Thành, mà tặng lại cho. Hai người nhận quà mà trong lòng phát ớn lạnh.

Bây giờ nghe Thanh-Mai tố cáo, hai người cùng đứng dậy hướng vào quần hùng chắp tay hành lễ, nhận lời hoan hô, nhưng mặt đỏ lên vì ngượng ngùng. Phủ Văn móc trong túi ra trục giấy, đưa cho mọi người xem. Y chuyển vào tay Đoàn Huy, nhờ ông đọc dùm. Đoàn Huy cầm giấy xem, rồi nói:

- Trong trục giấy này là chiếu chỉ của Thiên-Thánh hoàng-đế phong cho hoàng thúc Phủ Văn làm Thái-tử thái bảo, phó đô nguyên soái. Nam phương trung thành tĩnh lự công thần. Lão-qua quận vương. Thực ấp vạn hộ. Thực phong tam thiên hộ. Vương phi được phong An-tĩnh quận chúa.

Không đừng được, Chế Ma Thanh cũng đưa ra trục giấy. Đoàn Huy đọc:

- Trong trục giấy này, là chiếu chỉ của Thiên-Thánh hoàng-đế phong cho hoàng đệ Chế Ma Thanh làm Kiểm hiệu thái sư, tĩnh hải tiết độ sứ, đồng bình chương sự. Suy thành thuận hoá công thần. Chiêm-thành quận vương. Thực ấp vạn hộ. Thực phong ngũ thiên hộ. Vương phi Mỵ-Thu được phong Khâm-linh quận chúa. Đại tướng Ngô Đà làm Nội điện chỉ huy sứ, tước Ma-linh hầu. Thực ấp nhị thiên hộ. Thực phong nhất thiên hộ.

Thanh-Mai đỡ lấy hai cuốn trục, trao cho Triệu Thành:

- Vương gia lầm lẫn quá nhiều. Các vị đây, người hoàng-thúc, kẻ hoàng-đệ. Khi không ai dại gì mà giết chúa, để lĩnh lấy hai tờ giấy vô giá trị của vương gia?

Thình lình Thanh-Mai từ trên đài vọt mình lên cao, nhấp nhô mấy cái, đã đến phía sau khán đài phái Tiêu-sơn. Nàng quát lớn:

- Nguyên-Hạnh! Đứng lại, mi trốn đâu cho thoát!

Nàng vừa đáp xuống, xung quanh Nguyên-Hạnh đã có bốn vị sư bao vây, đó là Sùng-Văn, Sùng-Đức, Sùng-Tín, Sùng-Không. Bốn vị cùng cung kính nói:

- Sự thể thế nào xin phương trượng lên đài trả lời Trần tiểu thư, chứ có đâu bỏ chạy?

Mặt Nguyên-Hạnh tái nhợt. Y đành lên đài, đứng đối diện với Thanh-Mai. Thanh-Mai tiếp:

- Triệu vương gia. Vị này có tên Dương Bá, thực ra họ Hồ. Nguyên xuất thân đệ tử của bang trưởng bang Nhật-hồ Trung-quốc, tức Hồng-thiết giáo ẩn danh. Khi quân Tống bao vây, diệt tổng đàn Nhật-Hồ bắt được đệ tử của bang trưởng là Hồ Dương-Bá cùng con gái tên Đỗ Lệ-Thanh. Hai người lạy van xin dung tha. Khu-mật viện Tống triều bèn đem tất cả thân thuộc họ Đỗ về Biện-kinh an trí. Một mặt cho hai người sang Đại-Việt tìm cách ẩn thân, hầu sau này quân Tống sang, còn làm nội ứng.

Thế rồi nàng thuật hết việc Hồ Dương-Bá, Đỗ Lệ-Thanh sang Đại-Việt, ẩn thân vào làm đệ tử chùa Tiêu-sơn, gây dựng cơ sở như thế nào. Nguyên-Hạnh làm đệ tử Bố-Đại hoà thượng. Y giam Đỗ Lệ-Thanh cùng bồ tát Bố-Đại, Sùng-Phạm trong Hồng-hương mật cốc ra sao. Nguyên-Hạnh tổ chức thiếu niên Hồng-hương, mưu làm nội ứng thế nào...Cùng bắt giam thiếu nữ để hành lạc trong Hồng-hương mật cốc. Cho đến khi Mỹ-Linh, Thiệu-Thái khám phá ra...

Mặt Nguyên-Hạnh vẫn trơ ra:

- Trần cô nương! Người bịa ra nhiều truyện hoang đường quá, ai mà tin được? Cô nương bảo bần tăng có vợ, có con. Chứng cớ ở đâu?

Y cãi gượng gạo.

Lập tức Đỗ Lệ-Thanh từ dưới đài bước lên. Mụ chỉ tay vào mặt Hồ Dương-Bá:

- Sư huynh! Người với ta là sư huynh, sư đệ. Thân phụ ta thương người, gả ta cho người. Thế rồi khi chúng ta hàng Tống, cùng mật ước rằng âm thầm dùng Chu-sa Nhật-Hồ độc chưởng, dần dần không chế triều Tống, lập lại nhà Chu. Khu-mật viện triều Tống sai chúng ta sang Đại-Việt đái tội lập công. Người với ta cùng thề sẽ có ngày trốn về Trung-nguyên. Khi người trở thành phương trượng chùa Sơn-tĩnh, người giam sư phụ Bố-Đại, sư thúc Sùng-Phạm, ép hai vị dạy cho thuật xuất hồn. Người đâu biết rằng người đi tu đắc đạo mới xuất được hồn, chứ nào có truyền cho nhau được?

Quảng trường ồn lên những tiếng bàn tán. Vì Sùng-Phạm, một vị Bồ-tát đắc đạo. Ngài nổi tiếng cùng một lúc với Vạn-Hạnh thiền sư. Gần đây không ai biết ngài đi đâu. Nào ngờ ngài bị Nguyên-Hạnh bắt giam. Còn Bố-Đại hoà thượng, dân chúng tin rằng ngài là Phật Di-Lặc giáng sinh. Cho nên khi Đỗ Lệ-Thanh nhắc đến hai ngài, khiến người người đều chú ý lắng tai nghe.

Bà nghiến răng vào nhau:

- Sau khi ta khám phá ra mi gian dâm với Cao Thạch-Phụng. Mi giam tra khảo bắt ta khai ra Hồng-thiết tâm pháp cùng thuốc giải Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng. Ta nhất định không khai. Vì ta biết, nếu ta khai ra người sẽ giết ta. Hơn mười năm, đêm đêm người hành lạc với con tiện nhân Cao Thạch-Phụng. Mi trói ta, bắt ta phải nhìn trò bỉ ổi của mi.

Bà chỉ vào Mỹ-Linh:

- Cho đến khi công chúa Bình-Dương cùng thế tử Thân Thiệu-Thái khám phá ra Hồng-hương mật cốc. Mi giam hai người vào trong hang với ta.

Tiếp theo bà thuật việc Bố-Đại cũng như Sùng-Phạm dư sức bẻ song sắt thát ra. Nhưng hai ngài muốn ở tù để giải hết nghiệp. Khi gặp Thiệu-Thái, Sùng-Phạm truyền cho chàng một trăm năm công lực, rồi viên tịch. Thiệu-Thái, Mỹ-Linh bẻ song sắt cứu bà, đốt xác Hồng-hương thiếu niên trốn đi hầu đánh lừa Nguyên-Hạnh. Sau cùng với sự xuất hiện của Chu An-Bình, Chu An-Khôi, Chu An-Việt v.v.

Bà hướng vào phía đệ tử của Sơn-tĩnh gọi:

- Hạnh-Chân, Hạnh-Như. Hai con đâu?

Hai nhà sư trẻ từ dưới đài bước lên, quỳ gối lạy Đỗ Lệ-Thanh:

- Mẫu thân.

Đỗ Lệ-Thanh ôm lấy hai con, mặt đầy nước mắt. Bà nói với Nguyên-Hạnh:

- Khi ta được công chúa Bình-Dương cùng thế tử Thân Thiệu-Thái cứu ra. Ta đã tìm thăm hai đứa con, cho chúng biết ta vẫn còn tại thế, dặn chúng phải có mặt hôm nay làm chứng. Mi còn chối nữa hay không?

Thanh-Mai đưa ra cuốn trục:

- Đây, sắc phong cho Hồ Dương-Bá làm Đô nguyên soái, Long-biên quốc công, Giao-chỉ kinh lược sứ. Còn đây sắc phong thứ nhì cho Hồ Dương-Bá làm Quốc sư thông huyền Bồ-tát Và phu nhân Cao-thạch-Phụng làm Túc không quan âm.

Nàng hướng vào Minh-Không thiền sư:

- A-di-đà Phật! Xin Quốc sư dạy cho một lời.

Minh-Không đáp:

- Nghiệp dĩ Nguyên-Hạnh nặng quá. Tội của người xin để cho luật lệ Đại-Việt xử.

Thanh-Mai hỏi Minh-Không:

- Minh-Không đại sư! Xin đại sư cho biết gã Hồ Dương-Bá này có còn liên hệ với phải Tiêu-sơn nữa không?

Minh-Không đáp:

- Y dối sư phụ xin qui y, xin thọ giới. Như vậy cả qui y lẫn thọ giới đều không thực. Y hết còn tư cách đệ tử phái Tiêu-sơn.

Đỗ Lệ-Thanh quỳ gối trước Tự-An:

- Cách đây hơn năm, tiểu tỳ đến trang Thiên-trường, được đại hiệp hứa đứng ra chủ trì công đạo cho vụ này. Hôm nay kẻ thù trước mắt, xin đại hiệp ra tay cho.

Tự-An phẩy tay cho bà đứng dậy:

- Phu nhân bình tâm. Ta đã hứa tất làm.

Ông bảo Thanh-Mai:

- Nếu y là đại sư Nguyên-Hạnh, bố phải ra tay. Còn y trở lại thành Hồ Dương-Bá, con dạy dỗ y mấy chiêu được rồi.

Thình lình Nguyên-Hạnh phóng chưởng tấn công Thanh-Mai. Trong ý nghĩ, y phải giết nàng, nên y vận đủ mười thành công lực. Chiêu chưởng đánh ra như vũ bão. Trong chưởng có mùi hôi tanh nồng nặc.

Thanh-Mai phản ứng rất nhanh. Nàng lùi một bước, trả lại bằng một chiêu Đông-a chưởng. Binh một tiếng, Nguyên-Hạnh rùng mình lùi lại một bước. Trong khi Thanh-Mai thản nhiên như không.

Tự-An quát lớn:

- Khoan!

Ông nói với Hồ Dương-Bá:

- Hồ nguyên soái. Người lập công lớn với triều Tống, tước đã phong tới hầu, chức tới Đô nguyên-soái. Trong đẳng trật võ quan triều Tống, Đô nguyên-soái lớn cực phẩm. Đấy nói về quan chức. Còn nói về võ công, dường như người chỉ thua có quốc sư Minh-Không. Chúng ta khám phá ra người ẩn ở Đại-Việt, người có tội với Đại-Việt. Còn đối với Tống triều người thành đại công thần. Tại sao người không giám nhận cái danh dự của mình?

Nghe Tự-An nói vậy, Triệu Thành nghĩ rất nhanh:

- Tên Trần Tự-An quả xứng danh Côi-sơn đại hiệp. Ta những tưởng chối biến việc Khu-mật viên sai Nguyên-Hạnh sang Đại-Việt. Như vậy vẫn tiếp tục dùng bọn Lê Long-Mang được. Y dồn Nguyên-Hạnh đến chỗ chết, rồi lại khai ra con đường thoát thân bằng cách nhận tội. Nếu Nguyên-Hạnh nhận hết tội, đương nhiên ta cứu y thoát chết, nhưng mưu đồ e hỏng bét.

Nghĩ vậy y nháy mắt cho Nguyên-Hạnh tỏ ý bảo, đừng nhận.

Nhưng Nguyên-Hạnh lại nghĩ khác:

- Ta nhận hết, như vậy chắc chắn thoát chết. Vương gia có giận cũng chẳng đi đến đâu.