Chung Thái Phó

Quyển 2 - Chương 30




Trong nhà trúc không còn Hỉ Nguyệt quán xuyến, thì quạnh quẽ hơn rất nhiều.

Chung Dật không thạo nấu ăn, Chung Thế An lại càng có kỹ xảo đặc biệt có khả năng biến trù phòng thành bãi chiến trường.

Ngày thứ hai Hỉ Nguyệt đi, Chung Dật với Chung Thế An bụng đói cồn cào vây quanh Tư Nam Thiên đang bưng mấy món ăn lên, cầm lấy đũa, e dè nếm thử.

Thế An nói: “Chín rồi.”

Lúc này Chung Dật mới cho đồ ăn vào miệng, phát hiện đúng là không phải nói dối, thậm chí còn có vị mặn, y vội dựng ngón cái lên.

Cuối cùng chuyện này chỉ có thể giao cho Tư Nam Thiên. Nhưng mà Tư Nam Thiên cũng không phải người toàn trí toàn năng, nấu ăn chỉ xem là tạm được. Tư Nam Thiên là ảnh vệ, ăn gió nằm sương là chuyện thường như cơm bữa, trước khi đến nhà trúc đều chỉ ăn lương khô, sớm quen với đồ ăn khô khan sơ sài, mà Chung Dật với Chung Thế An cũng không kén ăn, vẫn cố ăn quấy quá được.

Nhưng một lần Lý Hủ đến, miếng đầu tiên liền tức khắc phun hết thứ nhạt nhẽo vừa cho vào miệng ra ngoài. Sau đó, vài lần hắn hỏi dò có muốn sắp xếp thị nữ cho không nhưng đều bị Chung Dật khéo léo từ chối.

Lý Hủ ăn không quen những món ấy, chỉ đành chỉ thị cung nhân truyền Chung Dật tiến cung, hai người gặp nhau trong cung. Thường xuyên qua lại nên Chung Dật cũng hiểu biết đôi chút với cung nhân, cũng từng một lần đối mặt với Đàm Đài Công, mưu sĩ quỷ mưu khiến người nghe tiếng đã sợ mất mật ngày xưa, nay râu bạc tóc trắng, đối nhân xử thế nghiêm minh mà đa nghi.

Tính tính thời gian, Chung Dật chợt nhớ ngày hôm nay là ngày tế Thần Sông mỗi năm một lần ở Ung thành.

Vì không ngẫm nghĩ nên cũng chưa từng nhận ra bản thân đến Ung thành đã tròn 5 năm.

Đang suy nghĩ vẩn vơ thì xe ngựa bất chợt khựng lại, Chung Dật ngó ra xem thử, không phải bên ngoài cửa cung, cũng không phải Hí Phượng Lâu. Y hơi nghi hoặc trầm ngâm nhìn ra xa xa, thì thấy Lý Hủ vận bộ thường phục bằng gấm vóc đứng ở ngõ phố đèn đuốc sáng trưng, khẽ phe phẩy quạt giấy, bên hông treo lơ lửng miếng ngọc bội y tặng. Bốn mắt cùng nhìn nhau, Lý Hủ cong khóe môi thành một nụ cười, Chung Dật ngượng ngùng tránh tầm mắt, lại quay lại liếc nhìn hắn cười, tâm trạng y hơi khó hiểu.

Cung nhân đánh xe thấy trong xe mãi không có động tĩnh, thì thấp giọng mời y xuống xe.

Chờ đến khi Chung Dật chống gậy đến trước mặt mình, Lý Hủ mới mở miệng: “Hình như Thái phó khá bất ngờ?”

“…” Bị lời nói của hắn đánh trúng, vành tai Chung Dật nóng ran, lúng túng nhìn trời.

Gần đây có vẻ như Lý Hủ bận rộn chính sự, số lần cùng tần suất truyền y vào cung cũng ít đi rất nhiều, đôi lúc rảnh rỗi sẽ sai người trực tiếp dẫn y vào cung điên long đảo phượng hôn thiên địa ám một trận, vậy mà hôm nay lại an nhàn ung dung mời y đi xem hội hoa đăng, nói không bất ngờ mới là dối người.

Đương nhiên Lý Hủ biết y đang nghĩ gì, hắn cười hệt như hồ ly, nhưng không vạch trần, tiến lên vài bước nắm chặt bàn tay để không của y. Chung Dật cảm nhận tay mình được bao trùm trong lòng bàn tay ấm áp, ánh mắt mới quay lại người đối diện, Lý Hủ cười, đến bên y, cứ như vậy kéo tay y đi vào chợ.

Đây là lần thứ hai Chung Dật du lãm hội đèn lồng của Ung thành, nhưng không thấy khác biệt gì lớn lắm so với 5 năm trước, ánh trăng soi sáng, đèn đuốc lơ lửng, chủ sạp rao to, trẻ nhỏ tíu tít, thời gian ở Ung thành phảng phất như vẫn còn dừng lại ở những đêm thu lượn lờ chứ chưa hề lãng trôi.

Đời sống của bách tính tại Ung thành sung túc mỹ mãn, dọc đường đi thấy không ít gia đình êm ấm vui vẻ, phu thê tay nắm tay, hài tử xách đèn, một nhà ba bốn cái miệng cười đùa ấm áp, mỗi khi lách người qua thì Chung Dật đều sẽ bất giác ngừng lại nhìn họ.

Suy cho cùng, mong muốn cả đời này của y cũng chỉ giản đơn bình thường như bao người, nhưng hôm nay vốn dĩ nên là độ tuổi nhi tôn chật cả sảnh đường hầu hạ dưới gối, ấy vậy mà giờ chỉ có thể ước ao từ người khác, làm sao không khiến người thổn thức cho được.

“Đừng mơ mộng hão huyền êm êm ấm ấm của người ta, Thái phó còn trẫm đây mà.”

“…” Chung Dật quay đầu lại nhìn Lý Hủ, y cười nhưng không đáp lời.

“Thái phó cười điều chi.”

“Người ta là kết tóc nghĩa tình, cốt nhục tình thâm… Còn thảo dân với Hoàng thượng đều là nam tử, làm điều trái với luân thường đạo lý, bị người đời khinh khi, lại há có thể nói như lẽ thường được?”

“…Sao lại không thể đánh đồng như nhau. Trẫm vừa ý Thái phó, trăm đời ngàn thế đều chỉ cần Thái phó, chứ có khi dù là phu thê, thế gian được mấy người có thể sánh với lòng chân thành của trẫm. Vả lại, Thái phó cũng vừa ý trẫm, chuyện mỹ mãn đến vậy, cần chi ước ao được như kẻ bên ngoài.”

“Ăn nói xằng bậy.” Vạn lần cũng không ngờ Lý Hủ sẽ nói thẳng ra thế này, Chung Dật bị bức đến không nói được lời nào, chỉ có thể sừng sộ phủ nhận.

Lý Hủ nhịn cười, hắn đâu phải đứa ngốc, hai gò má ửng đỏ của Chung Dật đã sớm bán khẩu không đúng tâm của y rồi, nếu không phải bị vướng bởi mặt mũi mỏng dính của đối phương, Lý Hủ thật sự hận không thể ôm lấy y hôn cho thỏa ở trước mắt mọi người.

Chung Dật không nhìn hắn nữa, vừa vặn một thiếu nữ bán hoa cầm giỏ hoa dành dành tỏa ra mùi hương kỳ lạ đi ngang qua, y lập tức xoay người móc  mấy đồng mua vài đóa cất trong tay áo.

Đoạn hội thoại gượng gạo vừa rồi thế là qua loa dời sang đề tài khác.

May mà Lý Hủ cũng không dây dưa với đề tài vừa nãy, dạo thêm chốc lát, chân Chung Dật bắt đầu động không nổi, hai người không chen chúc trong đám đông rộn ràng nữa, tránh sang con đường nhỏ, thả bộ bên bờ sông tĩnh lặng, đứng dừng chân bên một cây cầu đá.

Lý Hủ ngồi trên phiến đá, ngẩng đầu nhìn màn đêm trăng sáng sao thưa, nói: “Thái phó có biết lễ tế Thần Sông hằng năm ở Tề quốc tuy không thể so với Trung thu, nhưng không hề thua kém Trùng Cửu không.”

“Mấy năm nay sống ở bên ngoài Ung thành, tục lệ của Tề quốc cũng biết được đôi chút.” Chung Dật không biểu hiện gì, vô cùng bình tĩnh, “Thôn dân Lê Sơn cũng rất vừa ý ngày này.”

Lý Hủ gật gù, cười nói, “Người dân ở Tề quốc tin tưởng bái tế Thần Sông thì có thể có được sự quan tâm của Thần Sông trong một năm, trẫm cũng không ngoại lệ. Phàm là đại sự quan trọng, trẫm đều phải đợi qua hôm nay.”

Chung Dật nghe hắn nói, thần sắc ngẩn ra, quay đầu nhìn Lý Hủ, bắt lấy những lời ám chỉ thừa nhận kia, y còn chưa mở miệng tìm sự chứng thực, đối phương đã gật đầu: “Quốc khố đã dồi dào rồi, trẫm chuẩn bị tiến quân Tây Bắc.”

“Chuyến đi này không biết là 3 hay 5 năm.” Lúc nói ra câu đấy, Lý Hủ rốt cục thu lại ý cười bên môi, không che giấu được vẻ luyến tiếc trên mặt, hoàn toàn không hợp với tính tình đơn độc hành động trước kia của hắn.

“…” Sắc mặt Chung Dật bình tĩnh, nhưng tinh thần có phần dao động, còn nhớ lần trước Lý Hủ xuôi nam, đối phương vội vã báo mình biết ở hội đèn lồng, rồi qua ngày hôm sau lập tức khởi hành, đi hết 4 năm, không một chút quyến luyến.

Mà giờ đây, người thanh niên xông xáo tràn ngập nhiệt huyết năm đó cũng sẽ vì sự chia cách mà rầu rĩ phiền muộn.

Nghĩ đến đây, Chung Dật bỗng không nhịn được bật cười khẽ, rồi nói: “Hoàng thượng, ngươi cũng già rồi.”

Lý Hủ đã sớm ý thức được bản thân dần thay đổi, nhưng bị Chung Dật nói thẳng ra thế này, hắn nhất thời khá xấu hổ, cúi người phủ lên người Chung Dật dụi dụi làm nũng: “Thái phó còn cười… Là định để trẫm khó chịu đấy phỏng.”

Chung Dật đẩy hắn ra, hỏi: “Khi nào khởi hành?”

“Đợi thêm một lúc nữa, trẫm vẫn cần chờ chút tin tức.” Lý Hủ hôn vành tai và gò má của Chung Dật, thần bí cười cười, “Đúng rồi, là liên quan đến Dần quốc.”

“Dần quốc?”

“Mấy năm qua người Hồ ở Tây Bắc sống rất an phận, trẫm mới vừa biết thì ra vốn là đại gia tộc của Dần quốc liên thủ với người Hồ, chiêu binh mãi mã, rục rịch ngóc đầu.” Lý Hủ cứ như không hề bận tâm đến thân phận của Chung Dật, hắn cười nói, “Ngươi đoán thử xem, hóa ra chính là người của nhạc gia Thái phó.”

“…” Chung Dật không thể nào kiềm chế bản thân, lại lần nữa hồi tưởng thích khách ngày ấy được Khâu gia phái đến, lòng tức thời phát lạnh.

Không ngờ chiến sự Ngô tướng quân trù bị ở Tây Bắc là liên thủ với người Hồ. Vậy phục quốc được nhắc đến là phục quốc nào? Năm ấy Chung Dật với Ngô tướng quân giao tình thâm hậu, y biết Ngô tướng quân làm người chính trực, cũng không phải đang trách cứ hắn, chẳng qua cảm thấy trù bị ở Tây Bắc chắc hẳn khó khăn trùng trùng nên mới phải bất đắc dĩ liên thủ với dị tộc.

Lý Hủ thấy Chung Dật biểu hiện khác thường, nghĩ rằng đối phương lại ghét bỏ mình hăng say chiến sự, lập tức không vui mấy: “Trẫm muốn đảm bảo Đại Tề thiên hạ thái bình thì trên tay nhiễm chút máu có làm sao.”

“…Ngươi, cẩn thận hơn là được.” Chung Dật nói xong, cảm thấy hơi mâu thuẫn, lòng y cũng đang lo lắng cho Ngô tướng quân bọn họ.

Mà hai quân giao chiến, tất có một bên… Binh pháp Tôn Tử từng nói, thị cố bách chiến bách thắng, phi thiện chi thiện giả dã; bất chiến nhi khuất nhân chi binh, thiện chi thiện giả dã. Nhưng trong thực tại, làm gì có kiểu thiện pháp song toàn không chiến mà khuất phục được người đây?

(*) Thị cố bách chiến bách thắng, phi thiện chi thiện giả dã; bất chiến nhi khuất nhân chi binh, thiện chi thiện giả dã: Thế nên, trăm trận trăm thắng chưa hẳn đã là người tướng tài ba nhất; chẳng đánh mà địch chịu hàng mới gọi là mưu trí nhất trong mọi nhà cầm quân mưu trí.

Nguyên đoạn là “Trong phép dùng binh, có thể khiến cho toàn bộ nước địch đầu hàng là thượng sách, đánh tan tành nước ấy chỉ là thứ sách; có thể khiến toàn quân đội địch đầu hàng là thượng sách, đánh tan tành quân đội địch chỉ là thứ sách; có thể khiến cả đơn vị địch đầu hàng là thượng sách, phá vỡ đơn vị đó chỉ là thứ sách; có thể khiến tất cả binh sĩ địch đầu hàng là thượng sách, đánh giết tất cả chỉ là thứ sách; có thể khiến toàn bộ quân ngũ đầu hàng là thượng sách, phá vỡ quân ngũ của địch chỉ là thứ sách. Thế nên, trăm trận trăm thắng chưa hẳn đã là người tướng tài ba nhất; chẳng đánh mà địch chịu hàng mới gọi là mưu trí nhất trong mọi nhà cầm quân mưu trí.”

Lý Hủ nghe được lời quan tâm của y, tâm trạng hắn nhảy nhót, khẽ cười, không dằn lòng được ôm lấy người bên cạnh, nhàn nhạt nói: “Yên tâm đi, trên con đường của trẫm thấy không ít máu tanh. Của mình, người khác, kẻ địch, quân giặc. Con đường đẫm máu này trẫm đều đi qua hết rồi.”

Lý Hủ nói xong, thấy Chung Dật còn đang thất thần suy nghĩ tâm sự, bỗng ấn bả vai y, bình tĩnh nhìn y, cong khóe môi: “Thái phó, biệt ly sắp tới đây… có muốn nói với trẫm điều gì không?”

“Ngươi muốn nghe điều gì.”

“Trẫm muốn nghe tâm ý Thái phó dành cho trẫm.”

“…”

Lý Hủ từ trên cao nhìn xuống, vô cùng đắc ý nhìn Chung Dật như thể sẽ không để cho y yên.

Giống với bao lần trước đây, một lần nữa Chung Dật cảm thấy bị Lý Hủ bức đến không đường lui, bèn nhìn lại đối phương, mái tóc dài thường ngày được chải cột cẩn thận của Lý Hủ giờ khẽ buông trước trán, khiến gương mặt khôi ngô tăng thêm mấy phần tà mị, đôi mắt phượng bình thường trông vô tình bạc nghĩa, khi ẩn tình đưa ý thì gần như có thể nhấn người chết chìm trong ấy, mà giờ khắc này, Chung Dật đã bị sa vào đó rồi, y luôn thấy mình không chạy trốn được.

Cứ tiếp tục cất bước cùng hắn… Trong tâm có một giọng nói cổ vũ càng lúc càng rõ rệt, đến khi Chung Dật không thể nào xem nhẹ nó nữa, đang chuẩn bị mở miệng thì một nam tử bỗng xuất hiện cách đó không xa ôm quyền lên tiếng: “Hoàng thượng.”

Hai người đều khá ngạc nhiên, Lý Hủ còn chưa hỏi thì nghe tiếng ảnh vệ Lục Chương nói: “Tư Nam Thiên phái người đến bẩm báo, Lê Sơn xảy ra chuyện rồi.”

***

Lý Hủ nghe báo nhà trúc dưới Lê Sơn bị tập kích lần nữa, Chung Thế An tung tích không rõ thì lập tức phái hàng ngũ vào Lê Sơn lục soát cứu giúp, đồng thời sai người chuẩn bị xe ngựa hợp lực cùng Chung Dật xuất thành, đã là buổi tối nên cửa thành đóng chặt, cũng may có Lý Hủ ở đây, giơ lệnh bài ra, xe ngựa có thể thông hành.

Hai người chạy đến được chân núi Lê Sơn thì Tư Nam Thiên không ở đó, Lý Hủ phái người lên núi lục xét, nhà trúc chỉ chừa lại một Vệ úy Thiếu Khanh cùng mấy người Vũ lâm quân. Chung Dật đã sốt ruột đến độ hỗn loạn như trên chảo nóng, chỉ biết Thế An xảy ra chuyện rồi chứ không biết đến cùng xảy ra chuyện gì, lòng càng suy đoán càng hoảng, quay đầu nhìn hướng lên núi.

(*) Vũ lâm quân: là tên gọi cấm quân cổ đại và có lịch sử lâu đời nhất của riêng Hoàng đế, được sáng lập trong thời kì Tây Hán Vũ Đế.

Còn Lý Hủ không quá nóng lòng, đứa nhỏ Chung Thế An từ lần trước bị liên lụy ám sát rồi bị thương mà sau còn tự bỏ nhà trốn đi, là một đứa trẻ khiến người ta không lo không được.

Bởi vậy khi nghe tin báo Chung Thế An có chuyện, Lý Hủ cũng không cảm thấy là chuyện gì quá lớn, huống hồ khắp núi đều là Vũ lâm quân vô cùng an toàn, nên không cản Chung Dật, để một mình y lên núi.

Chung Dật lần theo ánh trăng vội vã leo lên núi, thấy trái phải đều là Vũ lâm quân đeo bội đao, không hiểu sao tim lại đập mạnh thình thịch.

Đến khi vòng lên gần đỉnh núi, mới thấy Tư Nam Thiên đẫm mồ hôi đang bố trí nhân thủ đốt đèn đuốc tìm kiếm ở sườn dốc của rừng trúc, Chung Dật chống gậy vội tiến lên, Tư Nam Thiên nhìn thấy y đến mặt tức khắc đầy vẻ lúng túng, sau đó thần sắc nghiêm nghị dị thường: “Chung thái phó.”

Chung Dật lập tức hỏi kỹ một lượt mới biết đã xảy ra chuyện gì.

Khi đó, Tư Nam Thiên với Chung Thế An đang ngồi đánh bàn tính ở tiểu đình bên hồ, tính khoản chi tiêu các mục đặt mua cho trường tư thục, thấy sắc trời sẩm tối, đang chuẩn bị quay về nhà thì bỗng nhiên phóng ra mười mấy tên thích khách đuổi giết. Đối phương người đông thế mạnh, Tư Nam Thiên nghĩ rằng thích khách đến là vì hoàng đế giống với lần trước, nên rút kiếm dốc sức chiến đấu cản thích khách để không liên can đến Chung Thế An chạy lên núi. Nào ngờ mấy tên thích khách đuổi theo, chờ Tư Nam Thiên giết hết chúng chạy lên núi thì không tìm được bóng dáng Thế An nữa.

Tư Nam Thiên không biết làm sao, chỉ có thể phát tín hiệu, sai người đi truyền báo. Mà từ vật những thi thể kia đeo, xác thật cùng một nhóm người.

Nói đến đây, Tư Nam Thiên bỗng nhìn Vũ lâm quân xung quanh, thấp giọng nói: “Chung thái phó, thứ lỗi thuộc hạ nói thẳng… Thuộc hạ cảm thấy mấy tên thích khách này… không phải nhắm đến Hoàng thượng.”

“…” Chung Dật thoáng chốc im lặng.

“…Lần trước, thuộc hạ đã thấy có gì đó kỳ quái. Lúc tám tên thích khách đánh giết vào nhà trúc giao chiến với thuộc hạ, Hỉ Nguyệt với Thế An công tử bỏ chạy ra hậu viện, bọn chúng cũng dứt khoát đuổi theo.” Tư Nam Thiên ngay thẳng nhưng không ngu dốt, tâm tư gã tinh tế, cụp mắt suy nghĩ một chốc, thấy Chung Dật vẫn không nói lời nào, thì lên tiếng nói tiếp, “Nghĩ lại lần này, đúng thật thích khách vẫn nhắm đến Thế An.”

Chung Dật không dám trực diện đối mắt với ánh mắt ngờ vực kia, chỉ đành cúi đầu mím chặt môi: “…”

Mà Tư Nam Thiên thấy không hỏi được gì từ chỗ Chung Dật, gã nói: “Thái phó… về chuyện này, thuộc hạ chỉ có thể bẩm báo Hoàng thượng.”

“Đừng.” Chung Dật cuống lên, vội ngẩng đầu mở miệng ngăn cản, “…Chuyện không đầu không đuôi thế này, có gì để đề cập đâu?”

“Thái phó.”

Chung Dật cảm thấy chẳng qua là Tư Nam Thiên muốn một lời giải thích, nên vội giải vây: “Có gì mà lạ…? Trong nhà trúc chỉ có ngươi, Thế An với Hỉ Nguyệt. Với tuổi tác của Thế An bị nhầm thành Hoàng thượng cũng không gì lạ.”

Tư Nam Thiên buông mắt trầm mặc, như đã giãy giụa rất lâu, mới ngẩng đầu lên, gằn từng chữ: “Thái phó… Thuộc hạ nghe rõ ràng bọn thích khách gọi Thế An công tử là… Tam vương tử.”

[Tam vương tử chạy về phía đường núi!] [Đuổi theo!]

Trong lúc giao chiến hỗn loạn, Tư Nam Thiên xác thật nghe rất rõ xưng hô đấy.

Chung Dật cảm giác máu trong người đều bị rút cạn, lạnh ngắt từ chân lên đỉnh đầu, y bình tĩnh nhìn Tư Nam Thiên, như chợt mất đi toàn bộ khí lực, đầu óc cũng không sử dụng được nữa, nhưng ngoài miệng vẫn cố gắng kháng cự, giải thích: “…Không… Không phải. Thế An nó…”

“Đến tột cùng phải hay không phải, thuộc hạ… chỉ có thể giao cho Hoàng thượng định đoạt.”

Tư Nam Thiên nhíu mày, sắc mặt như không đành lòng, gã biết hậu quả, dẫu sao đã sinh sống cùng nhau dưới một mái hiên 4 năm có lẻ rồi mà, nhưng vốn làm một ảnh vệ không có tư tâm, thì ra gã cũng đã bị khói lửa nhân gian tiêm nhiễm, lòng ít nhiều có chút không nỡ.

“…” Vốn dĩ Chung Dật lên núi để tìm Thế An, nhưng giờ khắc này, y lại cảm thấy tốt nhất là tìm không được nó, hi vọng nó có thể gặp may được cứu vớt đúng lúc ở đâu đó, bình an sống tiếp.

Mà tựa như đang mỉa mai vậy, tâm Chung Dật vừa nảy lên suy nghĩ này thì ở sườn dốc của rừng trúc vang lên tiếng hô của Vũ lâm quân.

“Tìm thấy!” “Tìm được!” “Ở đây!”