Đại Đường Song Long Truyện

Chương 674: Thánh nhân cửa thiền




Úc Nguyên Chân và Bạt Dã Cương đưa Khấu Trọng và Vô Danh đến cửa ra ở đoạn phía nam Thiên Thành hiệp. Bạt Dã Cương than thở:

- Thiếu Soái và Vương Thế Sung là hai người khác nhau hoàn toàn. Tại chiến trường Thiếu Soái luôn đi trước sĩ tốt, xung phong lao vào trận địch.

Úc Nguyên Chân nói:

- Thiếu Soái không giống bất kỳ ai. Ngay cả Mật công khi quật khởi trọng hiền đãi sĩ cũng chẳng thể so sánh được với Thiếu Soái, không tuyệt đối tin tưởng chúng ta như thế.

Khấu Trọng đưa tay vỗ vai hai người bọn họ, cười nói:

- Một ngày là huynh đệ, cả đời là huynh đệ, có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu. Mọi người đối với nhau chẳng tiếc thân mình, đó mới là huynh đệ chân chính, hết lòng vì nhau.

Úc Nguyên Chân và Bạt Dã Cương đều lộ thần sắc cảm động. Khấu Trọng không phải là kẻ nói suông, các nhiệm vụ nguy hiểm nhất đều do gã một tay thực hiện, để cho kẻ dưới có thể hưởng thành quả.

Bạt Dã Cương nói từ tận đáy lòng:

- Ngày đó ở vùng núi phía tây bắc Y Khuyết, bọn ta bị quân Đường vây hãm, Thiếu Soái không để ý đến sống chết quay lại chặn truy binh cho Dã Cương. Ngay lúc đó Dã Cương đã hạ quyết tâm, cho dù gan óc lầy đất cũng nguyện theo Thiếu Soái đến cùng. Có thể gặp được minh chủ đại nhân đại nghĩa như Thiếu Soái thật là phúc phận của Dã Cương.

Úc Nguyên Chân nói với sự đồng cảm sâu sắc:

- Thắng lợi cuối cùng tất thuộc về chúng ta.

Lúc này ba người vừa đi đến hàng rào gỗ trước lối ra ở phía Nam. Mười chiến sĩ Thiếu Soái quân đang canh gác nghe thấy lời Úc Nguyên Chân liền đồng thanh hô:

- Thắng lợi cuối cùng sẽ thuộc về chúng ta.

Khấu Trọng ngửa cổ cười dài. Nhấc tay khỏi bờ vai hai thuộc hạ, gã nói:

- Hoàn cảnh càng gian nan vất vả càng thể hiện uy phong của Thiếu Soái quân, thành quả của thắng lợi sẽ càng ngọt ngào, sắc thái chân chính của sinh mệnh mới có thể phát huy. Ta nguyện cùng các người nỗ lực hết mình.

Chúng tướng sỹ ầm ầm hưởng ứng, âm thanh rung chuyển hiệp đạo.

Khấu Trọng lại hỏi han ân cần đám thủ hạ canh cửa ra. Mỗi câu nói của gã đều xuất phát từ đáy lòng khiến người ta cảm động. Khi nghe hỏi đến tình hình bên ngoài, gã đội trưởng cung kính đáp:

- Theo chỉ thị của Mưu công, thuộc hạ phái thám tử đến tuần tra ở những cao điểm bên ngoài, tuy nhiên chưa thấy có động tĩnh gì.

Khấu Trọng nói:

- Tình thế có thay đổi, Mưu công sẽ tăng cường phòng ngự tại đây, ngươi lập tức gọi các huynh đệ ở bên ngoài quay về, chỉ cần thủ tốt lối ra là được.

Viên đội trưởng phát đi hiệu lệnh, thủ hạ lĩnh mệnh thổi kèn hiệu gọi toán thám tử quay lại hiệp đạo.

Khấu Trọng thả Vô Danh lên trên cao để quan sát xa gần, đoạn gã nói tiếp:

- Khuất Đột Thông không phái người đi dò đường trước là để tránh đả thảo kinh xà, sợ chúng ta phát hiện ra. Nhưng ở một nơi nào đó mà chúng ta không nhìn thấy, nhất định có người của hắn nghiêm mật giám sát. Chỉ cần chúng ta có bất kỳ biểu hiện gì như rục rịch chuồn đi chẳng hạn, khẳng định sẽ lĩnh đủ đòn phục kích bất ngờ của hắn.

Úc Nguyên Chân và Bạt Dã Cương gật gù đồng ý. Khuất Đột Thông chính là danh tướng từ thời Tùy, từ khi theo về nhà Đường chiến tích càng rực rỡ, liên tục lập đại công. Lần này hắn mang trách nhiệm nặng nề, tất không dám cẩu thả.

Nhìn Vô Danh biến thành một điểm đen trên bầu trời đêm, Khấu Trọng nói:

- Cách năm mươi dặm về phía Tây có kẻ địch, nhân số không ít, chắc là quân tiên phong của Khuất Đột Thông. Chiếu theo lộ trình của bọn chúng thì có thể đến đây vào bất cứ lúc nào chiều mai, các ngươi chớ nên khinh địch.

Úc Nguyên Chân nghiêm trang nói:

- Thiếu Soái cứ yên lòng!

Khấu Trọng nhìn quanh địa thế hiệp đạo, đường núi nhỏ ở lối ra này chỗ rộng nhất chỉ khoảng ba trượng, chỗ hẹp không đến hai trượng. Gã trầm giọng:

- Hiệp đạo tuy bất lợi cho tấn công nhưng muốn công kích kẻ địch bên ngoài thì cũng không phải là chuyện dễ. Thời gian lại không cho phép chúng ta ra ngoài thiết lập lũy trại đủ chắc để tạo thành công sự phòng ngự, nên chỉ có thể bày cách khác, tính chuyện củng cố bên trong hiệp đạo.

Úc Nguyên Chân nói:

- Chúng ta có một số lượng lớn gỗ, có thể gia tăng chướng ngại vật ở đây. Vấn đề là đám chướng ngại vật đó sẽ khiến chúng ta không thể phối hợp với Thiếu Soái đối đầu với kẻ địch trước sau giáp kích.

Bạt Dã Cương lên tiếng:

- Cách này không làm được. Kẻ địch rất dễ dàng tiếp cận xung quanh hai bên lối ra, chỉ cần bỏ một mồi lửa sẽ khiến chúng ta vô cùng thảm hại. Nếu gió Nam thổi đến, cả hiệp đạo sẽ tràn ngập trong khói lửa. May mà hiện tại không phải gió Đông Bắc thì cũng là Tây Bắc, nếu không thì chút khói dư thôi cũng đủ khiến chúng ta phải tháo chạy khỏi đây.

Khấu Trọng giật mình nói:

- May mà được Dã Cương đề tỉnh. Hỏa công của kẻ địch thực sự là một chiêu giết người vô cùng cay độc mà lại khó đối phó. Ta luôn nghĩ không ra, vì sao Khuất Đột Thông đến Tương Dương xong lại chần chừ hai hôm rồi mới khởi hành. Lúc đầu ta nghĩ đó là thời gian cần thiết để điều động quân đội, nhưng rõ ràng không hợp lý. Quân giữ thành Tương Dương vì đề phòng chúng ta đột vây về phía Nam nên đã sớm gối giáo chờ trời sáng, chuẩn bị kỹ càng, lúc nào cũng có thể khởi hành tác chiến. Đến giờ ta mới nghĩ ra, Khuất Đột Thông muốn nhanh chóng làm máy quạt gió để tạo ra gió Nam nhân tạo hòng thổi khói vào trong hiệp đạo. Đó là chiêu tuyệt diệu nhất để công phá tuyến phòng ngự của chúng ta.

Úc Nguyên Chân và Bạt Dã Cương đồng thời biến sắc.

Khấu Trọng nhanh chóng bình tĩnh lại rồi ung dung cười nói:

- Đã nghĩ ra sách lược của kẻ địch, đương nhiên sẽ có cách phá chúng. Ta đề nghị Trần công xây một số ụ lớn bằng đất đá bịt kín lối ra, càng cao càng tốt. Trên tường lại bố trí cung thủ, máy bắn đã và máy tạo gió. Hai thứ đầu tiên để đối phó quân địch còn cái sau chống khói. Bỏ đi một đoạn đường ngoài lối ra thì đâu mất mát gì chứ?

Úc Nguyên Chân mừng rỡ đáp:

- Trong thiên hạ chỉ sợ chẳng có vấn đề hóc búa nào mà Thiếu Soái không giải quyết được. Bọn thuộc hạ sẽ tạo một bức tường khói lửa đầu tiên cách cửa hiệp đạo sáu trăm bước, như vậy kẻ địch muốn tiến vào sẽ phải phơi mặt trong tầm bắn của chúng ta.

Bạt Dã Cương cười nói với lòng tin tuyệt đối:

- Khi cần thiết còn có thể lấy hỏa công đấu hỏa công, khiến chúng phải sặc khói mà chết.

Khấu Trọng cười lớn:

- Quan trọng nhất là ứng biến linh hoạt. Bên này cũng cần phải thêm một cái ao giống như trong sơn trại, lúc cần thì lấy vải nhúng nước mà che miệng để đề phòng sặc khói, kẻ địch chưa chắc đã có thứ này đâu!

Đúng lúc này cửa chặn mở ra, quân canh gác lục tục quay trở về trại.

Khấu Trọng nói:

- Nơi đây giao cho các vị, tiểu đệ đi đây!

Một tiếng cười dài cất lên, gã lao vào dải đồng hoang thăm thẳm.

o0o

“Tử Lăng! Tử Lăng!”

Từ Tử Lăng tỉnh dậy từ trạng thái sâu thẳm nhất của việc tĩnh tu. Sự thật là gã đang ở một loại trạng thái thần diệu dị thường, tinh thần giống như cùng trời đất dạo chơi, hòa vào thành một thể. Huyệt Dũng Tuyền dưới bàn chân dù vẫn chưa thể hấp thụ tinh khí trời đất, tuy nhiên gan bàn chân trái đã tích tụ nhiệt khí, gan bàn chân phải đã ẩn giấu khí lạnh. Đó là chuyện chưa từng xảy ra từ sau khi bị thương, nhưng gã không kinh hãi mà lại vui mừng vì nói chung thương thế vậy là đã có chuyển biến.

Từ Tử Lăng giống như đang tới nơi sâu thẳm trong biển tâm linh vô hạn thì bị tiếng gọi của Hầu Hy Bạch kéo trở lại nhân thế, một lần nữa lại cảm thấy thân thể bị trọng thương. Gã mở mắt, chỉ thấy con thuyền đã tiến vào một nhánh nhỏ ven khu rừng rậm, dòng Hoài Thủy phía sau vẫn chầm chậm chảy miệt mài, liền ngạc nhiên hỏi:

- Có chuyện gì vậy?

Hầu Hy Bạch đáp khẽ:

- Thượng du phía trước có một đám thuyền bè tụ thành một đội, treo đầy cờ xí Hải Sa bang. Chúng đang đang tíu tít chuyển một lượng lớn hàng hóa lên hai bên bờ, một bọn khác có vẻ như đang thu nhận. Ta không muốn gây thêm rắc rối nên đang tính đợi bọn chúng rời khỏi rồi mới tiếp tục hành trình.

Từ Tử Lăng nói:

- Chúng ta lên bờ bí mật xem thử coi.

Hầu Hy Bạch nhăn mày nói:

- Trong tình cảnh như thế này thì tránh va chạm là tốt hơn hết. Ài! Ta nói như vậy Tử Lăng có nghĩ rằng lắm lời không?

Từ Tử Lăng mỉm cười đáp:

- Huynh chỉ là nghĩ cho ta thôi! Nhưng ta lại có chút dự cảm không tốt, sợ rằng đây có thể là hành động nhằm vào Đỗ Phục Uy. Hiện tại bang chủ Du Thu Nhạn của Hải Sa bang có quan hệ mật thiết với Ma môn, Phụ Công Hựu cũng là người xuất thân từ Ma môn. Chúng ta đã tình cờ gặp được chuyện này, đương nhiên phải xem kết cục thế nào. Nói không chừng chỗ hàng hóa đó lại là một lô hỏa khí hiểm độc có lực sát thương lớn khác.

Hầu Hy Bạch đã nghe ra, liền vui vẻ nói:

- Đã có lý do chính đáng như vậy, chúng ta hãy thử xem rốt cuộc thế nào.

o0o

“Boong!”

Khấu Trọng nghe tiếng chuông mà lạnh cả gáy. Gã đứng sững lại giữa đồng hoang, không muốn tin vào đôi tai của mình. Đối với người khác mà nói, âm thanh đó giống như tiếng trống ban chiều, tiếng chuông buổi sớm, tràn đầy cảm giác an lành, thế nhưng với gã thì lại như bùa chú câu hồn nhiếp phách.

Đây không phải lần đầu tiên Khấu Trọng nghe thấy tiếng chuông này, khi xưa ở cầu Thiên Tân tại Lạc Dương đã được nghe qua một lần. Nhưng hiện tại gã cách Thiên Thành hiệp hai mươi dặm, lại nghe âm thanh đó lại đập vào tai, có thể sẽ đại biểu cho thất bại triệt để của gã, diệu kế tan thành mây khói.

Quả nhiên tiếng Liễu Không ở phía sau vang lên:

- Liễu Không tham kiến Thiếu Soái.

Khấu Trọng lệnh cho Vô Danh rời khỏi vai bay lên cao trinh sát, sau đó chầm chậm quay người lại đối diện với vị Thánh tăng chủ trì Tịnh Niệm Thiền Viện.

Dưới ánh sao, Liễu Không đại sự pháp tướng trang nghiêm, tay phải cầm chiếc chuông nhỏ kim quang sáng lòa, đôi mắt ngời lên những tia sáng thần thánh kiên định nhìn gã.

Khấu Trọng than thở:

- Đại sư vì sao phải dấn thân vào trận chiến giữa tiểu tử và Lý Thế Dân vậy?

Liễu Không nở nụ cười hiền từ, nhẹ giọng nói:

- Người xuất gia há lại can thiệp vào chuyện trần thế. Tần vương sai người đến nói với lão nạp rằng Thiếu Soái đã lâm vào tình huống cùng đường bí lối, hy vọng lão nạp có thể tự mình đi du thuyết Thiếu Soái. Nếu Thiếu Soái chịu đáp ứng giải tán Thiếu Soái quân, Tần vương đồng ý để cho Thiếu Soái bình an quay về Trần Lưu.

Khấu Trọng cười gượng:

- Lý Thế Dân thực biết tìm người, nhưng sao đại sư biết ta sẽ đi theo lối ra phía Nam để giải sầu?

Liễu Không đáp:

- Tất cả đều do Tần vương bày cho. Lý thí chủ nói khi Thiếu Soái phát giác quân Tương Dương tiếp cận sẽ đích thân đến Chung Ly, dẫn quân về giải vây cho con đường phía Nam của Thiên Thành hiệp, do đó lão nạp mới kính cẩn chờ đợi ở đây. Thực tế đã chứng thực lời Tần vương không phải là sai, có thể thấy tất cả hành động của Thiếu Soái đều nằm trong tính toán của Tần vương.

Khấu Trọng thở phào một hơi, rốt cuộc Lý Thế Dân là phàm nhân chứ không phải thần tiên nên mới cho rằng gã sẽ đến Chung Ly cầu viện, càng đoán không ra gã có một mớ hỏa khí trong tay.

Liễu Không tiếp tục nói:

- Tần vương lại nhờ lão nạp phân tích với Thiếu Soái, rằng Thiếu Soái quân ở Chung Ly bị một đội thuyền khác của thủy sư nhà Đường bố trí giám thị nghiêm mật, không thể cựa quậy được. Lần này Thiếu Soái ra đi sẽ chỉ trắng tay mà thôi.

Khấu Trọng nghe vậy trong lòng phục lăn. Lý Thế Dân không hổ là nhà quân sự xuất sắc đương thời, rành rẽ binh pháp chiến đấu, tình huống nào cũng sắp đặt trước một nước, chiếm hết thượng phong. Nếu không có một nước cờ lợi hại là đống hỏa khí dùng để bí mật tập kích doanh trại, lúc này chắc gã sẽ phải cúi đầu nhận thua.

Vội vàng thu nhiếp tâm thần, hồi phục lại vẻ bình tĩnh, Khấu Trọng hít sâu một hơi rồi nói:

- Đại sư lần này ra đi phải chăng chỉ có thiện ý khuyên bảo? Nếu như tiểu tử u mê không chịu tỉnh ngộ, đại sư sẽ niệm mấy chữ “A Di Đà Phật” đầu cũng không thèm quay lại, lập tức quay về thiền viện tiếp tục tham thiền, còn tiểu tử lại tiếp tục lên đường?

Liễu Không đại sư giơ tay trước ngực niệm Phật hiệu, mắt rủ xuống, giọng nói bình tĩnh:

- Thật có lỗi, thật có lỗi. Người xuất gia vốn không để tâm đến chuyện trần thế, nhưng việc liên quan đến muôn dân thiên hạ, lão nạp lại chịu sự ủy thác của Tần vương, ắt phải khuyên được Thiếu Soái rút lui khỏi trường phân tranh này. Do đó, lão nạp quyết định từ giờ sẽ đi theo Thiếu Soái, cho đến khi Thiếu Soái chịu nghĩ cho dân chúng Bành Lương, cân nhắc đề nghị của lão nạp.

Khấu Trọng đâu nghĩ lão lại có chiêu này, nghe xong chỉ biết trợn mắt há miệng. Nếu để Liễu Không cứ theo sau như vâ, cả kế hoạch phản công sẽ biến thành một trò hề.

Ngửa cổ nhìn lên, tư thế bay của Vô Danh khiến gã biết xung quanh không có địch nhân nào khác. Cảm thấy an tâm một chút, gã cười gượng:

- Đại sư phải chăng cho rằng tiểu tử nhất định không động võ với ngài?

Liễu Không mỉm cười đáp:

- Thiếu Soái nói quá lời! Lão nạp chỉ muốn gặp để nói rõ, đối với Thiếu Soái, Tần vương luôn mở đường lui cho Thiếu Soái. Nếu ở đây đợi Thiếu Soái không phải là lão nạp mà là thủ hạ đại tướng của Tần vương cùng hàng ngàn Huyền Giáp dũng sỹ thì cục diện sẽ như thế nào?

Khấu Trọng bật cười khanh khách:

- Nếu vậy tiểu tử sẽ vô cùng cao hứng, bởi vì thần ưng sẽ phát hiện ra hành tung bọn họ trước một bước, từ đó tiểu tử sẽ có cơ hội tùy cơ ứng biến, nói không chừng còn có thể khiến Tần vương hao binh tổn tướng.

Liễu Không than:

- Xem ra Thiếu Soái quyết không chịu bỏ qua.

Khấu Trọng nhíu mày nói:

- Tiểu tử có một chuyện vô cùng khó hiểu muốn thỉnh giáo đại sư.

Liễu Không nghiêm giọng trả lời:

- Mời Thiếu Soái chỉ điểm.

Khấu Trọng chậm rãi nói từng chữ:

- Phật Đạo hai nhà không phải đang là kẻ địch của Ma môn lưỡng phái lục đạo sao? Đại sư phải biết nội bộ Lý phiệt sớm đã bị Ma môn gặm nhấm làm cho mục nát, trong đó còn liên quan đến người Đột Quyết vốn luôn có dã tâm lang sói đối với Trung Thổ ta. Xét rộng ra, sự sống chết của Lý Thế Dân và tồn vong của Khấu Trọng này gắn bó chặt chẽ với nhau. Ngày khải hoàn trở về của Lý Thế Dân sẽ là lúc gã chịu cảnh qua cầu rút ván. Khấu Trọng ta nhận lời đề nghị giải tán Thiếu Soái quân của đại sư thì khác nào giúp Ma môn một việc lớn, còn kẻ được lợi cuối cùng không phải bất kỳ nhân vật nào ở Trung Thổ mà là Hiệt Lợi cùng với liên minh các tộc trên thảo nguyên.

Liễu Không niệm Phật hiệu, đoạn nói:

- Thái bình và thống nhất thiên hạ há là một việc dễ dàng cứ làm là được, Tần vương đối với chuyện này đã có chuẩn bị từ trước. Lời của Thiếu Soái chẳng phải không có đạo lý, tuy nhiên lại không tính đến hậu quả. Nếu Thiếu Soái lập quốc thành công, tình thế thiên hạ trở thành cục diện Nam Bắc đối đầu, chiến tranh kéo dài, sinh linh đồ thán, ngoại tộc thừa cơ xâm lăng, Trung Thổ sẽ lâm vào cục diện đại loạn chia năm xẻ bảy. Thiếu Soái đã có lòng diệt ma cứu thế, sao không toàn lực trợ giúp Tần vương, lập lại trật tự, để muôn dân có thể sống những ngày hành phúc an lành?

Khấu Trọng ngạc nhiên đáp:

- Lời của đại sư càng khiến ta nảy sinh trăm mối tơ vò, vì sao phải là Khấu Trọng ta quy hàng Lý Thế Dân mà không phải là y xưng thần với ta? Nói cho cùng đúng là đại sư thiên vị từ đầu chí cuối, rất không công bằng. Đại sư phải hiểu ta có biết bao chiến hữu thảm tử dưới binh đao của quân Đường, ta và Lý Thế Dân đã ở thế không đội trời chung, không phải hắn chết thì là ta hy sinh.

Liễu Không điềm tĩnh nói:

- Ngươi không chết thì ta hy sinh, đó chính là câu nói khắc họa tốt nhất cho chiến tranh. Chọn con đường tranh bá, Thiếu Soái sớm phải nghĩ đến đây là tình huống tất nhiên sẽ xảy ra, nợ máu chỉ là càng tích càng sâu. Lão nạp bằng lòng đến khuyên bảo Thiếu Soái thực chất không hề có ý đồ thiên vị Tần vương, chỉ là vì tình thế trước mắt. Đưa ra đề xuất tốt nhất với Thiếu Soái, lão nạp hy vọng hai bên có thể ngừng lại, hạ vũ khí, để trăm họ tránh được tai họa, A Di Đà Phật!

Khấu Trọng nhìn bầu trời đêm và hạ giọng:

- Một ngày Khấu Trọng ta vẫn còn, hươu chết về tay ai vẫn chưa biết được. Ta có đề nghị tốt hơn, có thể đại sư sẽ chịu nghe theo.

Liễu Không tập trung tinh thần, mắt hướng mũi, mũi hướng tâm, ẩn giấu pháp nhãn, mặt Phật trang nghiêm nói:

- Lão nạp kính cẩn nghe đề nghị của Thiếu Soái.

Khấu Trọng cười dài:

- Tốt! Đại sư đoán được tâm ý của ta rồi! Đúng như lời Tất Huyền nói, chiến tranh thì rốt cuộc vẫn giải quyết bằng vũ lực chứ không thể ngồi bàn đàm phán suông. Ta nên cùng đại sư đánh cược một phen, nếu đại sư có thể đánh bại ta, ta lập tức giải tán Thiếu Soái quân, cúi đầu nhận thua. Đại sư đương nhiên có thể giết chết ta, Thiếu Soái quân tự nhiên sẽ như mây tan khói tỏa. Nhưng nếu như đại sư không làm gì được ta, xin mời lập tức quay về Thiền viện, từ sau đừng chen vào chuyện của ta và Lý Thế Dân nữa.

Liễu Không như thể nghe mà không thủng những lời của Khấu Trọng, không thấy có chút phản ứng nào. Đột nhiên “boong” một tiếng, chuông Phật kêu to, lão niệm Phật hiệu rồi nói với vẻ bình tĩnh:

- Đã gần ba chục năm lão nạp không động thủ với người khác, thật không muốn dấy động can qua. Lão nạp liệu có thể lấy hạn định mười chiêu, chỉ cần ai bị bức ở thế hạ phong thì sẽ tính là thất bại?

Khấu Trọng mỉm cười hỏi:

- Hòa thì sao?

Liễu Không mở mắt nhìn gã, nhãn thần cao thâm mạc trắc chiếu ra những tia sáng rực, miệng mỉm cười đáp:

- Đương nhiên tính là lão nạp thua, theo lời ước hẹn sẽ quay về thiền thất quay mặt vào tường, đọc kinh sám hối cho tham vọng không chính đáng.

“Cheng!”

Khấu Trọng rút Tỉnh Trung Nguyệt ra khỏi vỏ, chỉ về phía Liễu Không.

Đúng lúc này, vị sư già giống như chợt tan biến vào bầu trời đêm, bát ngát vô biên, pháp lực vô cùng, giống như sơ hở trăm bề nhưng lại không hề có chút sơ hở nào.

Ánh mắt lão sâu rộng, tràn đầy thế tình siêu việt, giống như có thể xuyên thấu mọi ý đồ trong lòng Khấu Trọng, không hề sơ sót.

Từ thâm tâm Khấu Trọng dấy lên sự sợ hãi và kính trọng mà chính gã cũng không thể giải thích nổi, đó là một cảm giác chưa từng có khi gã đối đầu với địch thủ. Giống như người leo núi bỗng nhiên đối mặt với bạt ngàn đỉnh cao hiểm trở, người lái thuyền đang vùng vẫy trong đêm nơi đầu sóng ngọn gió dưới cơn thịnh nộ của biển sâu, sinh ra ra cảm giác bất lực không thể vượt qua.

Chuông đồng trong tay phải Liễu Không như biến thành nặng quá vạn cân, lại nhẹ như lông hồng; to lớn như núi, lại nhỏ bé như không tồn tại.

Khấu Trọng cảm thấy khó chịu trong ngực, thiếu chút nữa thổ huyết.

Liễu Không ngâm nga:

-Tam giới duy tâm,vạn pháp duy thức, bất trứ tha cầu, toàn do tâm tạo; tâm ngoại vô pháp, mãn mục huyền hoàng, nhất thiết cụ túc (*)

Khấu Trọng lùi lại một bước, tâm thần tiến vào cảnh giới Tỉnh Trung Nguyệt, mặt đất giẫm lên như kéo dài ra thẳng đến cùng trời cuối đất. Thiên địa hòa làm một còn bản thân gã biến thành tâm của vũ trụ. Thiên, Địa, Nhân không còn phân biệt.

Liễu Không trong mắt gã lập tức biết thành “vật thật”, dù vẫn không thể tìm ra kẽ hở những lại không phải không thể nắm bắt.

Tinh thần gã tập trung cao độ, chân khí trong người thì dương động đến đỉnh điểm mà tĩnh, âm tĩnh đến cực điểm mà động, theo ý tự nhiên biến hóa, không giữ không buông, chẳng thu chẳng phát, không tăng không giảm, tự tự nhiên nhiên thần thông biến hóa. Chân khí ngưng tụ lại mũi đao, hình thành một khí kình trong tròn có vuông, trong vuông có tròn, nhằm Liễu Không công tới.

Gã vừa xuất thủ đã dùng Phương Viên, chiêu huyền diệu nhất trong Tỉnh Trung Bát Pháp. Từ đó có thể thấy sự lợi hại của Liễu Không, lão có thể lấy tĩnh đánh động, thực hiện kỳ chiêu Bất Công của Phật môn, khiến Khấu Trọng phải bị động còn mình thì yên ổn chiếm thế thượng phong.

Tuy nhiên với tu vi của Liễu Không mà nét mặt vẫn phải lộ ra vẻ ngạc nhiên. Lão di chuyển chuông đồng ra trước ngực, tựa như chậm nhưng thực sự rất nhanh, gây ra một cảm giác huyền diệu như sống cùng trời đất, linh ứng như thần thánh. Liễu Không ngâm nga:

- Thiếu Soái một đao đánh thẳng, đã thấy bản tính(**). Nếu có thể tỉnh ngộ, chúng sinh đều là Phật.

Mắt Khấu Trọng không thấy vật nào khác, chỉ có chuông đồng trước mắt khuếch đại vô hạn, càng hiểu được mình không còn sự lựa chọn nào khác. Một đao này cần phải tấn công, không thể không tấn công; thế nhưng nếu gã có hành động như vậy, chưa đầy ba chiêu nhất định gã phải buông đao nhận thua vì tinh thần của gã đã hai lần bị thiền lực của Liễu Không khống chế.

Khấu Trọng hừ một tiếng, Tỉnh Trung Nguyệt hóa thành luồng sáng vàng đánh thẳng vào chiếc chuông phật pháp vô biên của Liễu Không.

Thiền pháp võ công của vị sư già này tuyệt đối đứng trên bất cứ ai trong Tứ đại Thánh tăng, đó là việc mà trước khi động thủ Khấu Trọng không thể tưởng tượng và đoán ra, chỉ hận là gã không còn đường quay lại.

(*) Tam giới (dục giới, sắc giới và vô sắc giới) do tâm sinh ra, mọi điều từ ý thức, tất cả mưu cầu đều từ lòng mà ra. Không có gì nằm ngoài tâm, trước mắt là đất trời, tất cả có đủ.

(**): Xuất phát từ câu „Kiến tính thành phật“ (thấy được bản tính của mình thì thành phật) của tư tưởng phật pháp Thiền Tông

(