Chiến Lang

Quyển 1 - Chương 1: Chiến tranh




Đêm đã khuya.

Người đàn ông nằm ở trên giường lặng lẽ ngồi dậy.

Người thân bên cạnh ngủ rất say, nhưng không hiểu sao ông lại cảm thấy bất an. Ông ngồi một lúc mới phát hiện ra là điều gì quấy nhiễu mình.

Tuy rằng đã nửa đêm, nhưng đêm quá yên tĩnh.

Quá yên tĩnh…

Tuy rằng nơi đây không phải địa bàn ông quen thuộc, nhưng ông cũng biết dù ở nơi hoang dã cũng không thể nào yên tĩnh đến như thế. Không khí như bị đông thành băng, đóng băng tất cả sự vật.

Ông đứng dậy khoác áo khoác, xuống giường đi giày, cầm ngọn nến trên bàn. Nghĩ lại ông lại đặt nến xuống, đẩy cửa đi ra sân, đến bên cửa, từ khe cửa nhìn lén ra bên ngoài.

Đầu mâu ánh bạc lấp lánh trong đêm tối.

Một đội binh mã trùng trùng điệp điệp tiến vào đầu đường cái.

Trong cửa, người đàn ông run lên, trong lòng lạnh ngắt.

Từ bảy tháng trước, vì thoát khỏi Vương gia, ông đã mang theo người thân cao chạy xa bay khỏi kinh thành. Ông còn tưởng rằng ông đã mang theo người thân đi đủ xa rồi.

Nhưng trong giây phút này, rốt cục ông cũng nhận ra, chỉ bằng nấy thôi là không đủ.

Ông sớm nên biết trong phủ Vương gia có gian tế. Ông không nên cho rằng chạy đến nước khác là có thể an tâm, hành tung chỉ sợ đã lộ ra từ lâu mới khiến quân đội tìm đến đây.

Chỉ tới phương Bắc vẫn là quá gần.

Ông lặng lẽ lùi về sau, vội vàng chạy về phòng. Có lẽ vì ông dậy nên thê tử cũng bị đánh thức, Dạ Nhi cũng vậy, hai người đều đã khoác thêm áo.

“Có quân đội.”

Vừa nghe vậy, hai người lập tức cầm lấy tay nải đã chuẩn bị sẵn, lặng lẽ theo ông ra cửa. Sát khí bên ngoài đã nặng hơn vừa nãy, chỉ có lá khô bay lượn theo gió.

Thê tử còn định chạy cửa sau nhưng bị ông giữ lại. Ông lắc đầu, chỉ một cái lỗ chó bên cạnh tường, khẽ dặn dò: “Đừng đi cửa sau, chui qua đó. Sau khi rời khỏi đây, đừng đi trạm dịch mà hãy bán xe cho thương đội người Hồi, trốn ở gầm xe bảo bọn họ mang nàng và Dạ Nhi qua biên. Đi càng xa càng tốt, đừng trở về nữa.”

Trượng phu nói vậy khiến bà căng thẳng, không khỏi ngạc nhiên quay đầu nhìn ông.

Cổ ông căng lên, gần như lại muốn ôm chặt thê tử vào lòng, nhưng đã không còn thời gian nữa rồi. Ông nắm chặt tay thê tử, sau đó buông ra.

Hốc mắt thê tử rưng rưng, một giây sau bà lập tức hiểu ông định làm gì. Dù sao vợ chồng hai người cùng giường chung gối đã hai mươi năm, khi cổ ông căng lên, bà đã biết ông đang nghĩ cái gì.

Không còn con đường nào khác sao?

Ông gần như có thể nghe thấy thê tử hỏi, nhưng bà không làm vậy. Mà ông lại lắc đầu.

Biết ông đã quyết, bà cắn răng rưng rưng quay đầu đi, chui vào lỗ chó.

“Cha, cha thì sao?”

Thê tử đã đi ra ngoài, nhưng con ông thật thông minh, nó không chui qua mà lo lắng nhìn ông.

Chỉ nhìn lỗ chó một cái ông đã biết hình thể ông quá lớn, không chui lọt.

“Ba người cùng đi rất gây chú ý. Cha sẽ trèo tường ra từ nơi khác, chúng ta hẹn ở ngoài thành.”

Ông nói mà không dám nhìn đứa con thông minh: “Mau lên, còn chần chờ thì không kịp mất.” Bởi vì ông chưa bao giờ nói dối, nên con ông không hề nghi ngờ, chui ra ngoài.

Biết không còn thời gian, nhưng ông vẫn không nhịn được nằm sấp xuống đất thông qua lỗ chó nhìn ra bên ngoài.

Thê tử ông cũng nằm xuống, nước mắt sớm tràn mi.

“Thiếp ra ngoài thành chờ chàng.” Bà ôm tia hi vọng cuối cùng, khàn giọng nói.

“Là ta có lỗi với nàng, đời sau Tả Thanh Thu ta sẽ làm trâu làm ngựa cho nàng.” Ông quyến luyến nói nhỏ: “Quyết không phụ nàng.”

Trên mặt bà chảy xuống hai hàng lệ, khóe môi lại nở nụ cười dịu dàng.

“Đừng quên những lời chàng đã nói.”

“Tuyệt đối không.” Ông nói chắc như đinh đóng cột.

“Được, thiếp chờ chàng.”

Cổ bà nghẹn lại, nhìn ông nói, sau đó đứng dậy kéo con chạy đi.

Ông đau lòng không dứt nhưng vẫn bò dậy, chạy về trong phòng, lôi một cái rương gỗ từ dưới giường, cẩn thận cầm hai bộ xương người ra, đặt lên trên giường. Từ mấy tháng trước, trong lòng ông đã sớm có linh cảm ngày này sẽ đến, vậy nên trong đêm khuya đi qua bãi tha ma, ông đã đào trộm hai bộ xương này.

Ông quỳ gối bên giường, dập đầu ba cái với hai bộ xương.

“Thật xin lỗi, xin mượn xương hai vị cứu người thân của ta. Đã mạo phạm hai vị, xin hãy tha lỗi.” Nói xong, cửa đã bị đá văng ra, phần đông binh lính xông vào sân, vây quanh nhà. Võ tướng dẫn quân tiến lên, cao giọng hô lớn.

“Tả tiên sinh, tướng quân nghe danh ngài tài nghệ siêu phàm đã lâu, đặc biệt phái chúng ta đến mời ngài về phủ.”

Ông đứng dậy, đốt nến.

Ánh lửa sáng ngời, bọn lính ngoài cửa giật mình, hơi bất an.

Ông mở cửa nhưng không bước ra, chỉ nhìn đội binh lính và võ tướng võ trang đầy đủ, nói: “Tả mỗ tài sơ học thiển, chỉ là một thợ thủ công nho nhỏ, giờ thân thể tàn tật không làm được nữa, thực không tiện tới cửa quấy rầy tướng quân.”

“Tả Thanh Thu, hãy bớt sàm ngôn đi, ông đây đã đặc biệt đến mời, mẹ nó còn lên mặt cái gì! Một câu thôi, ngươi đi không?”

Ông thản nhiên nhìn kẻ đang nổi giận, chỉ nhàn nhạt nói hai chữ: “Không đi.”

Lần này, võ tướng kia nổi trận lôi đình, rút đại đao trên lưng ra, chỉ vào ông nói: “Được, ngươi không đi cũng được, giao tất cả bản vẽ về Hắc Hỏa ra đây! Ta tạm tha chết cho ngươi!”

Ông lạnh lùng nhìn tên kia, chỉ nói: “Thiên hạ này, lửa chỉ có màu đỏ, vàng, xanh, làm gì có lửa nào màu đen?”

Võ tướng thẹn quá hóa giận, chửi ầm lên: “Tên khốn kia, mẹ nó rượu mời không uống lại muốn uống rượu phạt! Người đâu, bắt hắn cho ta. . . . . .”

Ông nghe vậy, chỉ bước lên trước một bước, vẻ mặt nghiêm nghị lời nói sắc bén, hét lớn một tiếng.

“Ai dám tiến vào, ta sẽ đốt trọi!”

Tất cả binh lính nghe vậy cứng đờ, không ai dám động đậy, cả viên võ tướng cũng bị khí thế lạnh lùng của ông làm khiếp sợ.

“Trung Nguyên hai trăm năm qua chinh chiến liên tục, thành nát ruộng hoang, ngàn dặm không có một ngọn cỏ, người chết đói khắp nơi. Ta tạo ra Hắc Hỏa là để bảo vệ quốc gia, không phải vì tranh vì chiến!” Ông trợn mắt nhìn chằm chằm mọi người trong sân, giương giọng hô lớn: “Nói cho tướng quân, nếu thực sự có lửa màu đen vậy nó cũng là ‘đen’ không nên tồn tại trên đời này! Cho dù Tả Thanh Thu ta thực sự có Hắc Hỏa, cũng sẽ không giao nó cho bất cứ kẻ nào, tuyệt đối không để các người khởi binh gây chiến! Ta tình nguyện mang theo nó cùng vợ con ta xuống Hoàng Tuyền!” Nói xong, ông ném ngọn nến trong tay xuống đất.

Chỉ nháy mắt, lửa từ phía trước ông bắn ra bốn phía dọc theo khung cửa, khung cửa sổ, cột nhà lan lên. Một tiếng nổ vang lên, cả căn phòng dần sụp xuống, sau đó lửa cháy ngùn ngụt đến tận trời, thổi tung đám người trong sân.

Bọn lính bị thổi bay đầu óc choáng váng, mê man ngẩng đầu lên, chỉ thấy lửa trong đêm tối bốc lên như rồng bay rồi lập tức thu lại. Mọi người thấy thế đều rợn tóc gáy, chẳng nghĩ được gì vội đứng lên hốt hoảng chạy trốn.

Lửa lại bùng lên, thổi bay mọi thứ quanh mình, không bao lâu đã nuốt trọn cả căn nhà.

Lửa thiêu cực mạnh cực nhanh không ai dám lại gần, đợi đến khi lửa tắt khói tan thì trời đã sáng bảnh.

Bọn lính tìm kiếm trong căn nhà vẫn còn hơi nóng hừng hực, chỉ tìm được ba bộ xương bị cháy biến thành màu đen, gần như vừa chạm vào đã vỡ vụn.

Đám người mặt xám mày tro, trong lòng còn sợ hãi nhìn nhau, chỉ có thể sờ mũi rồi đi.

Gió thổi ào ào cuốn theo hài cốt đã biến thành tro. Tro đen bay lên lướt qua bầu trời trong vắt.

Đến Tây Thiên…Nóng….

Mặt trời chói chang trên đỉnh đầu khiến cỏ trên thảo nguyên cũng nóng đến hấp hối.

Gió nóng thổi qua cỏ khô, thổi cát vàng tung bay cuồn cuộn.

Một đôi giày da trâu bước trên thảm cỏ, giẫm bẹp lớp cỏ khô vàng.

Mặc dù có gió nhưng ngay cả gió cũng nóng, mồ hôi trong áo giáp da thấm ướt áo.

Thời tiết hôm nay rất đẹp, bầu trời trong vắt mênh mông vô bờ, phóng mắt nhìn đến tận chân trời cũng không thấy một gợn mây.

“Giết!!!”

Đột nhiên, tiếng giết rung trời truyền vào tai, tiếng xung phong liều chết, máu đỏ tươi cắt qua trời quang vạn dặm.

Đó là một tòa thành đất nhỏ, lặng lặng đứng giữa thảo nguyên không biết đã bao nhiêu năm. Tường thành màu vàng đất được xây bằng rơm rạ, gạo nếp trộn cát đá, lại rất rắn chắc.

Quân đội thủ thành ra sức chống cự, nhưng sau hơn mười ngày tử thủ cuối cùng vẫn bị công phá.

Thang chống lên tường đất, cửa thành to nặng bị chùy gỗ đánh vỡ.

Người đàn ông từ trong đội ngũ xung phong liều chết tiến lên, loan đao trong tay ngăn cản đao kiếm của kẻ địch, xoay tròn, đỡ, cắt trên, chém dưới, cắt thịt chặt xương.

Máu tươi bắn tung tóe lên đầu lên mặt hắn, nhưng hắn không hề do dự.

Gió thổi cuồn cuộn, cát bụi tung bay, thổi tiếng sát phạt đi thật xa thật xa. Khuôn mặt kẻ địch vặn vẹo dữ tợn ngay trước mắt nhưng tiếng kêu gào sợ hãi đau đớn dường như lại ở rất xa.

Một thanh giáo chọc rơi mũ giáp trên đầu hắn, cứa qua trán hắn. Hắn kịp thời khom gối nghiêng người tránh thoát. Hắn xoay tay bắt lấy thanh giáo kéo giật lại, thanh đao được mài cực kỳ sắc bén phá gió, cắt qua cổ tên kỵ binh vừa bị hắn kéo xuống ngựa. Máu lại bắn tung tóe, hắn không dừng lại, buông thanh giáo tiếp tục xông lên.

Rốt cuộc chiến tranh bắt đầu như thế nào hắn cũng không rõ lắm, mà hắn cũng không để ý.

Hắn là chiến sĩ, là binh lính, là quân cờ trong tay kẻ cầm quyền!

Hắn ở đây chỉ vì kiếm miếng cơm. Đi theo quân đội, hắn có cơm để ăn, có chỗ để ngủ.

Làm lính, không cần phải nghĩ.

Hắn rất giỏi chuyện này, giỏi không tranh không đoạt cũng giống như hắn giỏi dùng đao, giỏi cách sinh tồn.

Hắn sống ở trong quân đội cũng không tệ. Từ rất nhiều năm trước, hắn đã lấy chiến công đổi lấy tự do. Hắn không muốn công danh, cũng không tích cực cố gắng. Hắn không giống một số người, luôn vọng tưởng yêu cầu xa vời. Có đôi khi, có thể sống sót là đã đủ lắm rồi.

Ngay từ đầu, hắn còn chẳng có đao. Sau đó hắn có tiểu đội năm người, từ từ lên Thập phu trưởng, Ngũ thập phu trưởng, cuối cùng là Bách phu trưởng [1]. Hắn mang theo đám binh lính được phân công đến dưới tay hắn xông pha chiến đấu, giống như một vị Bách phu trưởng nhiều năm trước đã mang theo hắn cùng những người khác xông pha.

[1] Phu trưởng: chỉ huy một nhóm người lao động, ở đây là nô lệ. Thập phu trưởng – chỉ huy mười người, ngũ thập – năm mươi người, bách – một trăm người.

Bọn họ luôn đi đầu tiên, người bên cạnh chết rất nhanh. Đại quân đế quốc không ngừng tấn công giao chiến, mọi người chết quá nhanh, một người ngã xuống một người khác sẽ được bổ sung ngay lập tức.

Lâu dần, hắn không còn biểu lộ tình cảm với người khác, không giao lưu với người khác, không lãng phí thời gian nâng cốc nói cười với người khác.

Ở cái thời đại này, người chỉ như con kiến, còn chẳng giá trị bằng con chó, biến mất còn nhanh hơn giọt sương trên cỏ.

Hắn dẫm lên kẻ địch ngã xuống, cầm đao chém giết, toàn thân đẫm máu xung phong liều chết xông vào trong thành.

Quân địch vừa chặn vừa lui, lấy đất đắp thành những tường thành nhỏ ở vị trí quan trọng. Trong thành các khu, các phường chằng chịt, nhà ở cũng không xây sát vách, để phòng khi có địch có thể kéo dài thời gian chắn địch lui quân.

Mỗi một khu xóm đều có tường, chỉ cần đóng cửa, sẽ tạo thành một cái thành nhỏ, dễ thủ khó công.

Khó công, chứ không phải không công được.

Bọn họ là quân đội được huấn luyện nghiêm chỉnh, một bức tường nho nhỏ không ngăn nổi họ.

Hắn hít vào sau đó bật hơi, trong gió to vung đao lao vào đường nhỏ giữa khu, trong cát vàng rít gào anh dũng giết địch, cho đến khi không còn ai chắn trước mặt hắn.

“A Lãng Đằng!!!”

Đó là một giọng nói quen thuộc, hắn quay đầu, nhìn thấy cậu tiểu binh vừa mới được đưa vào đội.

Giọng nói hoảng sợ, đôi mắt rưng rưng, gương mặt non nớt trắng bệch. Tiểu binh chưa tròn mười bảy tuổi này là dân thường trong một tòa thành bị công phá. Cho nên trước khi cậu ta vào quân đội cũng chỉ là một người chăn dê, võ nghệ lại kém, hắn đành cho thằng bé này làm người bắn nỏ.

Nhưng giờ phút này, thắng bé ấy không có tên, đao thì gãy, đại đao của kẻ địch đang giơ lên định chặt đầu tiểu binh trẻ tuổi. Hắn không nên để ý tới nó, trên chiến trường chẳng ai quan tâm đến ai được, nhưng đó là lính của hắn, mà hắn đã theo phản xạ lia đao trong tay qua. Loan đao sáng bạc xoay tròn trong không trung, chuẩn xác xuyên qua gáy kẻ địch.

Một đao từ bên cạnh chém tới, hắn nghiêng người tránh thoát, lấy khuỷu tay trái thụi lên ngực tên kia, đoạt được thanh đao, tiếp tục giết địch.

Hắn không ngừng xung phong liều chết, thậm chí không có thời gian nhìn kẻ địch ngã xuống.

Khi cuộc chiến kết thúc, hắn luôn là người biết đầu tiên, bởi lúc ấy không còn ai vung đao chắn trước mặt hắn nữa.

Binh lính cũng là người, là người sẽ biết sợ hãi. Lúc hắn cả người đẫm máu lại vẫn không ngã, kẻ địch dù có anh dũng đến mấy cũng phải run tay.

Không biết qua bao lâu, không biết đã chém giết bao nhiêu người, khi gió lặng cát ngừng, dưới trời xanh trong suốt hắn cầm đầu tướng địch đứng lặng giữa quảng trường.

Máu tươi nhỏ giọt từ cái đầu, tất cả mọi người tránh xa ba bước, dù địch hay ta cũng đều nhìn hắn.

Hắn giơ cái đầu lên cao, ngửa mặt lên trời thét dài.

Tiếng thét truyền đi rất xa, khiến càng nhiều người quay đầu lại nhìn.

Không biết là ai bắt đầu hô.

“A Lãng Đằng!”

Một người hai người ba người bốn người, càng ngày càng nhiều người hô.

“A Lãng Đằng! A Lãng Đằng!”

Tiếng hô như thủy triều dâng lan ra bốn phía.

“A Lãng Đằng! A Lãng Đằng! A Lãng Đằng!!!”

Mọi người giơ đao lên, hưng phấn rít gào hô lớn tên hắn.

Theo tiếng hô ầm ĩ lan xa dần, lòng quân rung động, quân địch chết thì chết, trốn thì trốn, tiếng xung phong liều chết lại vang lên nhưng trận chiến chỉ còn nhỏ lẻ. Sau đó không còn là hai quân đối chiến nữa mà là đuổi giết.

Các tướng sĩ đi qua bên người hắn, chỉ có hắn không tiếp tục xông lên.

Kích động dần dần tan biến, hắn đứng tại chỗ, quay đầu nhìn bọn kỵ binh giục ngựa tiến đến. Cát bụi cuồn cuộn, bọn lính lùi sang bên, nhường đường cho đội kỵ binh võ trang, mặc kim khí khôi giáp, tay cầm trường mâu lưỡi mác.

Trong đội thiết kỵ, ngay cả đầu ngựa cũng được bọc giáp, thân ngựa cũng có chiến giáp.

Tướng lĩnh đi đầu toàn thân trắng tinh, khôi giáp trắng, mũ giáp trắng, tuấn mã đang cưỡi là một con ngựa trắng, ngay cả ủng cũng trắng. Màu trắng sạch sẽ như vậy ở trên chiến trường có vẻ càng nổi bật. Tướng lĩnh từ đầu đến chân chỉ có dải tua trên đỉnh mũ là màu đỏ, khiến hắn ta nhìn chói mắt vô cùng.

Người nọ là tướng quân tiên phong, Lạp Tô.

Khác với tướng quân sạch sẽ, mặt và đầu hắn đầy máu, đao trên tay đã cùn, giáp da trên đùi chẳng biết đã cắm một mũi tên từ lúc nào, mũ giáp đã sớm rơi ở đâu chẳng biết, bộ bảo vệ tay bên trái đã sứt chỉ một đoạn, ủng da dưới chân gần như đã hở cả mũi, ngay cả giáp da trên người cũng bị chém toác cả ra.

Hắn tóc tai bù xù tiến lên phía trước, giơ tay giao đầu tướng lĩnh quân địch cho tướng quân.

Tướng quân ngồi trên ngựa, cao cao tại thượng nhìn xuống hắn, không đưa tay nhận, chỉ nhếch môi nhổ một bãi nước bọt lên cái đầu kia.

Kỵ binh bên cạnh tướng quân cười ha hả.

“Mã Cáp Mục, thưởng cho hắn.” Tướng quân nâng tay sai kẻ bên cạnh, sau đó giục ngựa rời đi.

Kỵ binh phía sau tướng quân lấy một thỏi bạc từ túi tiền treo bên hông, quăng về phía hắn. Thỏi bạc phải nặng đến mấy cân, rơi lún sâu vào trong đất vàng. Hắn ném cái đầu đi, ngồi xổm xuống nhặt thỏi bạc.

“A Lãng Đằng? Ta nhổ vào! Cũng chỉ là một tên cẩu nô tài chỉ biết đến ngân lượng! Ha ha ha ha ha!!!”

Kỵ binh nhổ nước bọt vào đầu hắn, cười to ra tiếng, giật dây cương. Tuấn mã ngẩng đầu cất vó chạy qua bên cạnh hắn, để lại một vùng cát bụi mù mịt.

Hắn không tức không giận, tựa như ra trận giết địch. Hắn đã sớm chết lặng với kiểu sỉ nhục ấy, trong thế giới này cái gì cũng là giả, chỉ có tiền là thật.

Đầu một viên tướng địch không chỉ đáng giá một thỏi bạc, nhưng hắn không có ngu xuẩn đến mức tranh luận điều này với đám lính. Một thỏi bạc bằng năm mươi lượng, năm mươi lượng có thể nuôi sống một gia đình bình thường suốt một năm rồi.

Giữa cát vàng đầy trời, hắn nhét bạc vào trong ngực.

Tiếng la giết vẫn không dứt, nhưng đã từ từ đi xa. Hắn đứng dậy đi đến bên đường, rất nhiều đội ngũ tiếp tục đi qua bên cạnh hắn. Không ai thèm nhìn hắn, bọn họ vội vàng vào thành, vội vàng cướp bóc, sợ chậm chân thì ngay cả đồng nát sắt vụn cũng không còn mà nhặt. Để thưởng cho binh lính và tướng lĩnh, tướng quân cho phép cướp bóc tài vật.

Hắn đã từng nghe nói có vài quân đội không cho phép binh lính cướp đoạt của dân chúng, nhưng đó đương nhiên không phải quân đội của hắn, hắn cũng chưa bao giờ gặp được kiểu tướng lĩnh ấy. Tướng lĩnh chẳng khác gì cường đạo, binh lính như thổ phỉ, kỵ binh giống sơn tặc, mỗi lần công thành, đốt giết bắt người cướp của luôn xảy ra.

Hắn vác đao quẹo vào trong ngõ nhỏ. Đại đa số dân chúng đã chạy trốn, không ít cửa nhà đều rộng mở, có cái do bị đá văng, có cái vốn không đóng. Bên trong nhà thỉnh thoảng truyền đến tiếng khóc nức nở, tiếng la hét, phụ nữ, đàn ông, trẻ con, hắn không để ý.

Hắn tìm được một căn nhà mở rộng cửa, một tiểu đội tiền trạm đã đoạt lấy nơi này. Căn nhà hoang tàn nhưng sân sau có giếng.

Hắn múc một thùng nước, nước trong thùng gỗ phản chiếu bầu trời xanh và khuôn mặt đầy máu của hắn. Hắn cúi đầu tạt nước lên mặt, rửa sạch máu xong mới quay lại đi tập hợp với quân đội. Đi trong ngõ nhỏ, hắn thỉnh thoảng có thể ngửi thấy mùi khói lửa, máu và mồ hôi hòa trong không khí.

Ngõ hẻm trở nên vô cùng yên tĩnh, quân đội như châu chấu quét sạch nơi này, tiếp tục sang con đường tiếp theo để cướp đoạt.

Xa xa còn có tiếng vó ngựa của đại quân, tiếng người khóc kêu, tiếng mắng, nhưng nơi này thật yên tĩnh, chỉ còn lại những căn nhà hoang tàn và cát vàng đầy trời.

Đột nhiên, có tiếng kêu thảm thiết từ trong căn nhà bên trái truyền ra. Hắn ngước mắt nhìn, chỉ thấy một binh lính từ trong cánh cửa rộng mở bay ra, trong hốc mắt cắm một mũi tên, trên ngực cũng có một mũi, nhưng vẫn còn rất nhiều mũi tên từ bên trong cửa liên tiếp bay ra.

Là nỏ liên hoàn.

Trong phòng truyền đến tiếng kim loại giao nhau, còn có tiếng đàn ông rít gào, tiếng phụ nữ rống giận. Hắn vốn không thèm để ý tới, nhưng một binh lính khác chạy ra, phía sau có tên bắn tới. Vẻ mặt binh lính hoảng sợ giãy giụa vội chạy tới trước mặt hắn, cuối cùng vẫn ngã xuống, trên lưng cắm vài mũi tên.

Hắn nhận ra khuôn mặt này. Hắn là Bách phu trưởng…

Đây là lính của hắn.

Hắn dừng bước, chạy vội vào, tên vẫn bắn ra như mưa, suýt nữa trúng hắn. Hắn vung đao gạt mũi tên ra, vượt qua cửa.

Ngoài phòng ánh mặt trời nóng cháy, trong phòng lại có vẻ rất tối. Hắn không nhìn thấy rõ lắm, nhưng nghe được tiếng tên ma sát với không khí. Một mũi tên khác lại bắn tới, hắn lại gạt ra, ai ngờ vẫn còn một mũi tên nữa ở ngay trước mắt hắn. Hắn nghiêng người kịp thời tránh thoát, mũi tên cứa qua khóe mắt tạo thành một vết thương dài, máu tươi trào ra che lấp tầm mắt hắn.

Trong bóng tối, mùi máu rất nặng, hắn nghe thấy tiếng đàn ông kêu thảm thiết, thấy một binh sĩ khác ngã xuống trước mặt hắn. Hắn chỉ mơ hồ nhìn thấy một bóng người bắn nỏ.

Hắn nhìn không rõ người nhưng hắn có thể thấy ánh sáng lóe lên ở đầu mũi tên. Hắn biết loại nỏ liên hoàn kích thước nhỏ này, tuy nhỏ tầm bắn cũng chỉ hơn hai mươi mét, nhưng tốc độ nhanh, một cái nỏ có thể lắp mười tám mũi tên, một lần có thể bắn hai phát. Loại nỏ này rất ít gặp, nhưng lại cực kì thực dụng ở mấy cuộc chiến đường phố.

Người nọ không ngừng nhắm vào hắn mà bắn tên. Trong lúc nghìn cân treo sợi tóc, hắn không nghĩ, cũng không cần nghĩ, đây là kẻ địch, mà trong phòng không biết còn có bao nhiêu kẻ địch. Hắn vung đao gạt hai mũi tên đang bay tới, đương lúc người kia định bắn tiếp hai mũi tên nữa, hắn ném mạnh đao trong tay về phía đó.

Ngân đao trong tay hắn bay thẳng tắp, cắm vào cổ họng đối phương, ghim tên kia lên trên tường.

Nỏ liên hoàn trên tay kẻ địch rơi xuống mặt đất, sau đó hắn mới nhìn rõ bộ dạng người nọ.

Đó là một người phụ nữ mặc Hán phục, bộ dạng thanh tú mảnh mai. Quần áo bà ta không chỉnh tề, đã bị xé rách mấy chỗ, son trên môi loen ra xung quanh, mà có binh sĩ đã chết nằm trên đất đã cởi quần xuống. Tình huống này rõ ràng là có người định bắt buộc bà ta.

Bà ta còn sống, đôi mắt đen mở to, tay phải nắm đại đao cắm ở cổ họng. Bà hít vào, lại chỉ khiến máu tươi từ miệng vết thương chảy ra nhiều hơn.

Hắn ngẩn cả người.

Hắn sống ở trên chiến trường, không phải chưa từng gặp phụ nữ, nhưng hắn ít khi giết nhầm phụ nữ và trẻ em.