Câu Hỏi Tình Yêu

Chương 15




Tom và tôi không biết mấy giờ thì có điện trở lại, bởi vì sau đó chúng tôi lăn ra ngủ. Anh đề nghị ngủ trên sàn nhà, nhưng cuối cùng chúng tôi cùng ngủ trên sofa, với anh tựa vào một bên tay ghế, trong khi tôi nửa co nửa duỗi, đầu gối lên đùi anh. Chúng tôi tỉnh dậy, đau nhức khắp các khớp xương.

“Chúa ơi, đã bảy giờ năm phút rồi.” Tom lào khào kêu lên. Anh với lấy cái radio. “Óa, cái cổ của tôi.”

“Hiện nay nguồn điện đã được phục hồi. Sự cố mất điện được cho là gây ra bởi một sai sót ở ga xép Hurst, ở gần Bexley, Kent. Sự cố này đã kéo dài tổng cộng sáu tiếng rưỡi...”

Chúng tôi nghe thấy tiếng xe tải tiến đến từ bên ngoài. Tom đứng dậy và nhìn ra ngoài cửa sổ.

“Đó là Arnie. Anh ấy nói sẽ đến lúc bảy giờ.” Chúng tôi nghe thấy tiếng cửa xe mở ra, rồi sập lại, sau đó là giọng đàn ông. Tôi nhìn ra, có ba người thợ sơn sửa trong bộ đồ trắng toát. Tom chạy xuống dưới để mở cửa cho họ.

“Chào buổi sáng.” Một trong những người thợ nói khi tôi xuống cầu thang. Anh ta đang ôm một bình sơn lớn trên một tay và chiếc thang xếp trên tay còn lại.

“Chào buổi sáng... Tôi chuẩn bị đi rồi.”

“Cảm ơn em đã giúp đỡ.” Tom nói. Anh ôm lấy tôi, và giữ tôi tựa vào anh một lát. “Anh sẽ gọi cho em sau.”

Tôi về nhà, chớp mắt trước ánh mặt trời chói lọi trong khi bước xuyên qua những con phố vắng tanh - rồi sau đó bò lên giường và ngủ thiếp đi.

Tôi tỉnh dậy vào giữa ngày, vẫn còn đau nhức, và ngâm mình trong bồn tắm nước nóng, với một chiếc khăn flannel úp lên mặt, nghĩ về cuộc nói chuyện mới diễn ra vài giờ trước đó.

... giống như một cái hố trong trái tim...

Cô ấy làm anh đau đớn

Cô ấy gặp ‘tình yêu sét đánh’...

Em có nghiêm túc nghĩ rằng...?

... bỏ rơi con đẻ của mình...?

- Em nên tin tưởng anh cho dù mọi việc trông có vẻ như thế nào đi chăng nữa.

***

Đáng lẽ tôi phải làm được thế. Thay vào đó, tôi lại mất ba năm tin rằng Tom đã làm một điều kinh khủng. Nếu như tôi không nghĩ như thế - thì tôi sẽ có thể nhìn anh với con mắt như thế nào đây? Tôi tự hỏi...

Qua khung cửa sổ phòng tắm đang để mở, tôi có thể nghe thấy tiếng kèn rú rít, và tiếng còi xe đạp ầm ĩ. Những người phản đối Ngày lễ Tháng Năm. Trên phố hẳn sẽ đông kín bọn họ, đặc biệt là với cuộc Tổng tuyển cử. Tôi quyết định ra ngoài quan sát. Khi tôi mặc quần áo, máy di động kêu bíp bíp - có năm cuộc gọi lỡ - ba cuộc của Luke và hai của Felicity. Sau đó tôi nghe máy trả lời tự động. Luke để lại ba tin, và Fliss hai. Đột nhiên chuông điện thoại kêu vang. Chính là chị ấy.

“Em đã ở đâu thế?” Giọng chị ấy buộc tội.

“Ồ...” Tôi quá mệt để mà giải thích. “Làm việc.” Tôi nói, đó là sự thật.

“Này, ở đây đang thực sự là địa ngục đây - anh ấy đã ra ngoài với Olivia nên không thể nghe thấy được - nhưng khi chị hỏi thẳng về mấy cái email thì anh ấy đã thừa nhận đã quá thân mật với Chantal.”

“Thế có chuyện gì thực sự xảy ra giữa họ chưa?”

“Chưa... nhưng ơn Chúa là chị đã kiểm tra máy tính của anh ấy, nếu không thì sẽ có chuyện đấy - chính anh ấy nói thế. Nhưng đó là hai mươi tư giờ kinh khủng nhất - và rồi điều khủng khiếp nhất chính là vụ mất điện chết tiệt đó! Sáng nay chị kiểm tra tủ lạnh - có mười sáu chai sữa mẹ ở đó, tất cả đều hỏng cả! ÔiChúaơiHughvừaquayvềkhôngthểnóitiếpchào.”

Và khi tôi vẫn còn đang thắc mắc vì sao Felicity lại có mười sáu chai sữa mẹ ở trong tủ lạnh thì điện thoại lại reo vang.

“Laura!” Là Luke. “Cảm ơn Chúa, anh không thể gọi được vào di động của em vì lý do nào đó - có tiếng phụ nữ thật khó chịu cứ nói rằng cuộc gọi từ số máy này không được chấp thuận hay gì đó. Dù sao đi chăng nữa, anh đang trên đường ra sân bay Marco Polo và rồi anh sẽ quay về, sau đó chúng ta sẽ nói chuyện và anh không thể chờ được...” Tôi gác máy, rồi nhấn mã.

“Cuộc gọi từ số máy này đã bị chặn.” Giọng nói tự động vang lên. “Cảm ơn.”

Sau đó tôi lấy ra chiếc váy ngủ vẫn còn ở trong túi đựng hàng, chưa hề được mặc. Nó thật đẹp, với những họa tiết hoa tu líp hồng - nhưng giờ nó đã trở nên không có giá trị. Tôi tự hỏi phải làm gì? Quyên tặng cho Oxfam, tôi cân nhắc, hay cho Hope hoặc Fliss hoặc mẹ, như thế thật tử tế hay là...

“ÔIIIIIIIIIII!” THÙM! THÙM!!

Cynthia. Tôi sẽ tặng cho bà ấy. Tôi lại cho nó vào túi và lên tầng trên.

“ÔIIIIIIIIII!” THÙM! THÙM!! THÙM!!!!

Tôi gõ cửa thật mạnh để bà ấy có thể nghe thấy.

“Laura!” Bà ấy kêu lên và mở cửa ra, nhìn tôi rạng rỡ. “Đáng yêu làm sao. Vào đi!” Khi tôi đi theo bà ấy vào trong, tôi nhận ra bà ấy lại đang mang một mùi hương khác - lần này là gì nhỉ? Ồ đúng rồi - sản phẩm mới của Chanel - Chance. “Uống cà phê với tôi nhé,” bà ấy nói. “Tôi vừa mới pha một bình.”

“Ok - cảm ơn - nhưng tôi không ở lại lâu đâu. Trời đẹp quá làm tôi chỉ muốn ra ngoài kia và...”

“Nắm lấy ngày hôm nay,” bà ấy nói nốt hộ tôi. “Ý kiến hay đấy. Hãy tận hưởng nhiều nhất từ nó, cô gái của tôi. Trích dẫn Philip Larkin, ‘Ngày là nơi chúng ta sống... Ở đó thật là hạnh phúc’” -THÙM!! - “Nhưng cái TV chết tiệt này...”

“Bà đang cố xem chương trình gì thế?”

“ITV đang có một chương trình đặc biệt dài hai tiếng - Một trăm bộ phim tệ nhất thế giới từ trước tới nay - và tôi thực sự muốn xem.”

“Vì sao?”

“Bởi vì,” bà ấy nói với vẻ tự hào. “Bảy phim trong số đó là của tôi.”

Bà ấy lại nện cái TV lần nữa. Tôi cúi xuống và kiểm tra bảng điều khiển, sau đó xoay nhẹ một trong những cái nút ở phía sau. Hình ảnh trên TV nhập nhằng rồi ổn định trở lại. “Đấy.”

“Ôi cảm ơn cô, Laura. Nút đó là nút nào thế?”

“Cái này, ở đây.”

“Tôi chưa hề biết đến nó.” Bà ấy nói.

“Thế bà ổn cả khi mất điện chứ?” Tôi hỏi ấy bà.

“Tôi ổn - tôi thích bóng tối. Tôi nhìn mọi thứ rõ ràng hơn. Cô có hiểu điều đó không?”

“C-có.” Tôi nói. Sau buổi tối hôm qua, tôi đã có thể hiểu. “Tôi có một thứ tặng bà, Cynthia.”

“Thật chứ?” Tôi đưa bà ấy cái túi, và bà mở nó ra. “Ôi!” Bà ấy giơ chiếc váy lên, rồi tròng nó vào người - cái váy ngủ trông thật đẹp trên người bà ấy - và bà ấy ngắm nghía nó qua chiếc gương phía trên lò sưởi. “Thật đáng yêu làm sao, Laura.” Bà ấy nói trong khi tay vuốt ve cái thắt lưng. “Nhưng cô không nên tặng tôi, ý tôi là, cô thật quá tử tế nhưng...” Bà ấy chớp mắt vẻ bối rối. “Cô không muốn nó sao?”

“Không. Đó là một món quà không mong muốn.” Tôi giải thích.

“Ồ. Từ...?” Tôi gật đầu. “Không hòa hợp à?”

Tôi lắc đầu. “Tôi e là tiên đoán của bà đã đúng.”

“Tôi biết mà.” Bà ấy nói trong lúc rót cho tôi một tách cà phê, “ngay từ cái lúc tôi nhìn thấy cậu ta. Đó là cái thứ phát tiết ra từ cậu ta, cô biết đấy. Quá nhiều màu cam - nó chọi với màu hoa cà của cô.”

“Tôi đã rất tùy tiện về công việc của bà,” Tôi nói. “Tôi đã phán xét quá vội vã. Tôi xin lỗi.”

“Cô đã cho rằng đó là những lời ‘huyên thuyên’.” Bà ấy nói với vẻ thoải mái.

“Đúng là tôi đã nghĩ thế. Nhưng giờ tôi đã bớt đa nghi hơn trước rồi.”

“Vậy là có nhiều thứ hơn trên thiên đàng và trái đất...”

“Phải, rõ ràng là có.”

Tôi nhặt lên một tờ bướm của bà ấy. Hãy để bà đồng Cynthia dự đoán quá khứ, hiện tại và tương lai của bạn.

Trong khi tôi nhấm nháp cà phê, tôi nhận ra Cynthia đã đoán đúng về cuộc đời của tôi nhiều biết bao - đúng là tôi đã mất hai người: cô biết họ chưa lâu... cô yêu họ. Cô không muốn nó kết thúc...Điều đó quá chính xác. Dự đoán của bà về cuộc sống hiện tại của tôi cũng chính xác luôn. Tình yêu đang đến với cô. Nhưng không phải với anh ta. Còn về tương lai...

“Một kết cục đang đến, Laura. Tôi có thể thấy nó...” Tôi nghe bà ấy nói. Ý bà ấy là kết cục của tôi với Luke - nhưng với tôi, nó đã xảy ra hai mươi tư giờ trước rồi. “Và có một sự khởi đầu mới.” Bà ấy nhấm nháp tách cà phê của mình, rồi nhắm mắt lại. “Tôi nhìn thấy một cái hồ.” Bà ấy nói sau một giây.

Tôi mỉm cười. “Thật không?”

“Thật. Một cái hồ tuyệt đẹp - trên một vùng hoang vu rộng lớn. Lá cây toàn bộ màu vàng. Đó là mùa thu. Và có vài con thú. Giờ tôi đang kết nối với chúng đây.” Mí mắt bà ấy nhấp nháy. “Tôi không chắc lắm nó là loài gì. Chờ chút...” Bà nghiêng đầu sang một bên. “Thật kỳ quặc, bà nói, lông mày nhíu lại, “Nó trông giống... một con kangaroo...”

“Không phải kangaroo đâu,” Tôi vui sướng nói, “Đó là một con wallaby.”

Từ bên ngoài chúng tôi có thể nghe thấy tiếng kèn rú rít và chiếc hô hào ầm ĩ của những người phản đối Ngày Lễ Tháng Năm.

“Dù sao đi nữa, cảm ơn bà vì đã mời cà phê, Cynthia. Giờ tôi ra ngoài dạo một chút. Ngoài kia nghe có vẻ khá náo nhiệt.”

“Cảm ơn cô, Laura - vì cái này.” Bà ấy vỗ vỗ lên cái váy. “Tôi sẽ không bao giờ muốn cởi nó ra đâu.”

Tôi cuốc bộ xuống cuối Đường Dunchurch và ở đó, cắt phía trên Ladbroke Grove là những con phố dành cho người đi xe đạp - rải rác phía trên đồi, có lẽ khoảng hai trăm người, tất cả đều thổi kèn và huýt còi - và cùng với họ, những người biểu tình chống chủ nghĩa tư bản trong mặt nạ Bush và Blair cùng với những bộ cánh rộng thùng thình. Khung cảnh hơi giống với lễ hội Notting Hill Carnival[1].

[1] Lễ hội được tổ chức hàng năm tại Notting Hill, London. Lễ hội này do cộng đồng người Trinidad và Tobago nhập cư tổ chức với sự hưởng ứng của những người nhập cư từ Carribe đã tạo nên không khí lễ hội hoành tráng. (ND)

Không Bom, không Ông chủ, không Biên giới! Là nội dung trên những tấm banner. Bắn phá đậu Pea - Không bắn phá nguyên tử! Những khẩu hiệu được trang trí ở sau lưng, trên mặt và những tấm áp phích lớn. Đoàn kết với những người tìm kiếm nơi ăn chốn ở - Giải phóng hoạt động của con người chứ không phải hàng hóa! Nhiều miếng ăn ít chiến tranh! Những người chống đối ăn mặc như những tên hề, những tên cướp biển hay những giáo chức, hay chỉ quấn mình trong những trang báo xé từ tờ Financial Times. Một người đi xe đạp mặc bộ chơi cricket màu trắng, với dòng chữ Đập tan chủ nghĩa tư bản thứ Sáu! trang hoàng trên áo. Hai người vô chính phủ giơ một tấm banner lớn: Tại sao Cảnh sát lại được độc quyền dùng bạo lực? Trong khi đó chính toán cảnh sát lại đang lo lắng nhìn đám người chống đối thổi kèn đồng thời cố tỏ ra không lo lắng.

“Thêm một lời nữa là tôi sẽ bắt ông.” Tôi nghe một sĩ quan nói với một người đàn ông mặc một chiếc váy cưới bằng ren.

“Cảnh sát cút đi!”

“Thêm một lời nữa là tôi sẽ bắt ông.”

“Cảnh sát cút đi!”

“Thêm một lời nữa là tôi sẽ bắt ông.”

“Cảnh sát cút đi!”

Điện thoại di động của tôi đổ chuông.

“Laura?”

“Tom.” Tôi vặt to volume lên để có thể nghe thấy anh nói. “Anh thế nào?” Tôi hỏi, dí ngón trỏ vào tai trái.

“Anh ổn, còn em?”

“Em ổn, cảm ơn anh.”

“Tốt. Giờ anh có một câu hỏi vô cùng nghiêm túc dành cho em đây.”

“Vâng?” Tôi mỉm cười. “Là gì thế?”

“Chà... có thật là em đã nói với Nerys rằng theo quan điểm của em thì anh là người đàn ông lộng lẫy nhất, đẹp trai nhất, tuyệt vời nhất, tuyệt diệu nhất, sexy nhất và lỗi lạc nhất mà em từng để mắt tới? Bởi vì cô ấy vừa mới ghé qua để xem mọi việc ở đây diễn tiến thế nào, và cô ấy bảo với anh là em đã nói với cô ấy đúng như thế, không hề phóng đại. Dĩ nhiên anh là người quá khiêm tốn để mà tin ngay điều đó.” Anh thêm vào. “Vì thế anh nghĩ tốt hơn hết nên kiểm tra lại. Thế... em có nói thế thật không?”

Tôi do dự một giây.

“Tất cả những gì bạn cần là tình yêu.”

“Đúng thế, Tom.” Tôi nói. “Em đã nói thế.”

***

Tôi bước lên phía trên Ladbroke Grove cùng với những người chống đối, sau đó rời khỏi họ khi họ quay về phía West End, trong khi tôi rẽ phải ra Công viên Holland. Khi bước qua cổng, tôi cảm thấy hạnh phúc hơn cả ngàn lần so với khi tôi đi qua đó hai tư giờ trước. Vì lý do nào đó, kể lại mọi chuyện cho Tom đã làm tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn. Hôm nay tôi không còn tránh cái sân chơi của bọn trẻ như thường lệ nữa. Thực ra tôi đã đứng đó một lát, nhìn bọn trẻ được đu đưa trên những cái xích đu nhỏ xíu, hay bật lên từ những con ngựa đàn hồi, được giúp trèo lên những cái khung hay chỉ đơn giản là vui vẻ cào và đào hố cát. Và tôi biết tôi có cơ hội vào một ngày nào đó, tôi cũng sẽ làm những điều đó với chính đứa con của mình. Dù sao thì tôi cũng đã có thai một lần, vì thế có thể nó sẽ xảy ra lần nữa. Và nếu như không thì vẫn còn có những cách khác để có một gia đình.

Tôi tin rằng nếu như ta thật lòng mong muốn có con trẻ trong cuộc đời mình thì bằng cách này hay cách khác, chúng sẽ xuất hiện.

Tôi mua một tờ Evening Standard từ sạp báo ở trên đỉnh Ladbroke Grove rồi ngồi xuống một băng ghế và đọc. Bởi vì đây là Ngày lễ Ngân hàng nên nó là một tờ báo mỏng dính - có một mẩu tin về vụ mất điện và hậu quả của nó, hai trang về các cuộc biểu tình Ngày Lễ Tháng Năm, vài tin về tình hình trước cuộc tổng tuyển cử, vài tin thế giới, và rồi một thứ bắt mắt tôi trong mục nhật ký truyền thông:DỊCH VỤ NORMAN SẼ KHÔNG ĐƯỢC PHỤC HỒI. Bài viết về Scrivens. Nó nói rằng R. Sole đã sa thải hắn vì đã thay mặt mình mua cổ phần trong một công ty rõ ràng là có dính dáng đến việc thí nghiệm trên động vật. R. Sole nổi tiếng là một kẻ điên cuồng về động vật. Tôi nghĩ đến ‘Incognito’, và bài báo kinh khủng mà nó đã tung ra, và nỗi đau đớn và khủng hoảng mà nó đã gây ra cho tôi, và không thể nào ngăn lại một nụ cười nhếch mép.

Đã sáu giờ ba mươi. Tôi quay trở lại Đường Dunchurch và tự nấu cho mình món ốp lết, và đến lúc này đã là tám giờ ba mươi.

Bzzzzzzzzzz. Tôi ra mở cửa.

“Laura.”

“Luke.” Anh trông mệt mỏi và nhếch nhác, bộ râu mới nhú làm tối quai hàm anh. Rõ ràng là anh đã thả va li xuống và đến thẳng đây.

“Nghe này, anh biết rằng em rất cáu anh, Laura. Và anh rất hiểu điều đó, nhưng không cần phải chặn tất cả các cuộc gọi của anh như thế.”

“Nhưng em không muốn nói chuyện với anh, mà anh thì cứ gọi suốt.”

Anh nhìn tôi với vẻ khẩn nài. “Đừng như thế, Laura.”

“Luke,” tôi kiên nhẫn nói. “Anh đã bảo em rằng sau chuyến đi Venice, mọi chuyện sẽ thay đổi - và giờ đã đến lúc rồi.” Tôi đóng sập cửa lại.

Bzzzzzzzzzz. Một cách miễn cưỡng, tôi mở cửa ra lần nữa.

“Em có biết,” anh nói, “rằng ở Florida hát hò ở nơi công cộng trong khi mặc đồ bơi là phạm pháp không?”

“Không,” Tôi mệt mỏi nói. “Không thể nói là em có biết.”

“Và em có biết rằng tre có thể phát triển thêm ba mươi sáu inch chỉ trong một ngày?”

“Không.” Tôi lắc đầu. “Cái đó em cũng không biết.”

“Và em có biết rằng người Ai Cập cổ huấn luyện những con khỉ đầu chó ngồi chờ ở bàn?”

“Điều đó tuyệt đối hấp dẫn, nhưng liệu chúng ta có thể bỏ qua chuyện này được không Luke? Thực sự không có ý nghĩa gì đâu.” Tôi sập cửa lại.

BZZZZZZZZ. Tôi lại mở nó ra.

“Và em có biết rằng... vì lý do mà không ai hiểu nổi, việc sinh đôi ở phương Đông phổ biến hơn ở phương Tây không?”

Tôi nhìn anh chằm chằm. “Không, em không biết điều đó. Và anh có biết - rằng em thực sự không quan tâm không? Em rất yêu quý anh, Luke - nhưng chúng ta sẽ không ở bên nhau. Chúng ta có thể là bạn bè trở lại, vào một thời điểm nào đó trong tương lai, nhưng quan hệ của chúng ta sẽ không vãn hồi được nữa. Chúng ta đã kinh qua hai lần rồi - và thế là đủ. Chúng ta không phải là Charles và Camilla.”

“Anh xin lỗi, Laura.” Anh nói. “Anh biết đã làm em thất vọng... trên nhiều mặt... với Magda. Anh cảm thấy rất tồi tệ...”

“Chà, không cần phải thế đâu.” Tôi thở dài. “Chỉ bởi vì anh quá yêu Jessica. Nhưng anh biết không, Luke, tại sao anh không đáp ứng cái lời cầu nguyện buồn nho nhỏ đó của cô bé - lời cầu nguyện về việc bố và mẹ nó lại về sống cùng nhau ấy?”

“Ôi Chúa ơi...” Anh đảo tròn mắt.

“Tại sao không chứ? Lúc đó anh sẽ luôn có Jessica ở bên mình. Được rồi, Magda điên khùng - nhưng không ai hoàn hảo cả. Và em cũng thế. Giờ thì tạm biệt, Luke. Không có gì của em ở nhà anh cả, vì vậy chúng ta không cần nói chuyện. Và làm ơn đừng bấm chuông cửa nữa.”

Tôi sập cửa lại, rồi quay trở vào bên trong, cảm thấy bực bội hơn là cái tông giọng mỉa mai của tôi có thể ám chỉ, mặc dù tôi biết rằng mình đã làm điều đúng đắn. Tôi xuống dưới nhà. Món ốp lết của tôi đã nguội và dai ngoách, dù sao thì tôi cũng không đói. Tôi dốc thẳng vào thùng rác, rồi quăng vào bồn rửa.

Buzzzzzzzz.

Hay lắm, tôi nghĩ. Giờ tôi đang trở nên vô cùng bực bội đây. Tôi mở tung cửa. Khỉ thật! Đây là tất cả những gì tôi cần. Một gã tù nhân sắp được thả với túi đựng đồ lỉnh kỉnh chết tiệt... Cao và gầy, mái tóc ngắn và hàng ria sẫm gọn gàng, áo khoác da màu đen. Tôi thở hắt ra cáu kỉnh.

“Làm ơn đừng sập cửa vào mặt anh...” Anh ta lên tiếng.

“Nghe này, liệu chúng ta có thể bỏ qua cái bài bán hàng đầy bi kịch được không,” tôi cắt ngang, “Tôi hứa sẽ mua cho anh thứ gì đó, bởi vì tôi luôn làm thế, nhưng tôi không muốn một câu chuyện dài dòng nức nở trên chính ngưỡng cửa nhà tôi. Và nhân đây, liệu tôi có thể nói rằng tôi ước gì mấy người đừng có luôn xuất hiện khi trời tối và...”

Anh ta đã bắt đầu khóc. Ôi khỉ thật. Gã đàn ông đó đang khóc. Tôi trố mắt nhìn anh ta, quá sốc để có thể thở. Thế rồi anh ta nhìn tôi, và những đường nét của anh ta lúc này trở nên dễ nhận ra hơn. Quen thuộc. Ôi. Khỉ thật...

“Laura.”

Tôi cảm thấy môi mình run rẩy, rồi tiếng thùm thùm bất ngờ trong lồng ngực. Mắt tôi cũng đã đầy nước mắt.

Nick.

“Laura.” Anh ta lại lẩm bẩm lần nữa.

“Em... không... nhận ra anh.” Tôi thì thào. Nick mà tôi biết là một người đàn ông to lớn. Còn Nick này lại... gầy ốm và trông khắc khổ - như một tấm gỗ. Anh ấy rám nắng - mặt và cổ là một màu nâu khỏe mạnh - và có những nếp nhăn sâu trên mắt và trán. Mái tóc, vốn đã từng dày và gợn sóng với màu gỗ dái ngựa, lúc này rất ngắn - và lấm tấm điểm bạc. Tôi đã phải nghe giọng anh ấy một lần nữa, để chắc chắn.

Anh ấy đang nhìn tôi chằm chằm. “Anh có thể... Em có phiền không... nếu anh...?”

Tôi đã tập dượt giây phút này rất nhiều lần - những gì tôi sẽ nói - vẻ lạnh lùng mà tôi sẽ thể hiện, hay, khả dĩ hơn, là cơn giận dữ cay đắng. Nhưng giờ khi nó xảy ra, tôi gần như không thể nói gì, ngoại trừ thốt ra những câu xã giao trần tục nhất.

“Ồ... Anh muốn vào nhà ư?” Tôi lào khào nói. “Vâng... dĩ nhiên rồi.”

Khi anh ấy bước qua ngưỡng cửa, tôi nhận thấy anh ấy đang mặc quần jeans - Nick chưa bao giờ mặc quần jeans - và có lẽ là nhẹ hơn anh chàng Nick tôi biết đến hai mươi ký. Anh ấy là một người khác hẳn. Tất cả mọi thứ về anh dường như đều thay đổi - gương mặt, vóc người, dáng đi, và thậm chí là cả đôi bàn tay của anh. Khi anh ấy đặt chiếc túi bạt xuống, tôi nhìn thấy chúng thô ráp và đỏ ửng.

Chúng tôi vào phòng khách và chỉ ngồi đó, chằm chằm nhìn nhau im lặng, như những người lạ tại một bữa tiệc u sầu.

“Anh có... muốn ăn gì không?”

“Không.” Anh lẩm bẩm. “Cảm ơn. Anh đã đi nhờ xe - và bọn anh dừng lại ở một quán cà phê.” Tôi nhận thấy phát âm của anh hơi có chút khác biệt - anh không nói ‘cà phê’ mà là ‘cà phê’.

“Anh đi nhờ xe... từ đâu?”

“Harwich.” Anh nhìn quanh phòng khách. “Ở đây khác quá. Em đã thay đổi nó. Màu sắc ấy.”

“Phải... Em đã... trang trí lại nó... thực ra là cách đây không lâu...”

“Em không phiền nếu anh ngồi xuống chứ?”

“Dĩ nhiên rồi... không phiền gì cả. Ờ... anh có muốn... uống gì đó không?”

“Không. Cảm ơn em. Không sao đâu.” Lại cái kiểu nhấn trọng âm kỳ cục đó.

Chúng tôi ngồi hai bên lò sưởi. Những người xa lạ gần gũi. Nó như thể chúng tôi đang đối mặt nhau qua một hẻm núi, mặc dù chúng tôi cách nhau chưa đến hai mét.

“Anh đã sống ở Harwich à?” Tôi lẩm bẩm. Miệng tôi khô khốc và tôi đang siết chặt quai hàm.

“Không. Không phải sống ở đó. Anh xuống tàu ở đó thôi.”

“Từ đâu? Nơi nào? Em muốn biết...” Tôi có thể cảm thấy tim mình bắt đầu đập thình thịch. “Em muốn biết anh đã ở đâu. Anh đã ở đâu, Nick? Ở đâu?” Giọng tôi sin sít và cao vút như thể tôi đang hát trong đám tang vậy. “Nói cho em biết đi. Anh đã ở đâu?”

“Ở Hà Lan.”

“Ở Hà Lan?” Tôi lặp lại. “Nhưng vì sao...? Làm gì?”

“Làm việc. Trong nông trại.”

“Làm nông ư?” Tôi hỏi. Nick đã rất ghét nông thôn. Anh là một con người của thành thị.

“Không chính xác là làm nông. Hoa. Tu líp. Anh làm việc trong những cánh đồng tu líp...” Một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng tôi. Tôi đứng dậy.

“Em đi đâu đấy?” Tôi nghe anh kêu lên.

“Em nghĩ cả hai ta cần thứ gì đó để uống.”

“Anh đã cố quay lại lâu rồi.” Nick giải thích vài phút sau đó. Anh đã cởi áo khoác ra, và tôi thấy cánh tay anh đã trở nên cơ bắp và khỏe mạnh thế nào. Chúng cũng rám nắng và dạn dày sương gió như mặt anh. Cổ anh trông dày hơn, và gân guốc hơn.

“Thế tại sao anh không quay lại?”

Anh nhìn chằm chằm vào chiếc cốc Glenmorangie của mình, lật nó qua lại. Tôi nhận ra những ngón tay của anh chai sạn và nứt nẻ.

Anh thở dài. “Bởi vì anh không biết quay về như thế nào. Anh cứ nghĩ về em... cảm thấy vô cùng tồi tệ... và quá hổ thẹn. Trong khi đó cứ ở lại nơi anh đang ở lại dễ dàng hơn so với việc đối mặt với toàn bộ chuyện này.” Chúng tôi có thể nghe thấy tiếng đồng hồ quả lắc tích tắc.

Đến lúc này cơn sốc ban đầu đã lắng xuống và rượu whisky - mà vốn tôi không thường uống, nhưng đã bắt đầu mê mẩn như một kẻ nghiện ngập - đã bắt đầu làm những giây thần kinh xơ xác của tôi dịu lại. Tôi bắt đầu, một cách chậm rãi, hỏi những câu hỏi vốn đang nhồi nhét cổ họng tôi.

“Anh đã ở Hà Lan trong suốt thời gian qua sao?” Anh gật đầu. “Vậy là khi anh để lại xe ở Blakeney, đó có phải là những gì anh dự định...?”

Anh lắc đầu. “Anh không hề có ý tưởng gì về những gì mình sẽ làm. Anh chỉ biết rằng anh phải... trốn thoát. Không phải là khỏi em.” Anh thêm vào. “Mà là khỏi bản thân mình. Khỏi cái đống hỗn độn trong tinh thần mà anh đang vướng phải. Giờ anh có thể nói về chuyện đó, bởi vì mọi chuyện đối với anh đã khác - nhưng vào lúc đó anh không thể giải thích nó cho em.”

“Đêm đầu tiên anh đã ngủ ở đâu?”

“Trên xe. Và buổi sáng hôm sau anh cuốc bộ xuống bến tàu, có một chiếc tàu đánh cá lớn ở đó và anh đã nghe lỏm được một người nói rằng nó sẽ đến Hague. Vì thế anh trả cho tay hoa tiêu để hắn cho anh lên tàu. Đó là một chuyến đi vô cùng gian khổ. Bọn anh đến nơi vào ngày hôm sau.”

“Rồi sau đó?”

“Anh bắt xe bus đến Leiden, rồi ở trong một khu nhà trọ trong một thời gian. Có một bản thông báo trên tàu về một trang trại cũ ở Hillegom, cách đó vài dặm về phía Bắc, và họ đang tìm kiếm lao động thời vụ. Vì thế anh mua một cái xe đạp, và một cái lều...”

“Một cái lều á?”

“Phải cắm trại thôi. Anh không ngại. Thực ra thì anh thích thế. Và anh bắt đầu làm việc?”

“Làm gì?”

“Đầu tiên là phân loại củ hoa loa kèn - trong nhà kho. Phân loại chúng theo kích cỡ. Tính đơn điệu đều đều của công việc đó là... một sự nhẹ nhõm. Tay anh bận bịu, nhưng đầu óc anh thì thoải mái.” Anh lại nhấc cốc lên miệng và tôi nghe thấy tiếng đá va lách cách vào nhau. “Anh được trả bốn mươi guilder[2] một ngày. Sau đó anh làm việc với hoa tu líp trong nhà kính, trồng, chọn, buộc thành từng bó mười bông, đóng hộp; và rồi sau đó trong năm, sau vụ thu hoạch, anh lại bóc củ tu líp để sẵn sàng xuất khẩu.”

[2] Đơn vị tiền tệ của Hà Lan. (ND)

“Và không ai từng hỏi anh là ai, hay lý do vì sao anh ở đó?”

“Không. Bọn anh có rất nhiều người - hầu hết là đàn ông. Nhiều người từ Thổ Nhĩ Kỳ và Tây Âu. Nhưng không ai thắc mắc gì cả.”

“Thế anh đã nghĩ là anh sẽ ở đó bao lâu?”

“Anh không có ý tưởng gì cả. Anh quyết định sống ngày nào biết ngày đó. Anh đã nghĩ rồi dần dần sẽ quay trở về... nhưng rồi... thời gian cứ tiếp tục trôi đi và...” Giọng anh trôi tuột đi.

“Thế tại sao bây giờ anh lại quay về?”

Anh nhìn tôi, và tôi nhận ra trông anh xơ xác đến mức nào, hai má và thái dương hóp lại, như thể gió đã xói mòn gương mặt anh.

“Em có tin tưởng vào các dấu hiệu không, Laura?” Anh lặng lẽ hỏi. “Anh không cho là vậy, bởi vì anh nhớ rằng em thường gạt bỏ bất kỳ ý tưởng nào về những thứ không thể giải thích được bằng những thuật ngữ thuần lý trí.”

Cậu ấy đang đứng trên một cánh đồng hoa.

“Em biết là em đã như thế.”

Hoa bao xung quanh cậu ấy - đó là một cảnh rất tuyệt vời.

“Nhưng gần đây em đã thay đổi ý nghĩ.”

“Vì sao?”

“Bởi vì... em đã biết được vài điều không thể... giải thích được.”

“Anh tin là anh đã có một dấu hiệu.” Anh nói tiếp. “Một thời gian ngắn trước, một chuyện... xảy ra. Và đó là lý do vì sao bây giờ anh quay trở về.”

“Chuyện gì đã xảy ra?” Tôi hỏi. “Chuyện gì?”

“Đó là... chính xác hai tuần trước.” Anh hít vào thật sâu, rồi thở ra. “Anh đang ở trên một cánh đồng hoa tu líp. Lúc đó là cao điểm của mùa vụ - những khách du lịch đến thăm lên đến hàng ngàn người mỗi ngày; họ xuống xe ngựa và chụp ảnh.” Anh nhấp một hớp whisky. “Đó là một ngày tuyệt đẹp.” Anh nói tiếp. “Sáng sủa và đầy ánh nắng, nhưng lại có gió mạnh thổi qua - ở đó trời nổi gió thường xuyên vì gần biển. Lúc đó vào khoảng ba giờ và anh đang bước xuyên qua các hàng hoa tu líp từ buổi sáng, kiểm tra xem các cây hoa có bệnh tật gì không. Bọn anh trồng từng loại hoa riêng biệt. Vì thế đầu tiên anh kiểm tra đồng tu líp màu vàng, được gọi là ‘Ngọn lửa vàng’, sau đó đến đồng màu hồng sậm với một sọc trắng; ‘Dải lụa Burgundy’...”

“Em biết loại đó.” Tôi nghĩ đến Luke, trong ngày lễ Valentine, tay anh ấy đầy loại hoa này.

“... sau đó đến cánh đồng hoa màu đỏ - ‘Fringed Appledoorn’.” Và một nhóm khách du lịch vừa mới dừng lại trong khu vực giải khát để uống trà - họ là những người đã nghỉ hưu. Chỉ một lát sau họ rời đi. Và đột nhiên anh nhìn thấy, từ xa, một anh chàng chủ quán cà phê đang cố gắng chụp một tờ báo - nó bay tung tóe khắp nơi - và anh ta đang chộp lại từng mẩu nhỏ. Nhưng một trang báo đó đã bay thẳng đi, ngang qua cánh đồng - vỗ lên ngọn những cây hoa như một chú chim lớn màu trắng. Nó bay về phía anh, xoay tít và nhào xuống trong cơn gió mạnh, lật qua rồi lật lại. Và cuối cùng nó sà xuống cách anh có vài bàn chân, và anh túm lấy nó. Anh vừa định vò nó lại và nhét vào túi thì bỗng phát hiện ra đó là một tờ báo của Anh từ ngày hôm trước. Anh lật nó lại, và nhìn thấy em...”

Cảm Giác Ăn Năn Của Tôi.

“Cơn sốc khi nhìn thấy nó... không chỉ là vì đó là em - mà còn là vẻ mặt buồn bã của em, và cái tiêu đề tồi tệ về cảm giác tội lỗi và tuyệt vọng của em. Anh đứng đó, cắm rễ tại chỗ như những cây hoa xung quanh anh và anh cảm thấy vô cùng... tệ hại.”

Nhưng mặc dù đang đứng giữa cánh đồng hoa xinh đẹp, cậu ấy vẫn trông rất ủ rũ và buồn bã...

“Lúc đó anh biết rằng anh phải quay lại. Em có thể nói,” Anh nói tiếp, “rằng đó là sự Tình cờ. Trên một khía cạnh là một người khách du lịch Anh đã để lại tờ báo Sunday Semaphore của mình trên một cái bàn picnic. Và nó bay mất, và anh chỉ tình cờ chụp được trang đặc biệt của nó mà tình cờ viết về em. Nhưng theo một khía cạnh khác, em có thể nói đó là một dấu hiệu...”

“Đó là một dấu hiệu.” Tôi lặng lẽ nói. “Anh không cần phải thuyết phục em. Nhưng anh quay lại với điều gì trong đầu anh thế, Nick?”

“Để... nói chuyện với em... để giải thích. Trước đây anh đã không thể làm điều đó, nhưng giờ, mọi chuyện đã khác đối với anh và anh có thể cố gắng giải thích chuyện gì đã xảy ra... tại sao anh lại làm những chuyện mà anh đã làm.”

“Chà, chắc chắn là em xứng đáng với một lời giải thích.” Tôi nói với vẻ cay đắng. “Và em phải nói rằng, thật hay ho khi biết được điều gì đã ngăn cản anh vào cái ngày cách đây ba năm rưỡi. Ồ, và cảm ơn vì lúc đó đã gọi đến Đường Dây Quốc Gia Hỗ Trợ Người Mất Tích để em có thể thôi lê bước vòng quanh Khu đê biển nhòm ngó bên dưới những cái thùng các tông, hay có những cơn ác mộng trong đó anh nằm chết trên một cái rãnh - hay một con mương, thực tế cho thấy - anh đã thật chu đáo. Mặc dù vậy đáng tiếc là anh đã không làm điều đó sau ba ngày thay vì ba tháng. Em đoán là anh đã nghe thấy em trên đài?” Tôi thêm vào.

“Đúng vậy. Anh có một cái đài bán dẫn nhỏ và anh đã bắt sóng đài Radio 4 trên kênh sóng dài. Vì thế anh đã gọi Đường dây hỗ trợ.”

“Nhưng rồi khi họ bảo với em rằng anh không muốn gặp em hay thậm chí là nói chuyện với em... em không thể hiểu nổi. Nếu như anh đã có thể gọi cho họ, vậy sao anh lại không thể gọi cho em?”

“Thực ra anh đã cố gắng. Hai lần.” Tôi nhớ lại những cuộc gọi im lặng. “Nhưng anh đã gác máy, bởi vì anh biết nếu như anh nói chuyện với em, thậm chí chỉ vài giây, một cuộc đối thoại sẽ bắt đầu. Điều đó sẽ dẫn đến một điều không thể tránh khỏi là anh sẽ phải quay lại. Nhưng anh chưa sẵn sàng để làm điều đó. Anh muốn quay trở lại vào thời điểm của riêng mình...”

“Tôi hiểu rồi.” Tôi lặng lẽ nói. “Vậy là giờ thời điểm đó đã đến. Và tôi cho rằng anh nghĩ anh đang làm một điều phi thường, đã hạ cố quay trở lại vào lúc này khi mà anh đã ổn và sẵn sàng...” cổ họng tôi nhức nhối, “để nói với tôi anh đã... ở... cái nơi... chó chết... nào...” Hai tay tôi vung lên mặt. “Anh đã nhảy ra khỏi cuộc đời tôi... Tôi đã gần như không rời khỏi căn phòng này... những gì tôi có thể làm gần như chỉ là mặc quần áo... tôi không thể ngủ... tôi biến thành một người suy nhược... cảm giác căng thẳng của nó - tôi đã không ăn...”

“Anh xin lỗi, Laura,” Anh nói. “Anh thực sự xin lỗi.”

Tôi lắc đầu. “Anh có thể nói xin lỗi tôi hàng ngày trong vòng hai mươi năm tới và như thế vẫn chưa đủ. Anh đã gây ra một vết thương cố ý,” tôi nói. Cổ họng tôi nhức nhối với một tiếng nấc kìm nén. “Sự hỗn loạn mà anh để lại phía sau - những khó khăn ngày qua ngày - đó là chưa nói đến nỗi thống khổ của ba tháng đầu tiên khi tôi không biết liệu anh có còn sống hay không. Tôi thường bước vòng quanh căn phòng này mỗi đêm, xoắn chặt hai tay!”

“Anh xin lỗi.” Anh lặp lại, ánh mắt long lanh.

“Anh không cần phải biến mất,” Tôi nghẹn ngào, chìa tay về phía anh như thể đang khẩn nài, những ngón tay xòe ra và duỗi thẳng. “Anh chỉ có thể nói, ‘Nghe này Laura, anh không muốn ở cùng em nữa. Hãy chia tay đi.’”

“Nhưng anh không nhìn nhận được một cách rõ ràng như thế. Anh không nhìn thấy gì cả ngoài... nỗi đau của chính anh. Anh cảm thấy mình đang phân rã, rằng anh đã bị... phá hủy, bằng cách nào đó... đầu tiên, bố anh chết như thế...”

“Chuyện đó vẫn không biện hộ được cho hành động của anh,” tôi nức nở. Nước mắt tuôn như suối xuống mặt. “Không có gì có thể biện hộ được. Không có gì biện hộ được cho việc bỏ rơi người khác để họ phải chờ đợi.”

“Anh đã không nói chuyện với bố hai tháng trời. Anh nổi giận với ông, và anh muốn làm lành, nhưng anh không biết phải làm thế nào. Anh cứ hy vọng ông sẽ gọi cho anh và nói, ‘Thôi nào Nick, cùng đi ăn trưa nhé’ - Nhưng ông đã không làm thế, và anh cũng không gọi cho ông - và rồi ông chạy lên cầu thang, rồi chết. Và anh không thể chịu đựng được cái thực tế là lần cuối cùng ông nhìn thấy anh thì anh lại nổi cáu với ông.” Tay trái của Nick che lấy mặt. “Anh đã muốn được ông ôm thêm chỉ một lần nữa...” Lúc này anh lại khóc tiếp. “Nhưng anh không bao giờ có cơ hội đó. Thế rồi sau đó em mất con và anh cũng đã tự đổ lỗi cho mình về điều đó - và em cũng đổ lỗi cho anh. Những gì em đã nói với anh, Laura - cái điều tồi tệ, vô cùng tồi tệ mà em đã nói đó...”

“Em biết - em biết - em xin lỗi. Điều đó là sai trái.”

“Và nó có lẽ đúng là lỗi của anh, nhưng như thế là quá nhiều - tất cả cùng xảy ra một lúc. Mà chúng ta đã nhìn thấy con bé... đó chính là điều không thể chịu đựng nổi - rằng chúng ta đã nhìn thấycon bé, vẫy tay với chúng ta...” Anh vùi đầu vào trong hai bàn tay.

“Chúng ta đã không may mắn, Nick.” Một giọt nước mắt lăn xuống khóe miệng tôi. “Vụ tai nạn lẽ ra không dẫn đến điều đó - lực va chạm không mạnh đến thế. Và ngày hôm đó em cảm thấy không được khỏe. Rồi chúng ta lại còn có cái cảm giác lo sợ từ trước đó nên có lẽ là dù thế nào thì nó cũng sẽ xảy ra... Chúng ta sẽ không bao giờ biết được...”

Tôi nghe anh rên rỉ. “Anh đã... bị choáng ngợp bởi cảm giác tội lỗi và hối tiếc. Bố anh, và rồi đến con anh... Anh không thể nào... tiếp nhận được điều đó, Laura. Anh không thể chịu đựng được điều đó.”

“... chúng ta có thể đã có cơ hội khác. Nhưng rồi anh ra đi. Vì thế đã không có thêm cơ hội nào nữa cả - đó chính là lý do vì sao em đã tức giận đến thế. Trên tất cả những thứ căng thẳng khác, em cảm thấy bị mất mát gấp đôi. Em cảm thấy mình sẽ không bao giờ có thể hồi phục được.”

Chúng tôi ngồi đó trong yên lặng, tan nát bởi những cảm xúc. Tôi nhìn chằm chằm xuống sàn nhà.

“Trên báo nói rằng em đến với Luke.” Tôi nghe anh nói. “Anh nhớ thi thoảng em vẫn nhắc đến anh ta.”

“Em đã đến với Luke. Nhưng giờ thì không còn nữa. Còn anh?” Giọng tôi thì thào, mắt nhìn thẳng vào anh. Tôi lau nước mắt. “Cuộc sống tình cảm của anh thế nào? Sống trong một cái lều hẳn là hơi phức tạp.” Tôi thêm vào một cách cay đắng.

“Anh không còn sống trong lều nữa. Nó chỉ diễn ra một vài tháng đầu thôi. Giờ anh có một ngôi nhà nhỏ trong nông trại, anh là quản đốc ở đó.”

“Ồ. Nghe hay đấy.”

“Anh có một con chó - một con Rhodesian Ridgeback. Betsy. Nó rất đáng yêu.”

“Anh đã luôn muốn có một con chó... Ở đây chúng ta không thể nuôi khi mà cả hai cùng đi làm. Thế sẽ không công bằng.”

“Laura...” Có một vết trên thảm, cần phải chú ý đến nó. “Có một điều nữa anh muốn nói với em.”

“Là gì?” Tôi hỏi. Đột nhiên tôi cảm thấy rất mệt.

“À... bây giờ anh đang có một người vợ. Anneka.”

“Chúc mừng. Em hy vọng anh sẽ rất hạnh phúc, nhón chân bước qua đồng tu líp cùng nhau. Đáng lẽ em sẽ tự đề nghị làm phù dâu nhưng chúng ta vẫn chưa ly hôn.”

“Cô ấy là người rất tốt bụng.”

“Ồ thật đáng yêu đấy Nick, rất vui khi nghe thấy thế, em hy vọng anh sẽ hạnh phúc. Và trên tất cả, em hy vọng là anh sẽ KHÔNG BAO GIỜ đối xử với cô ấy như anh đã đối xử với em.” Tôi lại nhìn chằm chằm vào cái vệt trên thảm. Cần phải có chất tẩy bỏ vết bẩn. Cái thứ đó gọi là gì nhỉ? Tất nhiên rồi. Biến mất. Làm sao tôi có thể quên được nhỉ?

“Bọn anh có một đứa con gái.”

Hay có lẽ chỉ cần chút nước ấm là ổn rồi. Nếu như tôi chà đủ mạnh.

“Nó đã được mười tháng.” Tôi nghe anh nói. Nhưng không được dùng thuốc tẩy. Nó có thể tẩy trắng màu tấm thảm. “Tên nó là Estella.”

“Nghe hay đấy.” Tôi nhìn anh. “Em đoán là đặt theo hoa tu líp. Estella Rijnveld?”

“Đúng thế.”

Nhưng giờ mọi chuyện đã khác đối với anh...

“Vậy đó là lý do vì sao anh có thể... nói về những gì đã xảy ra, đúng không?”

“Phải. Anh cảm thấy rằng anh... anh không biết nữa.” Anh lắc đầu. “Quay trở lại thế gian này... anh đã cảm thấy tất cả những gì anh yêu quý đều đang chết đi. Đó là lý do vì sao anh yêu thích công việc ở nông trại - biết rằng bên trong mỗi củ hoa là một cuộc sống, đang cuộn tròn lại, chờ đợi để vươn lên nếu như anh chăm sóc nó đúng cách.”

“Anh có ảnh con bé không?”

Anh thò tay vào túi sau và lôi ví ra, từ đó anh rút ra một tấm ảnh chụp nhanh. Anh đưa nó cho tôi. Cô bé đang ngồi cạnh một cái bình lớn cắm hoa tu líp màu đỏ và trắng. Nó có một gương mặt đáng yêu, tươi tỉnh, và một mái tóc sẫm màu óng ánh.

“Con bé trông giống anh.” Tôi tự hỏi liệu đứa con gái bé bỏng của chúng tôi liệu có trông giống thế này không? “Nó thật đáng yêu.” Có thể lắm chứ. “Thế vợ anh - Anneka - cô ấy có biết gì về em không? Anh có nói cho cô ấy biết không?”

“Không cho đến hai tuần trước. Nhưng rồi sau đó anh cho cô ấy xem bài báo. Cô ấy rất giận vì anh đã không cho cô ấy biết từ trước. Cô ấy bảo anh phải quay trở lại. Cô ấy nói anh đã cầm tù em, và rằng anh phải giải phóng cho em.”

“Chà... cô ấy nói đúng đấy.”

Anh đứng dậy. “Anh nghĩ tốt hơn hết giờ anh nên đi.”

“Anh sẽ ở đâu?”

“Trong một khách sạn ở Bayswater.”

“Thế còn đồ đạc của anh thì sao? Em vẫn giữ lại hầu hết - ngược lại với những gì mà anh có thể nghĩ khi đọc bài báo kia. Chúng được đóng gói gọn ở trong phòng dành cho khách - quần áo của anh...”

“Chúng sẽ không còn vừa người anh nữa.”

“Đúng thế. Giờ anh gầy quá, Nick.”

“Chuyện đó không có gì không hay cả. Đó là cuộc sống ngoài trời.”

“Thế còn sách của anh? Tranh ảnh?”

“Bọn anh sẽ không có chỗ để. Cứ làm bất cứ điều gì em muốn với chúng.”

“Em sẽ đem chúng đến Oxfam. Không. Giờ đã có một cửa hàng từ thiện cho SudanEase. Em sẽ đem đồ đạc của anh đến đó.”

“Nhưng anh muốn có những tấm ảnh của bố mẹ anh.”

“Dĩ nhiên rồi. Em sẽ đi lấy.” Tôi vào phòng để đồ, rồi quay lại với một cái túi.

Anh cầm lấy nó. “Cảm ơn em.”

Tôi đưa cho anh một mảnh giấy. “Anh viết lại địa chỉ của mình để còn làm giấy tờ ly hôn chứ? Nó sẽ mất khoảng vài tháng.”

Anh lấy một cái bút từ trong túi và bắt đầu viết. “Niklaus Gering?” Tôi nói khi đọc mẩu giấy.

“Người ta biết đến anh với cái tên đó. Nó chỉ là một cách dịch tên của anh. Không ai ở đó biết Nick Little là ai.”

“Còn anh?” Tôi hỏi anh.

“Giờ thì anh đã biết.” Anh lặng lẽ trả lời.

“Anh sẽ nhận được một nửa căn hộ của anh.” Tôi nói khi anh mặc áo khoác vào. “Nó sẽ được rao bán vào ngày mai.”

“Đó không phải là lý do anh quay lại, Laura.”

“Em biết thế.”

“Em không cần phải bán nó. Cứ ở lại đây nếu em muốn.”

“Không. Cảm ơn anh, nhưng không. Em không muốn ở lại. Nó đã hư hỏng. Dù sao đi nữa, anh vẫn sẽ cần tiền - anh có một đứa con.”

“Em sẽ sống ở đâu, Laura?”

“Em thực sự không biết. Em nghĩ em sẽ thuê ở đâu đó, tạm thời thế đã.”

“Vậy thì...” Anh cầm túi lên.

Anh chớp mắt. “Thế sao? Anh xin lỗi. Anh quên mất...”

“Đừng bận tâm.” Tôi nói. “Chuyện đó thực sự chẳng có ý nghĩa gì.”

Anh với tay lên cửa. “Đừng nghĩ quá tệ về anh, Laura.” Tôi không trả lời. “Có thể, ai biết được, có khi chúng ta sẽ vẫn còn liên lạc.” Anh hơi khẽ mỉm cười.

Tôi lắc đầu.

“Không, Nick.” Tôi nói. “Không có chuyện đó đâu.”