Chung Thái Phó

Quyển 1 - Chương 2




Lúc này Chung Dật mới đỡ thắt lưng già cả, để vò rượu xuống đất, chống eo đau nhức ngồi dậy, nhìn qua chỗ đứa bé mới vừa ngồi.

… Ồ ồ. Trung Dung (một chủ trương của Nho gia).

Y dễ như trở bàn tay tìm được quyển sách còn vương chút hơi ấm và hơi người, tiện tay mở ra rồi lật xem.

Quyển Trung Dung và hết thảy sách ở chỗ này đều không phải văn thư lưu trữ điển cố sâu xa trong thư khố, những chú thích trong đấy thượng vàng hạ cám, quá nửa là của Hoàng tử các đời lưu lại. Chung Dật tiện tay lật lật, nhớ lại bộ dạng đứa bé ấy nhíu mày suy tư, tâm không khỏi có chút mềm nhũn.

Cầm theo bản Trung Dung, Chung Dật trở lại thư phòng Quốc Tử Giám, đốt đèn, thêm mực, múa bút thành văn cả đêm, đến khi trời lờ mờ sáng cuối cùng cũng viết xong non nửa quyển. Lật qua lật lại nửa quyển đầu,các dòng chữ Tiểu triện chú thích lít nhít tuyên bố thành quả cả một đêm của y, y vô cùng thỏa mãn, thổi tắt đèn, buông bút, cầm bản Trung Dung ấy để lại vào vị trí ban đầu trong thư khố. Rồi mới ôm vò rượu của mình trở về phủ.

Về phủ rồi, y mò vào ổ chăn ấm áp, phu nhân lập tức tỉnh giấc, xoay người lại oán trách nói.

“Đi uống rượu? Cả đêm không về.”

Chung Dật đã buồn ngủ mơ màng lắm rồi, ngượng ngùng cười cười, vội ôm phu nhân, tựa lên vai nàng, “Có đâu mà. Tướng công của nàng đi làm việc tốt.”

“Đức hạnh, chàng có thể làm chuyện tốt gì.” Mùi rượu phả hết vào mũi rồi.

“Làm tiên sinh, truyền bá thuyết giảng những nghi hoặc. Nghiên nhi, ta là…”

“Được rồi đừng lảm nhảm nữa.” Khâu Nghiên Nhi không biết nên tức hay nên cười, muốn tỏ vẻ giận dữ một chút nhưng trong giọng nói lại lộ ra sự đau lòng: “…Nhanh ngủ đi, trước khi lâm triều còn ngủ thêm được chút.”

Chung Dật không nói tiếp nữa, ôm phu nhân, gối lên gối đầu nhanh chóng đi vào giấc ngủ. Y với phu nhân của mình, hai nhà Chung Khâu vốn là thế giao (quan hệ từ nhiều đời), chưa ra đời đã được đính ước thông giao từ bé, sau này cũng là thanh mai trúc mã lớn nhau cùng nhau, cho đến đêm tân hôn hoa chúc đưa vào phòng động phòng, tất cả đều nước chảy thành sông như thế. Trong lúc Chung Dật nửa ngủ nửa tỉnh, lần thứ hai y cảm khái cuộc đời của mình đúng thật không thể thỏa mãn hơn nữa, xuất thân hiển hách, chức quan thanh nhàn, tổ nghiệp hùng hậu, phu nhân xinh đẹp.

Cuộc đời này, đã phải tu luyện phúc khí của mấy đời đây?

Sau đấy, những ngày nào nhàn rỗi vào ban ngày thì Chung Dật sẽ cầm bản Trung Dung chú thích những chỗ không dễ hiểu. Vài ngày sau đó, y phát hiện đứa bé có đáp lại chú thích của y.

Nó bắt đầu khoanh tròn lại các chỗ không hiểu, thậm chí còn lưu lại một nếp gấp nhỏ vào trang cuối mỗi đêm để báo cho Chung Dật biết tiến độ của nó. Mỗi ngày Chung Dật nhìn bản Trung Dung đổi khác đều cảm nhận được đứa bé ấy tuy không biết ai đang dạy dỗ mình nhưng đã thu tâm phòng bị lại, tiếp nhận ý tốt rồi.

Đứa bé thông tuệ lanh lợi, hỏi vấn đề  rất có chiều sâu làm Chung Dật không thể không lục lọi thư tịch trong phủ. Mỗi lần phu nhân thấy dáng vẻ y ngồi nghiên cứu Trung Dung như thế, còn cười nói y càng học càng thụt lùi.

Ban ngày giảng dạy, ban đêm học vấn, thiên hạ vẫn tồn tại một lớp học kỳ quái như này, nhưng sự song hành kỳ quái này lại kéo dài hơn 1 tháng, xem chừng sắp học xong một quyển Trung Dung rồi.

Chung Dật thích hợp làm tiên sinh nhất, bất luận là phu nhân hay Ngô tướng quân hoặc Nhiếp đại nhân đều từng nói như vậy. Thật ra tự bản thân Chung Dật cũng cảm thấy thế, thích lên mặt dạy đời, có thể làm người truyền bá thuyết giảng những nghi hoặc y cảm thấy bản thân ít nhiều gì cũng để lại gì đó cho hậu thế.

Có thể là một chút tính cách, có thể là một ít đạo lý, có lẽ hậu thế, hậu thế của hậu thế rồi sẽ có một người mà có gì đấy giống với y.

Bất kể là sự học của Khổng Mạnh hay các trào lưu tư tưởng, vài điều tốt đẹp ấy, tóm lại đều sẽ truyền nối từng đời như thế.

Trước thân là Thái phó, y chỉ được giáo dục mỗi một học trò là Thái tử, nhưng Thái tử là một người chăm chỉ hiếu học, học 4 năm với y đại khái đã thông suốt tứ thư ngũ kinh (Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử), học vấn cao hơn nữa cần có trình độ, sau này thì tự mình xem hiểu lĩnh ngộ.

Còn đứa bé kia không giống vậy, nó còn nhỏ tuổi, còn đang trầm ngâm với Trung Dung, nó vẫn còn đang lần mò trong đêm đen, cần phải có một người chỉ bảo, soi rọi cho nó.

Chung Dật chăm chú với chuyện này quá sâu nên vẫn chưa nhận ra sinh thần của mình sắp đến, nếu trong phủ phu nhân không nhắc nhở thì y gần như quên mất.

Đúng rồi! Đến sinh thần rồi!

Y vỗ đầu, sinh thần mỗi năm một lần thế này, làm sao mà không nhân cơ hội lừa mấy vò rượu ngon của Nhiếp đại nhân cho được. Thế nên ngày ấy y mặt dày trực tiếp đi tìm Nhiếp đại nhân đòi rượu, Nhiếp Tư Viễn quả thực dở khóc dở cười.

“Chung đại nhân ơi là Chung đại nhân, còn cần đến lão gia ngài mở miệng sao? Sáng nay Nhiếp mỗ đã dặn người mang mấy vò rượu Hoa Điêu ngon nhất đến phủ từ sớm rồi.”

“Tư Viễn, ngươi không phải định chơi ta đấy chứ. Ngươi đưa đến phủ có khác nào không đưa ư?” Vừa nghĩ đến chuyện không uống được đến mấy vò rượu Hoa Điêu ngon nhất, cuối cùng có khi sẽ bị đầu bếp nữ dùng làm gia vị trong phủ, tâm Chung Dật đau thương sắp vỡ nát rồi.

“Haha, Chung đại nhân, Nhiếp mỗ sao mà không biết ngài như thế nào chứ.” Nhiếp đại nhân cười xong, ghé sát vào, thấp giọng nói, “Thật ra đưa đến Chung phủ không phải rượu gì ngon đâu, rượu ngon thì tối đến phủ ta uống đi, gọi thêm Ngô tướng quân cùng đi, không say không về.”

Nghe vậy Chung Dật tức khắc chuyển từ bi thành hỉ, cảm động suýt chút nữa rơi một giọt nước mắt một giọt nước mũi:”Người sinh ra ta là phụ mẫu, còn người hiểu ta là Tư Viễn.”

Bất luận Chung Dật trước mắt người ngoài ra sao, thì đến Quốc Tử Giám đều sẽ nghiêm chỉnh đổi thành dáng dấp của một người tiên sinh, nhưng chỉ cần nghĩ đến tiệc rượu đêm nay, ý cười nơi khóe miệng che giấu thế nào cũng không được.

Nào ngờ mới vừa vào Quốc Tử Giám đã nghe thấy tiếng ầm ầm bên trong, hình như truyền đến từ thư phòng. Y trầm mặc xuống, bước nhanh vào thư phòng.

“Cãi nhau chuyện gì…” Chung Dật vừa vào cửa lập tức mở miệng hỏi, nhưng được nửa câu đã khựng lại.

Trong thư phòng ngăn nắp bị đập phá hỏng bét, trang giấy bay tán loạn, mực văng đâu đâu cũng thấy, Thái tử thở hồng hộc đứng một bên, bên kia là mấy người tiểu thái giám đang ấn một đứa bé, thân hình đứa bé ấy Chung Dật không xa lạ gì, chính là chất tử của Tề quốc.

Y nổi giận, quay qua nhìn Thái tử, “Xảy ra chuyện gì?”

“…” Thái tử bị tiên sinh mình bắt gặp, sững sờ một hồi, suy nghĩ rồi mới nói, “Thằng nhóc vô lại này không phải vương hầu thì làm sao có thể ra vào Quốc Tử Giám. Bổn cung đuổi nó đi ra ngoài, mà nó lại động tay với bổn cung.” Không biết đây có phải lời nói thật hay không, nhưng nghe vào tai vẫn có chút lý lẽ.

Chung Dật thay đổi dáng vẻ nhã nhặn ngày thường, trầm mặc nói: “Ngươi đã không còn là đứa bé. Tiên sinh hỏi ngươi, quân tử đối nhân xử thế phải làm thế nào?”

Thái tử rầu rĩ trầm mặc chốc lát, mới tức giận đáp: “Lễ nhượng ba phần.”

“Nói lại lần nữa.”

Cuối cùng Thái tử cũng nhận ra sai sót của bản thân, mặt hắn dần nóng lên, đỏ mặt thấp giọng nói: “Quân tử đối nhân xử thế phải lễ nhượng ba phần.”

Y có thể nào không hiểu rõ bản tính của Thái tử, ngoại trừ có chút nóng nảy, tính khí vừa nhẹ nhàng vừa ngoan ngoãn, thường ngày cũng đặc biệt hiểu chuyện làm người không nỡ. Chung Dật thấy hắn ngoan ngoãn nhận sai, cơn tức vừa rồi tiêu tan đi, không truy cứu nữa, chuyển hướng sang chất tử Tề quốc.

Các tiểu thái giám buông tay ra, đứa bé lập tức bò dậy, lấy tay áo lau gương mặt đã bị trầy da, thở dốc nhưng mặt vẫn rất quật cường.

Này gần như là lần đầu tiên Chung Dật đối mặt nhìn đứa nhỏ này, nghe nói đứa nhỏ mới 11 tuổi, nhưng trông nhỏ gầy tựa như vẫn chưa đến 8 tuổi.

Thân là chất tử, phải biết an phận thủ thường bảo vệ bản thân cho tốt, làm sao có thể nhiều lần xảy ra xung đột với Thái tử quốc gia, Thái tử điện hạ thế này, về tình về lý đều ngàn vạn lần không nên, đối với Thái tử hay đối với nó đều không có chỗ nào tốt cả.

Chung Dật có phần tức giận, quát lớn: “Ngươi là chất tử Tề quốc, phải hiểu tuân thủ nghiêm ngặt bổn phận, Quốc Tử Giám cũng không phải là nơi ngươi nên đến, còn không mau đi ra ngoài?”

Đứa bé ấy vốn vẫn nhìn Chung Dật, nhưng nghe y nói xong thì chợt ngẩn người, mắt rưng rưng vài lần mới cắn môi chạy ra ngoài.

Ánh mắt ấy thật sự là ánh mắt một đứa bé không nên có, bi thương, oán hận, không cam lòng đều chất chứa trong ấy, Chung Dật bị nhìn chằm chằm đến mức lòng hoảng hốt, đang muốn quay người đến nhìn đứa bé thì bị Thái tử kéo tay lại.

“Tiên sinh. Tiên sinh đừng nóng… Hôm nay là sinh thần tiên sinh, bổn cung chuẩn bị một lễ vật rất lớn để tặng cho tiên sinh này.”

Thái tử ngoan ngoãn nói như thế cứ như ôn tuyền trong ngày xuân vậy, thấm ruột thấm gan làm Chung Dật nghe cũng vui vẻ, đành quay đầu lại, bất đắc dĩ nói, “Ngươi đó. Khi nào mới có thể thận trọng hơn, tiên sinh không cầu gì hơn nữa.”

Thái tử hết sức lanh lợi, nghe ngữ điệu chiều gió biết ngay tiên sinh của mình đã không còn tức giận mấy, cười tủm tỉm vỗ tay, gọi đám thái giám đưa lễ vật mừng tuổi đến cho y.

Chỉ trong chốc lát, hai tiểu thái giám lập tức khiêng vào một con Tỳ Hưu tinh xảo chạm ngọc, Chung Dật nhìn đến cứng mồm cứng lưỡi, tuy năm rồi Thái tử cũng đưa đến đồ cổ bằng ngọc, nhưng không ngờ năm nay sẽ đưa thứ lớn đến vậy.

“Tiên sinh có thích không?!”

Kích thước lớn như vậy… phải đặt ở chỗ nào trong phủ đây, mà đã bỏ ra bao nhiêu bạc cơ chứ? Chung Dật cười khổ nghĩ đông nghĩ tây, cuối cùng vẫn nói, “Chỉ là một cái sinh thần thôi mà, thật phiền ngươi phải nhọc lòng.”

“Không sao hết, tiên sinh thích là được. Nhưng, tiên sinh à…” Thái tử cười đến ngọt ngào, song lộ ra nét giảo hoạt.

“Ừ?”

“Hôm nay là sinh thần tiên sinh mà còn phải giảng bài thì cực khổ quá… Chi bằng tiên sinh hồi phủ nghỉ ngơi một ngày đi. Mỗi năm sinh thần có một lần, cần ở bên cạnh sư mẫu nhiều hơn.”

“…” 

Chung Dật đã sớm biết mật ngọt chết ruồi không có ý tốt gì nhưng bị Thái tử ẩn ý như thế, tâm trạng cũng sáng tỏ, “Là ngươi muốn tranh thủ nhàn rỗi một ngày chứ gì.”

“…Tiên sinh mắt sáng như đuốc.” Thái tử ngại ngùng sờ sờ mũi, “Thật ra cũng không dám giấu giếm, ngày hôm nay bọn Minh Khánh, Hoành Chi muốn đi săn bắn, nhị đệ cũng sẽ đi, bổn cung đã… đã giao hẹn xong rồi.”

Chung Dật bất đắc dĩ, nhưng ngẫm nghĩ Thái tử ngồi học một cách xa rời thực tế thì không bằng cứ đi luyện cưỡi ngựa bắn cung, tạo dựng mối giao thiệp với lớp con cháu quan lại cũng tốt, nên nhắm mắt, cười nói: “Đi đi.”

Thái tử nhận được sự chấp thuận phấn khởi như muốn nhảy cẫng lên: “Tiên sinh phúc như Đông Hải, thọ sánh Nam Sơn! Sinh thần vui vẻ! Sống lâu trăm tuổi!”

Thái tử vừa được đáp ứng, các tiểu thái giám lập tức đặt Tỳ Hưu xuống, bọn họ cứ như lo sợ Chung Dật sẽ đổi ý mà nhanh chân bỏ chạy. Chung Dật hết cách đứng cười nhìn bọn họ đi xa, vén tay áo lên suy nghĩ biện pháp làm sao để chuyển lễ vật mừng tuổi của Thái tử đi, thời điểm đứng lên y cảm thấy dưới chân mình đá đến thứ gì đó.

Chung Dật nghiêng đầu nhìn xuống án thư thử, thì phát hiện bên góc chân có một cái hộp nhỏ tinh xảo nằm đó, khom lưng nhặt lên mở ra, một luồng hương dược thảo thơm ngát xông vào mũi y.

Chung Dật hít một hơi, hình như là cam thảo lộ. Tuy nói cam thảo là dược liệu tầm thường có thể gặp được, nhưng cam thảo lộ này là trân phẩm chỉ có hoàng thất Tề quốc mới có thể được hưởng, có người nói cam thảo lộ này từ các loại như Hoàng kì, Bạch thuật, Hạ cô thảo (vị thuốc đông y) lên men thành. Đeo bên người có thể gọi là chống đỡ bách bệnh.

Vật trân phẩm của hoàng thất Tề quốc này rất hiếm lưu truyền bên ngoài, thỉnh thoảng Dần quốc cũng có bán ra, nhưng một hộp nghìn vàng, các quan lớn hiển vinh ở đô thành không thiếu tiền nhưng có tiền cũng không thể mua được.

Chung Dật không cần suy nghĩ quá nhiều  cũng đoán được cam thảo lộ này là ai đưa đến — e rằng từ khi xuất hành đứa bé ấy vẫn luôn đeo bên người, giữ đến ngày hôm nay. Trước khi thành chất tử, tốt xấu gì cũng là vương tử của Tề quốc, chắc có không ít người thương nó. Không giống như bây giờ…

Năm nay mấy ngày vào thu y từng bất cẩn bị cảm nhiễm phong hàn, liên tục ho khan, hôm qua mới bắt đầu chuyển biến tốt, Chung Dật nhìn cái hộp trong tay, lại nhớ lại mấy câu mình nói lúc nãy, khó tránh khỏi lòng sinh hổ thẹn, cất hộp gấm vào ống tay áo.

Y dù trăm ngàn lần không muốn, nhưng không thể không hoãn tiệc rượu đêm nay lại, ánh mắt Nhiếp Tư Viễn nhìn y lúc ấy phảng phất như nhìn quái vật ba đầu sáu tay.