Cửu Ca

Chương 7: Đông quân




Thôn tương xuất hề đông phương,

Chiếu ngô hạm hề phù tang;

Phủ dư mã hề an khu,

Dạ hạo hạo hề ký minh;

(Cửu ca – Đông quân)

Tử Thôn yêu quý mẫu hậu nhưng không thích mẫu hậu ngồi sau màn che.

Không phải không bội phục sự gan dạ sáng suốt và trí tuệ như đấng mày râu của nàng. Từ sau ngày nàng một búa đập nát ngọc liên hoàn, các nước khác đều khâm phục, từ đó về sau không còn ai cố tình đến khiêu khích nữa.

Vương Thái hậu tiếp tục nắm giữ triều chính, quyết sách anh minh, hành sự quyết đoán, nghỉ ngơi dưỡng sức nhưng không quên chuẩn bị cho chiến tranh. Chỉ dùng thời gian nửa năm sau khi tiên vương băng hà để loại trừ từng chuyện gây bất lợi cho quốc gia, cả nước trên dưới dần dần hiện ra cảnh tượng quốc thái dân an.

Cũng bởi vì nàng quá cường thế nên đã khiến Tử Thôn cảm thấy Đại vương như hắn chỉ giống như một khách qua đường nhỏ bé không đáng nhắc đến, chưa bao giờ thật sự có cảm giác ngồi trên vương vị.

Mỗi lần cùng quần thần trong triều thảo luận chính sự, nếu muốn ra quyết sách gì hắn đều phải đoán ý mẫu hậu, ra quyết định đúng với ý muốn của nàng. Nếu không hợp với ý nàng, nàng sẽ ở sau màn che ho nhẹ một tiếng, âm thanh cực nhỏ nhưng ý tứ nghiêm túc nhắc nhở trong đó lại cực kỳ rõ ràng, khiến hắn nghe mà sợ hãi, không ngừng sửa lại những lời đã nói sai.

Khi ý của quần thần hoàn toàn trái ngược với ý nàng, Tử Thôn không chống đỡ được hoặc không thể thuyết phục được bọn họ, nàng sẽ lập tức vén rèm bước ra, dùng một đôi mắt hạnh lạnh lùng nhìn xuống, chỉ cần nàng đưa mắt nhìn bọn họ một lượt, tất cả đều im bặt, cúi đầu khép mi, theo lệnh mà làm. Điều này thường khiến Tử Thôn nhớ đến đêm mưa nhiều năm trước, mẫu thân ôm chặt hắn trong lòng, lạnh lùng đối mặt với gió mưa, tuy hắn cảm thấy an toàn nhưng khi nhìn vào ánh mắt nàng, không khỏi sinh lòng sợ hãi.

Sinh thần mười bảy tuổi, sau khi đã hoàn thành xong hết tất cả các nghi lễ chúc mừng, Tử Thôn một mình trốn trong thư phòng, lại nhìn thấy một chồng chiếu thư, tấu chương đặt trên bàn, tất cả đều do mẫu thân viết ra, sau đó được đưa tới đây để hắn đóng dấu. Trong lòng không khỏi giận dữ, vung tay gạt toàn bộ xuống đất, trong đó có một quyển rớt ngay xuống chân hắn, mở ra, bên trong là những chữ viết ưu mỹ.

Nhặt lên, đó là tấu chương chúc mừng sinh thần hắn, ngôn từ kính cẩn chân thành, bút pháp ôn hòa ưu nhã, như gió mát nắng ấm.

Sau khi Tử Thôn đọc xong, nhìn thật lâu vào lạc khoản (phần đề chữ, ghi tên trên bức vẽ): Tân Dương Quân Bằng Y.

Hắn biết Tân Dương Quân là thúc phụ của hắn nhưng từ khi hắn còn nhỏ đã rời kinh ẩn cư. Từ phụ vương cho đến mẫu hậu, không một ai đề cập đến người này trước mặt hắn, vì thế đối với hắn mà nói, Tân Dương Quân chỉ là một người xa lạ.

“Tân Dương Quân là người như thế nào?” Hắn hỏi vị tiên sinh mà hắn luôn tín nhiệm: đại phu [2] Phạm Anh.

“Thánh nhân.” Phạm Anh đáp.

Phạm Anh không tiếc lời dùng những từ ngữ bùi tai nhất để hình dung Tân Dương Quân, kể các sự tích của y như đi sứ, cầu mưa; lại khen y thông minh mẫn tuệ, tài đức hơn người, nhân hậu yêu dân; khi ẩn cư ở núi U Hoàng, tự mình sống thanh đạm để giúp đỡ dân nghèo, mọi người đều coi y là thánh nhân.

Tử Thôn liền cảm thấy khó hiểu: “Người hiền đức như thế, vì sao không được phụ vương trọng dụng, phải rời kinh ẩn cư? Thậm chí nhiều năm qua, không có ai nói với ta về y.”

Phạm Anh nhất thời cả kinh, tự biết mình đã lỡ lời nhưng lại bị Tử Thôn truy vấn không ngừng, cuối cùng khéo léo nói bóng gió với Tử Thôn rằng năm xưa Tân Dương Quân từng uy hiếp vị trí Thái tử của Tiên Vương, nên Tiên Vương có sự nghi kỵ với y, không thể nào trọng dụng được.

Tử Thôn thở dài: “Đã là thánh nhân, sao lại có tâm tư tiếm quyền chứ? E rằng năm đó phụ vương đã bị tiểu nhân ly gián, mới không trọng dụng Tân Dương Quân.”

Phạm Anh liên tục nói phải. Tử Thôn tiếp tục hưng trí bừng bừng nghe ngóng chuyện của Tân Dương Quân, từ giai thoại truyền thuyết đến nói năng y phục, càng nghe càng thấy người này thanh cao xuất trần, hoàn mỹ vô khuyết.

Sau đó, Tử Thôn nhiều lần gửi thư cho Tân Dương Quân, hỏi y cách cầm quyền trị nước, câu trả lời của Tân Dương Quân cực kỳ tuyệt vời, khiến Tử Thôn rất hài lòng.

Có lần Tử Thôn kín đáo đề cập đến chuyện mẫu hậu chấp chính vất vả, bản thân lại bất tài, không thể phân ưu cùng nàng, Tân Dương Quân đáp: “Thiếu tư mệnh đã cố hết sức mình rồi. Mặt trời mọc từ hướng Đông, giơ cao trường tiễn bắn Thiên Lang.”

Một câu “giơ cao trường tiễn bắn Thiên Lang” khiến Tử Thôn vô cùng phấn chấn, càng củng cố ý định mời y quay về Minh Thành phụ tá mình, thu hồi quyền hành trong tay mẫu thân.

Khi trời vào thu thì Vương Thái hậu bị cảm phong hàn, kéo dài nửa tháng vẫn chưa khỏi hẳn. Tử Thôn liền lấy lý do mẫu hậu cần nghỉ ngơi dưỡng bệnh, muốn triệu Tân Dương Quân về triều phụ chính. Vương Thái hậu kinh ngạc nhìn hắn một lát, rồi dứt khoát bác bỏ: “Không thể.”

Tử Thôn lại khẩn thiết thỉnh cầu, nhưng Vương Thái hậu từ đầu đến cuối đều không đồng ý. Nhưng lần này, tâm ý Tử Thôn đã quyết, liền lấy hết dũng khí chống đối với mẫu thân: “Mẫu hậu, Vương của Xư quốc là Tử Thôn, Tử Thôn có quyền trọng dụng bất kỳ thần tử nào.”

Nghe câu nói này, Vương Thái hậu trầm mặc rồi lại đột nhiên nở một nụ cười kỳ quái, “Được!” Nàng nói: “Con mời y trở về, ta đem Xư quốc này giao lại cho hai người. Ta sẽ mở to mắt xem hai người dùng cách gì để tạo ra thái bình thịnh thế.”

Thấy mẫu hậu cuối cùng cũng chịu thỏa hiệp, Tử Thôn lại có phần áy náy. Đêm trước ngày nghênh đón Tân Dương Quân quay về, Tử Thôn quỳ xin mẫu hậu chỉ cho hắn cách trị quốc. Vương Thái hậu nói: “Không có cách tốt nhất, con chỉ cần nhớ kỹ hai điều: dùng nhân đối đãi với dân chúng, dùng tín đối đãi với các nước khác.”

Tử Thôn gật đầu, lại hỏi: “Chỉ có hai điều này thôi sao?”

Vương Thái hậu suy nghĩ một chút, nói: “Còn có một điều nữa là dùng cẩn đối đãi với Khởi, Kình.”

Bỗng nhiên lại cười: “Tân Dương Quân nhất định sẽ rất chú trọng đến điểm này. Về phần chữ ‘Cẩn’ này nên giải thích thế nào, tự y sẽ nói cho con biết.”

Tân Dương Quân quay về, chưa từng khiến Tử Thôn thất vọng. Tiếp tục thực thi các chính sách của Vương Thái hậu nhưng mạnh tay hơn rất nhiều, luật pháp nghiêm minh, cách chức một số cựu thần vô dụng, cực lực đề bạt nhân sĩ trẻ tuổi.

Lại mở rộng phạm vi chiêu nạp môn khách, không chỉ trọng dụng văn sĩ, mà bất cứ ai có kiến thức uyên thâm về thiên văn, địa lý, y dược, quân sự đều được chiêu nạp, nhất thời Minh Thành ngập tràn ẩn nhân dị sĩ, tất cả đều mong có thể làm việc cho Tân Dương Quân.

Trong nước đã yên ổn, những nước mạnh như Khởi, Kình cũng không dám tùy tiện lấy chiến tranh ra uy hiếp.

Tử Thôn từng hỏi Tân Dương Quân, theo như lời mẫu hậu nói “Dùng cẩn đối đãi với Khởi, Kình”, chữ cẩn này nên giải thích thế nào, Tân Dương Quân chỉ đáp: “Không có ý gì khác, chỉ là cẩn thận mà thôi.”

Những quyết sách liên quan đến quốc gia đại sự, Tân Dương Quân sẽ trưng cầu ý kiến của Tử Thôn. Những lúc ý kiến hai người trái ngược, Tân Dương Quân sẽ kiên nhẫn giải thích quan điểm của mình, phân tích quyết sách khác nhau sẽ dẫn đến kết quả khác nhau như thế nào, khiến Tử Thôn gật đầu liên tiếp, thoải mái tiếp thu đề nghị của y.

Quân thần dường như chưa bao giờ xảy ra tranh chấp, mãi cho đến khi bàn về hôn sự của Vương muội Tang Lạc.

Hôm đó Tử Thôn nổi trận lôi đình vì việc tiến cống của tiểu quốc lân bang Việt quốc. Việt quốc nằm giữa hai nước Xư – Khởi, chuyên sản xuất tơ tằm. Hằng năm, đều tiến cống số lượng lớn tơ lụa cho hai nước. Nhưng năm nay, do có thiên tai nên sản lượng tơ tằm giảm đi, tơ lụa thành phẩm chỉ đủ cho một nước. Khởi quốc thúc giục, lại kiên quyết yêu cầu số lượng tiến cống không được ít hơn mọi năm. Sau khi Việt Vương cân nhắc thiệt hơn, quyết định tiến cống tất cả tơ lụa cho Khởi quốc, hoàn toàn bỏ qua Xư quốc.

Có Xư thần dâng tấu nói rằng: “Việt quốc ỷ có Khởi quốc che chở, coi thường thiên uy của Vương nước ta đã không phải ngày một ngày hai. Nếu lại bỏ qua chuyện lần này, sẽ tổn hại đến thanh danh của nước ta, ta nên xuất binh thảo phạt để trừng trị Việt quốc.”

Lại có người phản đối: “Với binh lực của nước ta, diệt Việt quốc không phải là vấn đề lớn. Nhưng Việt quốc lại có quan hệ mật thiết với Khởi quốc. Khởi quốc chắc chắn sẽ không ngồi yên nhìn chúng ta tiêu diệt Việt quốc. Nếu chúng ta tấn công, Khởi quốc nhất định sẽ xuất binh tương trợ Việt quốc, đến lúc đó, phần thắng của chúng ta sẽ chẳng còn bao nhiêu.”

Tử Thôn liền nổi giận: “Từ nhỏ ta đã thấy, chúng ta bị Khởi quốc quản chế, khắp nơi đều phải nhìn sắc mặt bọn họ mà hành sự. Nay, thực lực của chúng ta ngày một mạnh lên, hơn hẳn trước kia. Nếu đại chiến một trận với Khởi quốc, chưa chắc đã thua. Sao không dứt khoát nhân cơ hội này giao chiến với bọn họ, tốt xấu gì cũng tỏ rõ nhuệ khí của chúng ta.”

“Đại Vương bớt giận.” Tân Dương Quân chầm chậm bước ra khỏi hàng, khom người nói: “Chiến tranh không phải trò đùa, nếu không có phần thắng thì không thể tiến hành. Muốn giao chiến với Khởi, thời cơ chưa tới, cường lực chưa đủ, chỉ tăng thêm thương vong mà thôi.”

Tử Thôn căm giận hỏi: “Theo ý thúc phụ, chúng ta nên xử lý chuyện lần này của Việt quốc thế nào?”

Tân Dương Quân chỉ đáp một chữ: “Nhẫn.”

Đêm hôm đó, Tân Dương Quân vào cung yết kiến Tử Thôn, đề xuất với hắn một cách giải quyết: đem công chúa Tang Lạc – muội muội cùng cha khác mẹ với Tử Thôn gả cho Khởi Vương Khoảnh Tung.

Tử Thôn kinh ngạc: “Khởi vương Khoảnh Tung năm nay đã sáu mươi tuổi, mà Tang Lạc mới tròn mười lăm. Hơn nữa, Khởi Vương là nhạc phụ của thúc phụ, Tang Lạc lại là chất nữ (cháu gái) của thúc phụ; nếu liên hôn, chẳng phải là trái với luân thường đạo lý sao?”

Tân Dương Quân nói: “Từ xưa đến nay, việc liên hôn giữa các nước đều không quan tâm đến bối phận (vai vế lớn nhỏ), chuyện này là hoàn toàn bình thường. Khởi Vương không có quan hệ huyết thống với Tang Lạc, cũng không nằm trong ngũ luân*, liên hôn cũng không có gì trái với luân thường đạo lý.”

* ngũ luân: năm quan hệ luân lí phong kiến: vua tôi, cha con, anh em, chồng vợ, bạn bè

“Không thể!” Tử Thôn kiên quyết phản đối, sắc mặt giận dữ.

“Làm vua, không thể hành động theo cảm tính. Nếu muốn thành đại nghiệp, trước tiên cần phải học cách từ bỏ.” Tân Dương Quân không run không sợ, vẫn dùng giọng nói hòa hoãn giải thích với hắn: “Tang Lạc đã cập kê, cũng vang danh khắp nơi. Khởi Vương háo sắc, Vương Hậu lại vừa hoăng thệ. Nếu Đại Vương đề xuất liên hôn, hắn chắc chắn sẽ vui vẻ đồng ý. Chúng ta phái sứ thần đến Khởi quốc, bề ngoài là bàn bạc việc liên hôn, nhưng thực chất là bàn bạc việc diệt Việt quốc. Chúng ta sẽ xuất binh, Khởi quốc chỉ cần án binh bất động, không giúp đỡ Việt quốc. Sau khi diệt Việt xong, chúng ta chia Việt quốc thành bảy phần, dùng bốn phần làm của hồi môn cho Tang Lạc gả đến Khởi quốc. Bọn họ không tốn một binh một tốt nào lại có thể có được bốn phần lãnh thổ của Việt quốc và công chúa của nước ta, sao không chịu chứ…”

“Thúc phụ giống như đang suy nghĩ cho Khởi quốc, quả không hổ là hiền tế của Khởi quốc.” Tử Thôn cười lạnh: “Dùng công chúa để nịnh nọt Khởi quốc, cho dù chiếm được một nửa giang san của Việt quốc, cũng sẽ bị người trong thiên hạ chê cười.”

Tân Dương Quân lắc đầu: “Nếu chỉ vì một Việt quốc cỏn con, cần gì dùng đến kế này. Hôm nay Đại Vương hy sinh Vương muội, tuy phải nghe những lời chế nhạo của thế nhân, nhưng tương lai lại có thể trừ khử được kình địch trăm năm của Xư quốc, hoàn thành đại nghiệp.”

“Trừ khử được kình địch trăm năm của Xư quốc…” Tử Thôn ngẩn ra, hỏi lại: “Thúc phụ muốn nói đến việc diệt Khởi?”

Tân Dương Quân nở một nụ cười nhàn nhạt.

Tử Thôn khó hiểu: “Liên hôn có liên quan gì đến việc diệt Khởi?”

Tân Dương Quân: “Đại Vương là người cơ trí, có một số việc không khó để nghĩ ra, thần không cần nhiều lời.”

Khoanh tay bước đi, suy nghĩ một lát, Tử Thôn hỏi y: “Khởi Vương không có đích tử (con trai của vợ cả). Mấy năm nay, hai vị thứ tử (con trai của vợ lẽ) là công tử Trưng và công tử Kỳ tranh giành gay gắt, đều muốn đoạt được vị trí Thái tử… Chẳng lẽ thúc phụ hy vọng, sau khi Tang Lạc gả vào Khởi quốc, có thể sinh hạ đích tử cho Khởi Vương…”

Tân Dương Quân từ chối cho ý kiến, chỉ nói: “Có thể sinh hạ đích tử hay không, cũng không ảnh hưởng gì đến đại kế… Xin Đại Vương hứa gả Vương muội. Sau này Đại Vương sẽ thấy, đây là chuyện bách lợi vô hại*. Nếu sai, xin hãy lấy mạng của thần.”

*bách lợi vô hại: có trăm điều lợi mà không có một điều hại

Nhớ đến Vương muội Tang Lạc, Tử Thôn liền giận tái mặt: “Gả Tang Lạc cho một lão già sáu mươi, sao có thể nói bách lợi vô hại?”

Thở dài một tiếng, Tân Dương Quân đưa mắt nhìn Tử Thôn, trịnh trọng nói: “Thân là nữ tử của Xư quốc, có thể dùng bản thân để đổi lấy lợi ích cho quốc gia, phúc lợi cho vạn dân, đối với nàng mà nói, là vinh quang vô hạn. Đại Vương cũng không cần vì thế mà áy náy, muốn làm nên đại nghiệp, tất phải có hy sinh mất mát. Là vua một nước mà có lòng dạ nữ nhi, chắc chắn sẽ hại nước hại dân.”

Đây là lần đầu tranh luận mà Tử Thôn dùng im lặng để kết thúc.

Hôm sau, trong lúc đi dạo trong cung, hắn bất giác đi đến đình viện của Tang Lạc, thấy nàng đang vươn tay lên cao, lòng bàn tay đang nâng một con chim én nhỏ.

“Bay đi, bay đi…” Tang Lạc nhẹ giọng thúc giục chim én nhỏ, một tầng ánh mặt trời mỏng manh phủ lên mặt nàng, khiến cả khuôn mặt bừng sáng như ánh bình minh. Nàng cười khanh khách, ánh mắt trong veo như nước.

Chim én nhỏ giương cánh bay cao. Nàng thu tay về, vẫn ngửa đầu mỉm cười nhìn lên, vẫy vẫy tay với chim én nhỏ.

Nghe thị tỳ thỉnh an, Tang Lạc mới quay đầu nhìn lại. Thấy Tử Thôn đến, hai mắt Tang Lạc sáng ngời, nhấc váy chạy tới hành lễ, không đợi hắn nói “Miễn lễ” đã ngẩng đầu, cười nói: “Ca ca, con chim én vừa rồi là do muội nuôi lớn đấy!”

Tử Thôn tự mình đỡ Tang Lạc đứng dậy, mỉm cười hỏi nàng: “Thật không?”

Tang Lạc liên tục gật đầu, còn chỉ vào mái hiên nói: “Cha nương nó xây tổ ở chỗ đó để nuôi nó, nhưng lại bị cung nhân dọn dẹp mái hiên làm hư mất. Muội nhặt được nó, liền nuôi nó trong lồng chim, mỗi ngày nhìn nó lớn lên. Hôm nay, thấy lông cánh của nó đã mọc đủ, muội liền thả nó ay đi…”

Nụ cười đột nhiên biến mất, Tang Lạc buồn bã nói: “Nhưng sau này muội sẽ không gặp được nó nữa…”

Tử Thôn nhẹ nhàng an ủi nàng: “Én nhỏ lưu luyến gia đình, nhất định sẽ quay trở về.”

“Thật sao?” Tang Lạc liền cười, “Vậy mỗi ngày muội đều ở đây đợi nó quay về. Chờ đến sang năm, không chừng sẽ nhìn thấy con của nó nữa.”

Sang năm, có lẽ chim én sẽ quay về, nhưng người chưa chắc đã còn ở đây. Tử Thôn thở dài, không nói một tiếng nào nhanh chóng rời đi, bỏ mặc Tang Lạc ở phía sau liên tục gọi “ca ca”.

Trở lại tẩm cung, lệnh cho tất cả cung nhân lui xuống. Nhất thời Tử Thôn không kìm nén được, úp mặt lên bàn rơi nước mắt.

Đột nhiên có người vỗ vai hắn. Tử Thôn ngẩng đầu lên, rưng rưng gọi: “Mẫu hậu.”

Vương Thái hậu ngồi xuống bên cạnh hắn, nhìn hắn bằng ánh mắt nhu hòa.

“Mẫu hậu, thúc phụ muốn con gả Tang Lạc cho Khởi Vương. Con có nên đồng ý không?” Tử Thôn hỏi.

Vương Thái hậu không đáp, chỉ hỏi hắn: “Con muốn thái bình thịnh thế như hiện tại, hay muốn làm nên đại nghiệp, thậm chí, thống nhất thiên hạ?”

Tử Thôn không trả lời ngay mà suy nghĩ một lúc mới nói: “Thân là nam nhi, tất nhiên phải kiến công lập nghiệp…”

“Vậy thì nghe lời thúc phụ con nói.” Vương Thái hậu cười ha hả một tiếng rồi đứng dậy rời đi. Câu nói tiếp theo, giống như tự nói với chính mình: “Y không sai. Đối với dã tâm của nam nhân mà nói, một nữ nhân chỉ là nhỏ bé không đáng kể.”

Việc liên hôn được tiến hành vô cùng thuận lợi, trong vòng hai tháng đã hoàn thành xong tất cả các lễ nghi như nạp thải, vấn danh, nạp cát, nạp trưng, thỉnh kỳ.

Sau đó Xư quốc xuất binh tấn công Việt quốc. Khởi quốc thật sự không xuất binh giúp đỡ Việt quốc. Khi Xư quốc diệt Việt quốc xong, hai nước y hẹn phân chia lãnh thổ Việt quốc.

Mùa xuân năm sau, Khởi vương liền phái người tới đón dâu.

Ngày Tang Lạc xuất giá, không thấy nàng hành lễ từ biệt với Tử Thôn cùng Vương Thái hậu. Tử Thôn bèn thắc mắc. Vương Thái hậu liền giải thích qua loa với hắn: “Nó khóc rất kinh khủng nên tối qua ta đã bảo người cho nó uống thuốc an thần. Bây giờ nó đang ngủ say trong xe.”

Tử Thôn không để ý đến lễ nghi, rời khỏi chỗ ngồi đến gần xa liễn của Tang Lạc, vén rèm lên nhìn nàng.

Nhưng lại thấy nàng mặc y phục Vương Hậu, nằm nghiêng trong xe, mũ phượng trên đầu hơi lỏng, nhắm mắt ngủ say. Nước mắt làm nhòe đi son phấn trên mặt nàng. Hai hàng lông mi vẫn còn đọng lại chút nước mắt.

Cung nhân dè dặt tiến lên kéo hắn về. Hôn sứ dẫn cung nhân bồi giá hành lễ lần nữa, sau đó khởi hành.

Tử Thôn đứng lặng trước đại điện, nửa ngày không nhúc nhích, ngửa mặt nhìn trời. Bầu trời mây đen vần vũ, có hạt mưa rơi xuống, che khuất tầm nhìn.

__________________

Chú thích:

[1] Bài thơ Đông quân

– Hán – Việt:

Thôn tương xuất hề đông phương,

Chiếu ngô hạm hề phù tang;

Phủ dư mã hề an khu,

Dạ hạo hạo hề ký minh;

Giá long chu hề thừa lôi,

Tải vân kỳ hề uỷ xà;

Trường thái tức hề tương thượng,

Tâm đê hồi hề cố hoài;

Khương thanh sắc hề ngu nhân,

Quan giả đạm hề vong quy;

Hằng sắt hề giao cổ,

Tiêu chung hề dao vi;

Minh trì hề xuy vu,

Tư linh bảo hề hiền khoa;

Tuyên phi hề thuý tằng,

Triển thi hề hội vũ;

Ưng luật hề hợp tiết,

Linh chi lai hề tệ nhật;

Thanh vân y hề bạch nghê thường,

Cử trường thỉ hề xạ Thiên Lang;

Thao dư hồ hề phản luân giáng,

Viện Bắc Đẩu hề chước quế tương;

Soạn dư bí hề cao đà tường,

Diểu minh minh hề dĩ đông hành.

(Bài này để tụng khi tế mặt trời.)

– Bản dịch của Đào Duy Anh

Hửng sắp lên a ở phương đông

Soi lan can ta a cây phù tang

Ta thắng ngựa a đi đâu nhỉ?

Đêm dần dần a đã sáng choang

Cỡi xe rồng a sấm vang

Chở cờ mây a lượn phới

Than thở dài a lên xe

Lòng bồi hồi a ngoái lại

Tiếng hay cùng a sắc đẹp

Người xem vui a mải quên

Gảy đàn a đánh trống

Lay giá a chuông rền

Rúc sáo a thổi kèn

Nghĩ bóng a xinh đẹp

Nhẹ nhõm a thuý bay

Hát lên a múa nhịp

Cung thương a hợp điệu

Ngài tới a huy hoàng

Áo mây xanh a xiêm ráng bạc

Phóng tên dài a bắn Thiên Lang

Cầm Bắc Đẩu a rót rượu nồng

Dóng dây cương a ta cao tuổi

Trời mịt mù a trở lại đông

[2] Đại phu: ở đây không có nghĩa là thầy thuốc, mà đây là một chức quan to thời xưa, dưới quan khanh, trên quan sĩ.