Bí Ẩn Tông Đồ Thứ 13

Chương 79




Cha Nil đi qua quảng trường Saint Peter, và máy móc ngước mắt lên: cửa sổ phòng Giáo hoàng vẫn sáng đèn. Ngay ngày mai ông sẽ nói với Breczinsky, chỉ cho ông ấy vị trí của vỏ thùng Cognac có đánh dấu MMM và nhờ ông ấy nói lại lời nhắn của ông đến vị Giáo hoàng già. Ông bước vào đường Aurelia.

Đến thềm nghỉ ở tầng ba, ông dừng lại: qua cánh cửa, ông nghe thấy Leeland đang chơi bản Gymnopédie thứ hai của Erik Satie. Giai điệu nhẹ nhàng thể hiện nỗi u sầu vô tận, nỗi tuyệt vọng nhuốm màu hài hước và nhạo báng. “Rembert… Sự hài hước của cậu có giúp cậu vượt qua nỗi tuyệt vọng của chính cậu không?” Ông khẽ gõ vào cánh cửa.

- Vào đi, tớ đang sốt ruột chờ cậu đây.

Cha Nil ngồi xuống, gần chiếc đàn piano.

- Remby, tại sao cậu rời kho sách trước khi tớ quay trở lại?

- Breczinsky đến thông báo với tớ vào lúc mười tám giờ: phải đóng cửa, ông ấy nói thế. Ông ấy có vẻ rất lo lắng. Nhưng chuyện đó không quan trọng: nói xem, cậu có phát hiện được gì không?

Cha Nil không chia sẻ được sự vô tư của Leeland: sự vắng mặt của Breczinsky khiến ông lo lắng. “Tại sao ông ấy không ở đó như đã thống nhất, khi mình quay lại?” Ông gạt ý nghĩ này ra khỏi đầu.

- Ừ, tớ đã tìm thấy cái mà cha Andrei và tớ tìm kiếm từ bấy lâu nay: một bản nguyên vẹn bức thư của tông đồ thứ mười ba, thực ra là bản gốc.

- Tuyệt vời! Nhưng bức thư này… nó khủng khiếp đến thế sao?

- Nó ngắn thôi, và tớ thuộc lòng rồi. Origène nói đúng, nó chứa đựng bằng chứng không thể chối cãi rằng Jesus không phải đã sống lại như Giáo hội rao giảng. Như vậy, Người không phải là Chúa: nấm mồ trống ở Jerusalem, trên đó mộ Chúa Jesus được xây lên, là một sự lừa bịp. Nấm mồ thật sự trong đó chứa đựng xương cốt của Jesus nằm đâu đó trên sa mạc.

Leeland có vẻ sửng sốt:

- Trên sa mạc! Nhưng chính xác là ở đâu?

- Tông đồ thứ mười ba từ chối nêu chính xác vị trí nấm mồ, nhằm bảo vệ thi thể Jesus khỏi sự thèm muốn của loài người: ông ấy chỉ nói đến sa mạc Idumea, một vùng rộng lớn ở phía Nam Israel, giới hạn của nó đã thay đổi nhiều theo thời gian. Nhưng ngành khảo cổ học đã có những tiến bộ đáng kể: nếu sử dụng phương tiện, người ta sẽ tìm ra. Một bộ xương đặt trong một nghĩa trang bị bỏ quên của người Esseni trong vùng này, mang những dấu vết của việc đóng đinh câu rút, được xác định bằng phương pháp carbon 14 là có niên đại vào giữa thế kể I có thể sẽ gây ra một cơn địa chấn ở phương Tây.

- Cậu có công bố những kết quả tìm kiếm của cậu cho cả thế giới biết về bức thư này và đi cùng những đoàn khảo cổ không? Nil, cậu có muốn người ta tìm lại được nấm mồ này không?

Cha Nil im lặng một lát. Trong đầu ông vẫn vang vọng giai điệu của Satie.

- Tớ sẽ đi theo tông đồ thứ mười ba đến cùng. Nếu lời chứng của ông ấy được Lịch sử ghi nhận, thì hẳn sẽ không bao giờ có Giáo hội Cơ Đốc. Chính vì biết rõ điều đó mà Mười hai tông đồ đã từ chối coi ông ấy là một người trong số họ. Hãy nhớ đến bản khắc ở Germigny: chỉ có mười hai người được chứng kiến Jesus, mãi mãi là thế, alpha và omega. Liệu hai mươi thế kỷ sau, có cần thiết phải xem xét lại tòa nhà mà họ đã xây lên trên nấm mồ rỗng đó không? Ngày nay, mộ phần của tông đồ Peter đánh dấu trung tâm của nền Cơ Đốc giáo. Thay cho một nấm mồ rỗng, người ta đã xây lên một nấm mồ đầy đủ, nấm mồ của người đầu tiên trong số mười hai tông đồ. Sau đó Giáo hội đã tạo ra các thánh lễ, để mỗi người trên hành tinh này có thể trực tiếp liên hệ với Chúa. Nếu tước mất của các tín đồ điều này, thì họ còn lại gì? Jesus yêu cầu làm theo Người hàng ngày, và phương pháp duy nhất Người đề xuất là cầu nguyện. Nhưng dân chúng, và cả một nền văn minh, chỉ có thể được dẫn dắt bởi những phương tiện cụ thể, có thể sờ mó được. Tác giả của bức thư đã đúng: đặt lại xương cốt của Jesus vào trong mộ Chúa có thể sẽ biến nấm mộ này thành vật duy nhất để chiêm ngưỡng đối với những đám đông cả tin. Việc đó sẽ khiến những người hèn mọn và bé nhỏ vĩnh viễn bị chệch hướng tiếp cận với một vị Chúa vô hình, thông qua các phương tiện vốn bấy lâu nay vẫn thuộc về họ: thánh lễ.

- Thế thì cậu sẽ làm gì?

- Báo cho Đức Thánh Cha về sự tồn tại của bức thư, cho ngài biết về vị trí của nó. Ngài sẽ phải nắm giữ thêm một bí mật nữa, vậy thôi. Khi nào trở về tu viện, tớ sẽ chôn vùi kết quả tìm kiếm của tớ trong sự câm lặng của tu viện. Chỉ trừ một thứ mà tớ muốn công bố không chậm trễ: vai trò của những người Nazareth trong sự ra đời của kinh Coran.

Ở tầng dưới, Moktak đã chu đáo ghi âm hai bản Gymnopédie của Satie, rồi từ sau lúc cha Nil vào phòng và bắt đầu trò chuyện. Đến lúc này, hắn áp chặt tai nghe vào tai.

- Bức thư tông đồ thứ mười ba đã cho cậu biết thêm điều gì mới về kinh Coran à?

- Ông ấy gửi bức thư này đến các Giáo hội, nhưng trên thực tế nó được dành cho các môn đồ của ông ấy, những người Nazareth. Cuối cùng, ông ấy đã đề nghị họ hãy trung thành với lời chứng và lời dạy của ông ấy về Jesus, dù họ có phải lưu đày đến đâu đi nữa. Như vậy, ông ấy đã khẳng định điều mà tớ vẫn ngờ vực: sau một thời gian trốn ở Pella, họ lại phải lên đường, hẳn là trước cuộc xâm lược của người La Mã vào năm 70. Không ai biết sau đó họ ra sao, nhưng dường như cũng không ai nhận ra rằng, trong kinh Coran, Muhammad thường xuyên nói đến các naçâra, từ này luôn được dịch thành “những người Cơ Đốc”. Trên thực tế, naçâra là từ Ả Rập để chỉ “người Nazareth”!

- Kết luận của cậu là gì?

- Muhammad hẳn đã gặp người Nazareth ở Mecca, nơi họ ẩn náu sau khi đi khỏi Pella. Bị quyến rũ bởi những lời giảng dạy của họ, chính ông ấy cũng suýt trở thành một người trong số họ. Rồi ông ấy trốn đến Medina, nơi ông ấy trở thành thủ lĩnh: chính trị và bạo lực đã chiếm ưu thế, nhưng ông ấy vĩnh viễn đã mang dấu ấn của Jesus xứ Nazareth, Jesus của tông đồ thứ mười ba. Nếu Muhammad không bị giày vò bởi ham muốn chinh phục, có lẽ đạo Hồi sẽ không bao giờ ra đời, người Hồi giáo hẳn sẽ là hậu duệ của người Nazareth, giá chữ thập của nhà truyền giáo Jesus có lẽ sẽ nổi trên ngọn cờ của đạo Hồi!

Leeland có vẻ bị lây sự phấn khích của bạn mình.

- Tớ có thể đảm bảo với cậu rằng dù thế nào thì các giảng viên đại học ở Mỹ cũng sẽ say mê với những công trình của cậu! Tớ sẽ giúp cậu làm quen với họ ở đó.

- Tưởng tượng xem, Remby! Cuối cùng người Hồi giáo cũng chấp nhận rằng bộ kinh thiêng liêng của họ mang dấu ấn một người thân của Jesus, người cũng bị Giáo hội loại bỏ vì đã phủ nhận thiên chất của Người, giống như họ! Có thể đây sẽ là cơ sở mới để người Hồi giáo, người Cơ Đốc và người Do Thái xích lại gần nhau. Và hẳn là khi đó việc Djihad chống lại phương Tây sẽ chấm dứt!

Mặt Moktar đột ngột nhăn nhúm lại. Căm thù trào lên, hắn chỉ nghe cuộc trò chuyện bằng một tai: cha Nil đang hỏi Leeland về những dự định của ông ta, xem ông ta sẽ làm thế nào để giấu Catzinger tất cả chuyện này. Liệu Leeland có đủ khả năng chống chọi với áp lực để không nói gì với ông ta không? Điều gì sẽ xảy ra nếu Hồng y chuyển từ đe dọa sang hành động, và công bố rộng rãi mối quan hệ ưu ái của ông ta với Anselm?

Họ chuyện trò dông dài như đàn bà: những chuyện này không khiến người Palestin quan tâm nữa, hắn nhấc tai nghe ra. Hai người này vừa vượt quá đường biên giới cấm: Không được động đến kinh Coran. Các học giả đạo Cơ đốc cứ việc chọc thủng điều bí mật giấu trong kinh Phúc âm, đó là vấn đề của họ. Nhưng không bao giờ được đưa kinh Coran ra để áp dụng những phương pháp chú giải báng bổ của họ, trường đại học Al-Azhar phản đối sự chối bỏ này. Không ai được phân tích lời thánh Allah do Đấng Tiên tri của Người truyền lại, cầu cho tên Người được ban phúc.

Muhammad mà lại là môn đồ bí mật của Jesus người Do Thái! Tu sĩ người Pháp đó có thể sẽ áp dụng những phương pháp của kẻ dị giáo với văn tự thiêng này, ông ta có thể sẽ công bố những kết quả nghiên cứu với sự giúp đỡ của người Mỹ kia. Trong tay nước Mỹ, tay sai của Israel, những công trình của ông ta sẽ trở thành một vũ khí kinh hoàng chống lại đạo Hồi.

Trán nhăn lại, hắn cuộn lại những cuốn băng từ và tự nhắc mình một câu mà hắn thường xuyên nhắc với sinh viên của mình: “Những kẻ dị giáo, hãy bắt và giết chúng ở bất kỳ nơi nào các con gặp chúng”![[53]]

Moktar cảm thấy được an ủi: Đấng Tiên tri, cầu cho tên Người được ban phúc, đã quyết định dứt khoát.