[Tứ Đại Danh Bộ] Đàm Đình Hội

Chương 2: Tập I: Ta nhất định phải thắng - Tình trong mưa




1.

Mưa rơi xuống làm cho mặt sông biến thành một chiếc khung cửi khổng lồ, dệt nên một tấm lưới bạc. Vài hạt mưa len lỏi vào cổ áo nữ tử, khiến nàng co người lại vì lạnh.

Chu Bạch Tự chỉ vào mình nói: “Ta là Bắc thành Chu Bạch Tự”.

Người trong giang hồ bất kể là biết hay không biết võ công, đại đa số đều đã nghe qua thanh danh của Chu Bạch Tự. Nhưng điều y đắc ý nhất chính là năm hai mươi mốt tuổi y đã trở thành tông chủ của một trong Võ lâm tứ đại gia, sáu năm nay không ngừng gặp phải cường địch, không ngừng bị khiêu chiến, nhưng Bắc thành Vũ Dương thành do y lãnh đạo vẫn sừng sững oai nghiêm, còn những bang phái tổ chức đối địch với y, thì đa phần đều đã tiêu tán như mây khói từ lâu.

Vì vậy vô cùng trân trọng thanh danh của mình, hơn nữa y cũng rất tự thị với thanh danh đó.

Nữ tử khẽ gật đầu, cho dù lúc này y phục của nàng hơi nhàu nát, không được chỉnh tề nhưng vẫn có toát lên một thứ khí chất của đại gia khuê tú, cao quý và trang nghiêm.

Chu Bạch Tự lại nói: “Giờ thì không sao rồi”.

Y đưa tay chỉ mấy thi thể nằm trên mặt đất, trong lòng thầm nhủ: “Nàng cũng không cần phải ngại ngùng làm gì, dù sao những kẻ đụng tới nàng đều đã chết cả rồi, chuyện này tuyệt đối sẽ không bị truyền ra ngoài đâu”.

Nữ tử kia lại gật gật đầu, mái tóc dài buông trên chiếc cổ trắng muốt, đẹp một cách lạ lùng.

Chu Bạch Tự nói: “Mưa rồi, chúng ta mau rời khỏi đây thôi!”.

Lúc này tiếng mưa rơi trên cỏ cây bắt đầu vang lên rào rào, những vết máu tươi trên hoa trắng bị nước mưa làm nhạt dần, từ từ trở về màu trắng nguyên thủy.

Chu Bạch Tự ngẩng đầu nhìn sắc trời: “Sắp mưa lớn rồi”.

Nữ tử đột nhiên ôm mặt khóc thật thương tâm. Chu Bạch Tự không biết làm sao, đành bước tới vỗ khẽ lên vai nàng. Gió sông thổi tới, làm vài lọng tóc của nàng tung bay vào cánh mũi Chu Bạch Tự, một mùi hương ngan ngán khiến y cảm thấy tâm thần như mê mẩn.

Nữ tử rút người lại làm bàn tay Chu Bạch Tự vỗ vào khoảng không, gương mặt trắng tựa những đóa hoa nhỏ dưới đất chợt thoáng hiện sắc ửng hồng.

Nữ tử cũng không khóc nữa, từ từ đứng dậy.

Chu Bạch Tự hít sâu một hơi, không nhìn nàng nữa, quay đầu đi trước, tìm lại con thần mã khi động thì nhanh như cuồng, khi tĩnh như vững như bàn thạch của mình.

Con ngựa thấy chủ nhân đi tới cùng một nữ tử lạ mặt, liền khẽ hí lên một tiếng. Tiếng ngựa hí lẻ loi giữa trời mưa, càng làm không gian thêm vắng lặng.

Chu Bạch Tự quay đầu nhìn lại, chỉ thấy nữ tử đang chầm chậm đi theo mình, hai tay cố che đậy những nơi y phục bị xé rách.

Chu Bạch Tự nói: “Mưa lớn rồi, cô nương hãy lên ngựa đi!”.

Nữ tử khẽ chuyển động đôi nhãn châu xinh đẹp, nhìn con ngựa cao lớn rồi u uất hỏi: “Vậy... còn huynh?”.

Chu Bạch Tự ngây người, y lăn lộn giang hồ đã quen, xưa nay chưa từng cố kỵ điều này. Nam nữ đừng nói là cùng cưỡi một ngựa, cho dù cùng nằm một giường nhỏ y cũng không ngại. Có điều câu hỏi của nữ tử, không ngờ lại khiến y cảm thấy thẹn thùng.

“Ta... ta đi bộ”.

“Vậy là sao được... không được...”.

Nữ tử lại yếu ớt nói.

“Đừng ngại, không sao cả”.

Chu Bạch Tự thầm tính toán, nhưng cũng không chắc chắn: “Chân ta nhanh, đuổi kịp được. Không xa phía trước là Quyền Gia Câu rồi. Cô nương... cô nương có phải sống ở gần đây không?”.

Nữ tử lắc đầu, cúi đầu.

Chu Bạch Tự thầm băn khoăn! Nàng một thân một mình, không có bầu bạn, lại không phải sống ở gần đây, sao lại tới đây hái hoa làm gì? Thật kỳ quái! Nhưng trong nội tâm y không hiểu sao lại có một ham muốn gần như là ảo tưởng, tuy rằng chính bản thân y cũng không hiểu đó rốt cuộc là cái gì, nhưng lúc này y chỉ mong rằng nữ tử kia hãy đi chậm một chút, để y có thể nhìn nàng thêm giây lát, dù chỉ giây lát cũng được.

Mưa bắt đầu nặng hạt, con ngựa khẽ đập đập chân trước, rồi lại hí lên một tiếng như muốn thúc giục chủ nhân.

“Vậy thì... chúng ta đến Quyền Gia Câu trú tạm một đêm, cô nương thấy sao?”.

Nữ tử cúi đầu, sống mũi thẳng đều đặn đến cơ hồ như không giữ được một chiếc lông nhỏ.

“Chắc cô nương sống ở U Châu?”.

Chu Bạch Tự càng nói càng bớt ngượng ngập: “Ta cũng đang tới U Châu, đợi sáng mai ta sẽ đưa cô nương tới đó được không?”.

Nữ tử đột nhiên nhỏ giọng nói một câu: “Cảm tạ tráng sĩ đã ra tay cứu mạng”.

Chu Bạch Tự cảm thấy thanh âm của nàng giống như một nhạc khúc kỳ diệu, lại giống như tiếng mưa rơi trên hoa trắng.

Nữ tử lại nói thêm một câu: “Tôi tên Tiểu Hoắc”.

Chu Bạch Tự ngây người, “Tiểu Hoắc” giường như không giống như tên của một nữ tử ôn nhu nhường này, nhưng đọc lại mấy lượt, y lại cảm thấy rất giống, nhất thời cũng không biết làm sao, đành nói: “Mời, mời lên ngựa”.

Thần mã lại dợm bước thêm mấy bước, hí lên khe khẽ, liếc mắt nhìn chủ nhân. Nếu như ngựa cũng hiểu chuyện, vậy ắt hẳn là nó đang cười chế giễu họ Chu rồi.

Tiểu Hoắc nhẹ giọng nói: “Tráng sĩ... cùng lên ngựa, có được không?”.

Chu Bạch Tự ngần ngừ: “Thế này... không được hay lắm... nam nữ...”. Lời vừa thốt ra, y đã bắt đầu cảm thấy hối hận, bèn nuốt lại không nói tiếp nữa.

Tiểu Hoắc nói: “Mạng của tiểu nữ là do tráng sĩ cứu, thân này nhờ tráng sĩ mới giữ được trong sạch, nếu tráng sĩ không chê, tiểu nữ tử cũng không dám tỵ hiềm”.

Chu Bạch Tự nghe nàng nói vậy thì hào khí liền dâng cao, lớn giọng nói: “Được, vậy thì cùng lên ngựa đi!”.

Nói đoạn liền đưa tay đỡ Tiểu Hoắc lên ngựa, rồi tự y cũng nhảy lên ngồi phía sau, hai tay ôm vòng ra trước người nàng, hô lên một tiếng. Thần mã tung vó lao vút đi xuyên qua màn mưa mờ mịt.

Phi kỵ trong mưa.

Mưa càng lúc càng lớn, phủ lên núi đồi một tấm lưới bạc, tiếng vó ngựa dận trên mặt đường và tiếng mưa tạo thành một thứ tiết tấu vô nghĩa và đơn điệu. Chu Bạch Tự cảm thấy Tiểu Hoắc trong vòng tay mình khẽ run lên, liền không tự kềm chế nổi mà nhích lại gần một chút, mùi u hương từ mái tóc nàng liền xộc vào mũi, cơ hồ như y đang ôm trong lòng một đóa hoa Dã Khương thơm ngát vậy.

Đôi tai trắng mềm của Tiểu Hoắc cũng cảm nhận được hơi thở nóng ấm của nam nhân phía sau. Thân thể đã lạnh tới muốn đóng băng của nàng, không hiểu sao còn cảm thấy ấm dần lên trong cơn mưa lớn.

Chu Bạch Tự lao ào ào trên đường, khiến nàng có cảm giác tròng trành như cùng ngồi trên thuyền, mơ mơ hồ hồ như đồng sinh cộng tử với đối phương. Máu và nước mắt của nàng phảng phất như bùng cháy trong mưa, nước mưa thấm ướt y phục của hai người, làm chúng dính sát lại với nhau, huyết dịch cơ hồ như cũng từ đó lan tỏa chảy sang cơ thể đối phương.

Chính vì cảm giác này mà Tiểu Hoắc đã dựa hẳn người vào lòng Chu Bạch Tự.

Vì thế đợi đến lúc họ tới được Quyền Gia Câu, hai người cơ hồ như đã tương giao được mấy chục năm, cảm giác xấu hổ ngượng ngùng lúc đầu đã hoàn toàn không còn tồn tại.

2.

Hai người thuê hai phòng ở khách sạn ven đường, thay y phục ướt rồi chuẩn bị dùng cơm. Cả hai cảm thấy ăn uống trong phòng của Chu Bạch Tự hay Tiểu Hoắc đều không tiện lắm, bèn xuống nhà dưới dùng cơm. Chu Bạch Tự dặn dò tiểu nhị lấy thứ cỏ tốt nhất cho ngựa ăn, rồi cùng Tiểu Hoắc ăn máy món ăn nóng hổi trên bàn. Bởi vì vừa mới vượt quãng đường dài trong mưa, thế nên hai người đã gọi một bình “Cổ Thành Thiêu”.

Bên ngoài tối om như một tờ giấy Tuyên Thành bị đổ mực, có dùng bông thấm cũng không sạch.

Quyền Gia Câu có mấy khách điếm, có mấy con phố, đều tối đen tranh thủy mực, trong màn mưa mờ mờ xám xịt lại càng chẳng có chút sinh khí.

Giữa nhà có một chậu lửa lớn, xung quanh có mấy khách lữ hành đang xòe tay sưởi ấm.

Có điều trong lòng Chu Bạch Tự và Tiểu Hoắc lại cảm thấy rất ấm áp.

“Cổ Thành Thiêu” chẳng những đã làm máu huyết trong cơ thể họ nóng bừng, mà đã phủ thêm một lớp mây hồng lên hai má phấn của Tiểu Hoắc.

Họ rất ít nói chuyện, ăn cũng rất ít, trong tiếng mưa rơi tịch mịch, thi thoảng vang lên vài tiếng ngựa hí cô đơn.

Chu Bạch Tự và Tiểu Hoắc rời khỏi bàn ăn, trở về phòng ngủ trên lầu. Hai người đi ra từ hai gian phòng khác nhau, nhưng lại quay trở về cùng một phòng.

Mưa đêm làm cho mấy mấy chiếc đèn lồng đỏ treo ngoài cửa tiệm có mấy chữ “thực” - “túc” mơ mơ hồ hồ, trong mông lung toát ra một chút không khí vui vẻ cũ kỹ.

Chu Bạch Tự nhìn thấy hai má hây hồng của Tiểu Hoắc, không cầm được lòng đưa tay lên khẽ vuốt ve. Con phố dài trong mưa, chỉ có cơn gió lạnh lẽo thê lương thổi vi vu.

Hơi thở của Tiểu Hoắc dần trở nên gấp gáp, chiếc cổ thon duỗi dài ra vì khó thở, lộ ra chiếc gáy trắng muốt, khiến Chu Bạch Tự không kềm chế được cơn sóng lòng, đặt môi hôn khẽ lên đó.

Toàn thân Tiểu Hoắc cơ hồ như bị thoát lực, lùi lại phía sau, làm tấm màn bị buông xuống, thở hổn hển nói: “Đừng... đừng...”.

Nhưng rồi tiếng nói lại bị hơi thở dồn dập lấp đi mất, hồi lâu sau nàng mới nghiến răng thốt ra nốt nửa câu sau: “Huynh... huynh sẽ hối hận đó”.

Chu Bạch Tự ào tới như sóng biển, như cuồng phong, câu nói của Tiểu Hoắc làm y thoáng ngây người: “Hối hận?” Ngay sau đó y liền tự nhủ: “Có gì mà hối hận chứ? Có được nữ tử thế này, chết ta cũng không hối hận!” Kế đó tâm tư của y lại dồn cả vào việc hôn như điên như cuồng lên gương mặt trắng bóc của Tiểu Hoắc.

Đương nhiên y không phát giác ra, lúc nói câu này, bàn tay nắm chặt tấm màn của Tiểu Hoắc vì quá dụng lực nên ngón tay đã đâm vào lòng bàn tay. Cuối cùng tấm màn cũng buông xuống, nhẹ nhàng và dịu dàng đắp lên che đậy cho hai tấm thân nóng bỏng.

3.

Ngày hôm sau. Chu Bạch Tự đã lên lưng ngựa từ khi những giọt nước mưa đêm qua vẫn còn vương vấn trên mái hiên. Y hít sâu một hơi không khí trong lành của buổi sáng sớm, hôm nay là một buổi sáng nhiều sương mù. Đêm nay, y sẽ phải tới Đàm Đình, quyết phân cao hạ với Lam Nguyên Sơn của Tây trấn.

Lúc y lên ngựa, hít vào thứ không khí thanh khiết sau cơn mưa, trong lòng liền cảm thấy thế gian này dường như không có chuyện gì là không thể thực hiện.

Y nhớ lại việc hoang đường tối qua, khóe miệng khẽ hiện nụ cười. Chu Bạch Tự cảm thấy vận khí của mình cũng không đến nỗi nào, dựa vào vận khí này, nhất định y có thể đánh bại Lam Nguyên Sơn.

Điều phiền phức duy nhất là: Chu Bạch Tự không biết phải sắp xếp cho vị hôn thê Bạch Hân Như và Tiểu Hoắc thế nào. Có điều, y quyết định không nghĩ ngợi những chuyện phiền não này trước khi quyết đấu, mà phải dùng nhuệ khí mới có được lúc đắc chí, đánh bại Lam Nguyên Sơn, đợi sau khi giành được thắng lợi vinh quang thì mới lo xử lý.

Y ngồi trên ngựa, quầy lại nhìn Tiểu Hoắc đang ngây người ra vẫy vẫy bàn tay nhỏ nhắn, rồi đưa tay lên hét lớn: “Nàng ở đây đợi ta, sau khi đánh thắng ta sẽ quay lại tìm nàng”.

Y vừa thúc ngựa, vừa cảm thấy mình thật hạnh phúc. Sáng sớm hôm qua, người tiễn y là Bạch Hân Như, đẹp tựa một đóa tường vi trắng, sáng sớm hôm nay, y lại được Tiểu Hoắc diễm lệ tựa một đóa hoa Dã Khương tiễn đưa.

Vì vậy y cưỡi trên ngựa, mà như cưỡi trên mây vậy, chưa đến trưa đã đến U Châu rồi.

Chu Bạch Tự tìm nơi nghỉ trọ, đả tọa điều tức, để cho sát khí và công lực của mình lên trạng thái hoàn mỹ nhất... y phải dùng chiến ý mạnh mẽ nhất, để đánh bại Tây trấn Phục Ngưu trấn chủ Lam Nguyên Sơn.

Lúc y vận khí hành công, cảm thấy công lực của mình phát huy tới tràn ngập khắp châu thân, trong lòng vô cùng thỏa mãn, bởi vì đối phương là Lam Nguyên Sơn nổi danh thiên hạ với nội lực hùng hậu, trận chiến đêm nay, chỉ dựa vào kiếm pháp e rằng khó mà giải quyết được.

Thì ra Chu Bạch Tự tuổi trẻ đắc ý, trở thành nhất phương bá chủ, ngoài ra y còn là một trong những cao thủ thanh niên cả nội ngoại công phu đều có tạo chỉ đặc thù trong võ lâm.

Nội công của y là Long Hổ Hợp Kích đại pháp của Long Hổ Sơn, hơn nữa còn tinh thông cả Vô Tướng thần công của Thiếu Lâm Tự, có thể chuyển hóa nội lực thành Tiên Nhân Chỉ, không gì là không xuyên thủng được.

Nhưng ngoại hiệu của y lại là Thiểm Điện Kiếm. Nội công của y càng thâm hậu, thì kiếm pháp lại càng nhanh, địa vị trong võ lâm cũng càng cao, trong các cao thủ mới quật khởi, hiện nay vẫn chưa có người nào có thể sánh với y được.

Lúc y giết chết Khiếu Xuân ngũ miêu Mạt thị huynh đệ chỉ dùng tới khoái kiếm, đã khiến cho bốn người trong năm huynh đệ họ Mạt táng mạng.

Chu Bạch Tự tuy không phải là vị tông chủ trẻ tuổi nhất trong Võ lâm tứ đại gia, y còn hơn Nam trại Ân Thừa Phong hai tuổi, nhưng trong tứ đại gia, y là người nổi danh nhất, ngoại hiệu cũng oai phong nhất.

Tây trấn là thế gia ít can thiệp ân oán giang hồ, võ lâm thị phi nhất trong Võ lâm tứ đại gia.

Lam Nguyên Sơn là Trấn chủ của Phục Ngưu trấn, nhiều hơn Chu Bạch Tự mười tuổi, rất ít giao thủ với người, nhưng giang hồ truyền ngôn nội công của người này đã tới cảnh giới không thể tưởng tượng, ngay cả Nội Gia Đệ Nhất Quân Đào Thiên Vân nổi danh chưởng lực hùng hậu, cố ý dùng lời lẽ khích bác, bức Lam Nguyên Sơn xuất thủ đối chiêu với y ba chưởng, sau đó Đào Thiên Vân về nhà bệnh liền ba năm. Đó là vì y phải dùng toàn lực mới hóa giải được nội kình của đối phương bức nhập vào cơ thể, dẫn đến thận hư huyết hao, cơ hồ suýt nữa mất đi tính mạng.

Ngoài ra còn có truyền ngôn rằng Lam Nguyên Sơn cẩn trọng đến mức khiến người ta phải le lưỡi lắc đầu, chẳng những mỗi lần trước khi ăn đều dùng ngân châm thử độc, mà thậm chí sau khi ăn y còn có thể nói chính xác xem mình đã ăn hết bao nhiêu hạt cơm, không sai một hạt. Thái độ này của y, khiến Phục Ngưu trấn tuy không thành danh trong một đêm, nhưng luôn luôn tiến tới, từ một vùng đất khô cằn hẻo lánh, giờ đã trở thành một trấn đông đúc trù phú, tài lực không kém gì thế gia giàu có nhất trong tứ đại gia là Đông bảo.

Lam Nguyên Sơn muốn quyết chiến, người đầu tiên khiêu chiến là Chu Bạch Tự.

Điểm này, Chu Bạch Tự cũng không hiểu lắm, nhưng y hoàn toàn không sợ.

Đấu chí của thanh niên nhân, cho dù là chạm phải lửa đỏ, cũng chỉ coi như là một thứ rèn luyện, chứ tuyệt không vì đau đớn mà sợ hãi.

Chu Bạch Tự muốn gặp Lam Nguyên Sơn sớm hơn một chút, quyết chiến sớm hơn một chút, thắng lợi sớm hơn một chút, để có thể trở về gặp Tiểu Hoắc sớm hơn một chút.

4.

Chu Bạch Tự gặp Lam Nguyên Sơn ở Đàm Đình.

Đó là buổi tối.

Tiếng sênh tiếng ca vang vang khắp nơi, trên phố trong ngõ người đông như biển, hoa đăng rực rỡ như ban ngày.

Chu Bạch Tự và Lam Nguyên Sơn nhìn thấy hoa đăng, cùng lúc thầm nhủ: “Thì ra Trung Thu sắp tới rồi”.

Hai người nghĩ đến đây, không hẹn mà cùng ngước mắt lên nhìn vầng trăng lạnh lẽo trên cao.

Thị tuyến hai người lại trở lại đoàn người nhiệt náo, lập tức liền phát hiện ra đối phương, giống như một tảng nham thạch cao lớn sừng sững.

5.

Có chim yến bay qua, khẽ lượn trên đầu biển người, rồi bay vút lên cao. Hoa đăng sáng rực, chiếu sáng làm mặt người tràn đầy hỉ khí.

“Đúng là có chim yến”.

Lam Nguyên Sơn vận bộ trường bào bằng lụa màu lam, mặt trắng hơn tuyết, nhưng râu ria xồm xoàm cả dưới cằm.

“Phải!”.

Chu Bạch Tự cũng thầm cảm thấy kính phục trước thái độ nhàn địch của đối phương.

“Trận chiến này của chúng ta, đánh ở nơi nhiệt náo, kết thúc ở nơi u tĩnh, có được không?”.

Đây là câu nói thứ hai của Lam Nguyên Sơn.

Chu Bạch Tự đương nhiên hiểu được dụng ý của y.

Võ lâm tứ đại gia dù sao cũng là bốn phái hệ liên quan mật thiết với nhau trong bạch đạo, vì vậy, Đông bảo Tây trấn Nam trại Bắc thành tuy đã đến mức không thể không phân thắng phụ, nhưng cũng không thể công khai huyết chiến, chỉ cần mỗi bên cử ra một người đại biểu là để phân cao ha là được rồi.

Nguyên nhân chủ yếu là: Võ lâm tứ đại gia có một điểm giống với Tứ Đại Danh Bộ, đó chính là bảo vệ chính nghĩa võ lâm, trừ bạo an lương, tuy cách làm và suy nghĩ của hai bên có lẽ hơi khác biệt, nhưng xét trên diện rộng thì cũng là thống nhất vậy.

Nếu tà ma hắc đạo biết được Võ lâm tứ đại gia tàn sát lẫn nhau, lẽ nào lại không vỗ tay chúc mừng, thậm chí là nhân lửa quạt thêm chút gió?

Tình hình này bất luận là Lam Nguyên Sơn hay Chu Bạch Tự cũng đều không muốn nhìn thấy, vì vậy trận chiến này, tuy trọng đại nhưng lại không hề có tiếng vang trên giang hồ.

Hơn nữa, nếu như trận quyết chiến này để cho bốn người có giao tình thâm sâu với tứ đại gia là Tứ Đại Danh Bộ biết được, họ nhất định sẽ toàn lực ngăn trở chuyện này xảy ra.

Những điểm này, trong chiến thư Lam Nguyên Sơn gửi Chu Bạch Tự đều đã viết rất rõ ràng. Trước khi quyết chiến, tuyệt đối không khoa trương, càng ít người biết càng tốt, nhưng để cho công bằng công đạo, trận chiến này sẽ diễn ra ở nơi công khai, sau khi quyết định thắng phụ, mới cho người biết kết quả.

Thế nên họ đã chọn nơi quyết đấu là Đàm Đình nhiệt náo, phương thức quyết đấu lại cực kỳ tịch mịch.

6.

Góc phố truyền lại tiếng đàn tiếng ca huyên náo, trong đó lại phảng phất như có tiếng chuông chùa cất lên.

Lam Nguyên Sơn cười cười. Ống tay áo của y rất dài, buông xuống sát mặt đất.

“Ta luyện nội công, Tiên Nhân chỉ, Long Hổ Hợp Kích pháp, Vô Tướng thần công của Chu thế huynh, Lam mỗ nghe danh đã lâu, cũng vô cùng ngưỡng mộ”.

“Không dám!”.

Chu Bạch Tự mỉm cười tiếp lời.

“Chúng ta trao đổi kỹ nghệ, ai thất thủ thì tự biết, Chu thế huynh thấy thế nào?”.

Lam Nguyên Sơn nhướng một bên lông mày, khiến cho gương mặt y giống như nhân vật trong kịch, bị vẽ sót một hàng lông mày vậy.

Chu Bạch Tự không nói gì.

Y chỉ từ từ cung tay lên, đưa ngang trước ngực, ôm lại thành quyền.

Trong võ lâm, đây chính là một chữ “mời!”.

Lam Nguyên Sơn khẽ gật đầu, đi tới một bàn bán thư họa bên cạnh đó. Lão tú tài bán tranh liền không ngừng hỏi: “Khách quan! Ngài muốn mua tranh sơn thủy hay tự họa, tiệm chúng tôi có cực phẩm đó!”.

Lam Viễn Sơn cầm một bức tranh lên, giở ra đánh “soạt” một cái, cả bức tự họa liền căng ra như một miếng thép, bắn về phía Chu Bạch Tự.

Lam Nguyên Sơn vừa cười vừa nói: “Mời Chu thế huynh thưởng thức!”.