Cuộc Săn Cừu Hoang

Chương 33: PHẦN 8: Nàng rời núi, cơn đói hành hạ




Đồng hồ điểm sáu tiếng và tôi thức dậy trên xô pha. Đèn đã tắt, căn phòng chìm trong bóng tối dày đặc. Mọi thứ, từ sâu trong bản thể tôi đến các đầu ngón tay tôi đều tê liệt. Bóng tối lan lên da tôi như mực.

Mưa đã ngớt, chim ăn đêm kêu ngoài kính cửa sổ. Ánh lửa từ máy sưởi đổ bóng mờ nhạt, chập chờn, kéo dài lên bức tường trắng của căn phòng. Tôi đứng dậy bật công tắc ngọn đèn cây trên sàn, vào bếp, uống hai cốc nước lạnh. Một nồi ninh, vẫn còn ấm, nằm trên bếp. Một chiếc gạt tàn đựng hai điếu thuốc đinh hương đã dụi tắt.

Ngay lập tức, theo bản năng, tôi biết cô đã đi mất.

Tôi đứng đó, tay trên mặt bếp, cố sắp xếp ý nghĩ của mình.

Cô không còn đó nữa, điều này là chắc chắn. Không phải tranh luận hay đoán già đoán non gì. Trên thực tế, cô đã không còn ở đây. Bầu không khí trống vắng của ngôi nhà là không thay đổi được nữa, không chối cãi được nữa. Đó là một cảm giác tôi đã biết quá rõ trong vòng mấy tháng từ khi vợ tôi bỏ tôi cho đến khi tôi gặp bạn gái tôi.

Tôi lên gác kiểm tra. Tôi mở các cửa tủ. Không có dấu hiệu gì của cô. Chiếc túi khoác vai và áo khoác nhồi lông của cô biến mất. Cả đôi ủng trong hành lang cũng vậy. Không còn nghi ngờ gì nữa, cô đã đi mất. Tôi lục tìm tất cả những nơi cô có thể đã để lại thư, nhưng không thấy gì hết. Có lẽ cô đã xuống núi.

Tôi không thể chấp nhận sự thật là cô đã biến mất. Tôi hầu như chưa tỉnh ngủ, nhưng kể cả khi tôi hoàn toàn tỉnh táo, điều này – cũng như tất cả mọi thứ đang xảy đến với tôi – vẫn vượt xa tầm lĩnh hội của tôi. Hầu như người ta không thể làm gì hơn ngoài việc để sự việc xảy ra theo ý nó.

Ngồi trên ghế, tôi bỗng nhiên thấy đói. Mà cũng không phải một cơn đói thông thường.

Tôi đi từ bếp vào hầm dự trữ thực phẩm, mở một chai rượu vang đỏ. Quá lạnh nhưng uống được. Quay trở lại bếp, tôi cắt mấy lát bánh mì, rồi gọt một quả táo. Trong khi đợi cho nồi ninh nóng lên, tôi làm ba ly rượu.

Khi nồi ninh đã sẵn sàng, tôi chuyển qua chiếc bàn trong phòng khách và ăn tối trong lúc nghe dàn nhạc của Percy Faith chơi bản "Perfidia". Sau bữa tối, tôi uống cà phê còn lại trong bình, và với xấp bài nằm trên mặt lò sưởi, tôi tự chia ình một ván solitaire. Một trò chơi được phát minh rồi thành mốt ở Anh vào thế kỷ mười chín, sau đó được quần chúng ưa chuộng do luật chơi đơn giản. Một nhà toán học từng tính tỷ lệ thành công trong trò này là một trên hai mươi lăm. Tôi thử ba lần – tất nhiên là không thành công. Tôi dọn đám bài và bát đĩa. Rồi tôi làm nốt chỗ rượu còn lại.

Đêm xuống. Tôi đóng cửa chớp rồi nằm trên xô pha nghe những đĩa nhạc cũ đầy vết xước.

Liệu Chuột có bao giờ quay trở lại không?

Giả sử là hắn sẽ quay lại. Xét cho cùng, hắn tĩch trữ một lượng xăng dầu và thực phẩm cho cả mùa đông kia mà.

Nhưng đó là giả sử. Chuột có thể đã bỏ chỗ này và trở lại thị trấn. Hoặc có thể hắn cặp với một người đàn bà nào đó. Trên thực tế, bất cứ điều gì cũng có thể.

Điều đó có nghĩa là tôi ở trong một mớ bòng bong thực sự. Thời hạn một tháng của tôi, giờ chính xác đã quá nửa, chẳng mấy chốc sẽ hết. Không Chuột, không cừu, chỉ có người đàn ông mặc bộ lê đen kéo lê tôi vào trận chiến hủy diệt cuối cùng của các thần linh. Dù tôi chẳng là cái thá gì, ông ta cứ kéo. Tôi không nghi ngờ gì về điều đó.

Ở thành phố, tuần thứ hai của tháng Mười là thời điểm tao nhã nhất của năm. Nếu tất cả những việc này không xảy ra thì giờ tôi đang ăn trứng ốp lết và uống whisky. Một thời điểm đẹp của một mùa đẹp, vào buổi tối khi mưa tạnh, những cục đá và mặt quầy bar bằng gỗ vững chắc, thời gian trôi chậm chạp, dễ dàng, như một dòng suối dịu dàng.

Đảo ngược toàn bộ cảnh này trong đầu, tôi bắt đầu tưởng tượng một thằng tôi khác ở đâu đó, ngồi trong một quầy bar, nâng niu ly whisky, không mảy may bận tâm đến điều gì. Càng nghĩ đến điều đó, cái tôi khác kia càng trở nên thực hơn, khiến cái tôi này đây không thực một chút nào.

Tôi lắc đầu cho tỉnh.

Bên ngoài, những con chim ăn đêm vẫn tiếp tục kêu gù gù nho nhỏ.

Tôi lên gác và dọn giường trong căn phòng nhỏ mà Chuột đã không dùng đến. Đệm, khăn trải giường và chăn, tất cả đều được xếp gọn gàng nơi tủ tường cạnh cầu thang.

Đồ đạc giống hệt như đồ đạc trong phòng Chuột. Bàn nhỏ cạnh giường, rồi bàn ghế và đèn. Lỗi mốt, nhưng là sản phẩm của cái thời mà mọi thứ làm ra đều bền chắc và hoạt động tốt. Không màu mè.

Đúng như dự đoán, khung cảnh từ cửa sổ đầu giường nhìn ra đồng cỏ. Mưa đã tạnh, màn mây dày đặc đang bắt đầu tan ra. Một vầng trăng khuyết tuyệt đẹp thi thoảng lại tỏa sáng trên đồng cỏ. Như một ngọn đèn pha đang quét trên thứ rất có thể là mặt biển.

Chui vào trong chăn, vẫn còn mặc nguyên quần áo, tôi nhìn chằm chằm vào khung cảnh thoắt ẩn thoắt hiện. Hiện lên trong tâm trí tôi là hình ảnh nhạt nhòa về cô bạn gái đi vòng qua khúc ngoặt không may trên đường, một mình xuống núi. Rồi hình ảnh đó biến mất, nhường chỗ ột đàn cừu và Chuột đang chụp ảnh chúng. Mặt trăng lại trốn sau một đám mây, và khi nó hiện ra, cả cừu lẫn Chuột biến mất.

Tôi đọc Sherlock Holmes bên ánh đèn.