Địa Đồ Di Cốt

Chương 14: Ngày thứ tư




Gô tích

Ngày 27 tháng 7, lúc 6 giờ 2 phút

Washington, D.C.

Giám đốc Painter Crowe biết rằng ông sẽ lại có một đêm không ngủ nữa. Ông đã nghe báo cáo từ Ai Cập về một vụ tấn công tại cảng phía đông của Alexandria. Liệu nhóm của Gray có tham gia vào đó không? Không có vệ tinh trinh sát trên bầu trời, không thể điều tra từ trên không được.

Và cũng chưa có tin tức gì từ chỗ đó về cả. Bức điện cuối cùng nhận được cách đây mười hai giờ, Painter tiếc đã không thông tin cho Gray Piere về sự nghi ngờ của ông. Thực ra lúc ấy mới chỉ là nghi ngờ mà thôi. Painter cần phải có thời gian để tập hợp thêm những thông tin tình báo. Dù vậy, ông cũng chưa chắc chắn. Nếu như tiến hành quá mạnh bạo kẻ phản bội sẽ biết y đã bị phát hiện. Điều đó sẽ đặt Gray và nhóm của anh vào vòng nguy hiểm hơn nữa.

Vì vậy Painter làm việc một mình.

Một tiếng gõ ở cửa văn phòng buộc ông phải rời mắt khỏi màn hình vi tính. Ông tắt máy vi tính để giấu công việc đang làm. Ông ấn nút mở khóa cửa. Thư ký của ông hôm nay đi vắng cả ngày.

Logan Gregory bước vào. “Máy bay của họ đang chuẩn bị hạ cánh.”

“Vẫn hướng về phía Mác-xây?” Painter hỏi.

Logan gật đầu. “Sẽ đỗ xuống trong vòng mười tám phút nữa. Vào lúc nửa đêm giờ địa phương.”

“Tại sao lại là Pháp nhỉ?” Painter xoa xoa cặp mắt mệt mỏi. “Liệu có phải họ vẫn giữ yên lặng, không thông tin với bên ngoài?”

“Viên phi công sẽ khẳng định điểm đến của họ, nhưng ngoài ra không còn gì nữa. Tôi đã cố gắng làm việc với Hải quan Pháp. Có hai hành khách trên máy bay.”

“Chỉ có hai người?” Painter ngồi thẳng dậy, chau mày.

“Họ bay dưới hộ chiếu ngoại giao. Không xưng danh. Tôi có thể cố gắng tìm thêm thông tin về điều này.”

Painter thấy cần tiến hành công việc một cách thận trọng từ bây giờ. “Không được” ông nói. “Điều ấy sẽ làm họ cảnh giác. Có thể họ muốn hoạt động của mình bí mật. Chúng ta hãy cho họ một số quyền. Từ nay trở đi.”

“Vâng, thưa ngài. Tôi có nhận được thỉnh cầu từ Rome. Vatican và lực lượng cảnh sát không nhận được tin tức gì nên họ thấy sốt ruột.”

Painter nghĩ phải cung cấp cho họ điều gì đó nếu không nhà cầm quyền Liên minh Châu Âu có thể phản ứng gay gắt. Ông cân nhắc các phương án. Có lẽ cũng không lâu, nhà cầm quyền châu Âu cũng sẽ biết đến những người này. Có lẽ phải làm vậy thôi.

“Hãy tỏ ra hợp tác” Cuối cùng ông nói. “Hãy cho họ biết về chuyến bay tới Mác-xây và rằng sẽ chuyển thêm cho họ thông tin mới nếu chúng ta nhận được.”

“Vâng, thưa ngài.”

Painter nhìn vào màn hình trống rỗng của máy vi tính. Ông có thể bấm nút thu hẹp màn hình lại. “Khi nào anh liên hệ với họ xong, tôi muốn anh giúp tôi một việc, đến chỗ DARPA.”

Logan trợn mắt.

“Tôi có vài thứ quan trọng cần mang trực tiếp đến Tiến sĩ Sean McKnight”. Painter nhét một bì thư có đóng dấu vào túi giao liên màu đỏ. “Nhưng đừng để ai biết rằng anh đi tới đó.”

Cặp mắt Logan nheo lại trông thật lạ lùng nhưng rồi anh ta cũng gật đầu. “Tôi sẽ thu xếp chuyện đó” Logan cầm lấy cái túi, kẹp vào nách rồi bước đi.

Painter nói với theo: “Nhớ là phải giữ tuyệt đối bí mật.”

“Giám đốc có thể tin ở tôi” Logan đáp một cách chắc chắn rồi đóng sập cửa lại.

Painter bật máy tính lên. Trên màn hình là bản đồ Địa Trung Hải với những đường vạch vàng và xanh đan xen chi chít. Đường bay của vệ tinh. Ông chỉ vào một đường. Vệ tinh mới nhất của NRO, có tên là Mắt chim ưng. Ông ấn đúp chuột để xem chi tiết và chỉ dẫn.

Painter đánh chữ Mác-xây (Marseille). Giờ địa phương hiện ra. Ông kiểm tra với bản đồ thời tiết. Một cơn bão quét qua vùng phía Nam nước Pháp. Mây dày đặc sẽ cản trở tầm nhìn. Cơ hội của cửa quan sát bị thu hẹp lại.

Painter nhìn đồng hồ. Ông nhấc máy gọi cho an ninh. “Hãy cho tôi biết khi nào Logan Gregory rời sở chỉ huy trung tâm.”

“Vâng, thưa ngài” Thời gian là cốt tử. Ông chờ thêm mười lăm phút nữa, nhìn cơn bão tràn qua Tây Âu.

“Bình thường thôi” Ông lẩm bẩm.

Có tiếng chuông điện thoại. Painter được khẳng định rằng Logan đã rời đi, rồi ông đứng dậy và ra khỏi văn phòng. Phòng vệ tinh thám sát ở dưới đó một tầng, cạnh phòng làm việc của Logan. Ông chạy vội xuống, chỉ thấy một nhân viên kỹ thuật đang vào cuốn sổ nhật biên, bên cạnh ngổn ngang các loại màn hình và máy tính.

Anh nhân viên rất ngạc nhiên trước sự xuất hiện đột ngột của sếp mình, đứng phắt dậy. “Thưa ngài giám đốc Crowe… tôi có thể giúp gì cho ngài?

“Tôi cần bản in của vệ tinh Mắt chim ưng số 4.”

“Mắt chim ưng?”

Painter gật đầu.

“Việc giao băng là ngoài thẩm quyền của tôi…”

Painter chìa ra một tờ giấy trước mặt anh ta. Nó chỉ có giá trị trong vòng nửa giờ nữa do Sean McKnight ký.

Viên kỹ thuật mở to mắt rồi bắt đầu vào việc. “Ngài không cần phải xuống tận đây làm gì. Tiến sĩ Gregory có thể mang tài liệu lên phòng ngài.”

“Logan đi rồi.” Painter đặt tay lên vai viên kỹ thuật. “Tôi cũng cần tất cả những gì thu được trong đoạn băng này phải xóa đi. Không thu lại. Không một lời nào để đoạn băng đó tại đây. Ngay cả tại Sigma.”

“Vâng, thưa ngài”

Viên kỹ thuật chỉ vào màn hình. “Nó sẽ hiện lên màn hình này. Tôi cần mã số để vào.”

Painter cung cấp cho anh ta.

Sau đến một phút, một cái sân bay tối mờ mờ hiện lên trên màn hình.

Sân bay Mác-xây (Marseille).

Painter yêu cầu phóng to hơn một cửa của sân bay. Những hình ảnh nhảy múa rồi rõ dần. Một chiếc máy bay nhỏ xuất hiện, loại Citation X.

Nó đậu gần cửa ra vào, cửa máy bay mở ra. Painter cúi người ra phía trước, che lấp hình ảnh đối với viên kỹ thuật.

Liệu ông có muộn không?

Các hoạt động diễn ra chậm chạp. Một bóng người, rồi một bóng nữa bước vào tầm nhìn. Họ vội vã xuống cầu thang máy bay. Painter không cần phải phóng to khuôn mặt của họ.

Ngài Verona và Kat Bryan.

Painter chờ tiếp. BIết đâu hình vừa rồi không đúng. Có khi cả bọn họ vẫn ở trên máy bay.

Màn hình rung chuyển với những vệt sáng chạy loằng ngoằng.

“Thời tiết xấu xuất hiện”. Viên kỹ thuật nói.

Painter trợn mắt. Không một hành khách nào nữa xuất hiện. Kat và ngài linh mục biến mất qua cửa. Với cặp mắt đầy lo âu, Painter vẫy tay ra hiệu cắt việc tiếp vệ tinh.

Ông cảm ơn anh ta rồi bước đi.

Vậy Gray ở chỗ quái quỷ nào nhỉ?

***

1 giờ 4 phút sáng

Geneva, Thụy Sỹ

Gray ngồi ở khoang hạng nhất trên chuyến bay của hàng không Ai Cập. Anh phải cảm ơn Long Đình. Họ không tiếc tiền. Anh nhìn quanh cái khoang hành khách nhỏ, sáu người. Một hoặc có thể nhiều hơn gián điệp của Long Đình đang theo dõi anh.

Chẳng sao cả. Sự hợp tác của anh đến nay… vẫn là đầy đủ.

Anh đã lấy vé máy bay và thẻ căn cước giả ở một ô hành lý trạm xe buýt rồi đi thẳng ra sân bay. Đó là chuyến bay liên tục bốn giờ. Anh ăn một bữa ngon miệng, uống hai cốc vang đỏ, xem một cuốn phim có Julia Robert đóng rồi còn ngủ được một giấc khoảng bốn mươi phút.

Anh quay ra cửa sổ. Chiếc chìa khóa vàng cựa quậy trên ngực anh. Nó được cài vào một sợi dây trên cổ. Thân nhiệt trên cơ thể anh đã làm mảnh kim loại đó ấm đôi chút nhưng vẫn nặng trĩu lạnh toát. Sinh mạng của hai con người phụ thuộc vào đó. Anh hình dung ra Monk, tính cách dễ chịu, đôi mắt sắc sảo và một trái tim nhân hậu. Và Rachel. Một sự pha trộn của thép và lụa, phức tạp và sôi nổi. Nhưng cú điện thoại cuối cùng của cô gọi anh đầy sự đau đớn và sợ hãi. Anh đau buốt đến tận tủy khi nghĩ đến chuyện cô bị bắt ngay dưới mũi mình.

Ánh đèn hắt lên từ Geneva lấp lánh. Ánh trăng dát bạc lên các đỉnh núi và hồ. Máy bay đã bay qua một phần sông Rhône chia đôi thành phố. Càng máy bay hạ xuống nghe kịch một cái. Một lát sau đã đáp xuống sân bay quốc tế Geneva.

Họ đi ô tô ra cửa, Gray chờ cho mọi người đóng gói kỹ lưỡng đồ của mình lên. Anh hy vọng đã mang đủ những thứ cần dùng. Khoác chiếc túi lên vai, anh bước ra.

Khi đã ra khỏi ca-bin hạng nhất, anh cố xem có dấu vết gì nguy hiểm không.

Và từng người khách đi cùng chuyến bay.

Cô ta ngồi trên khoang hạng phổ thông. Cô mặc một bộ đồ thương gia màu xanh sẫm, đeo đôi kính mắt to tròng. Trông cô ta vẫn mệt mỏi, cánh tay trái buộc lên được che một nửa dưới cái áo khoác. Cách hóa trang như vậy sẽ không giấu được ai nếu bị kiểm soát chặt chẽ. Nhưng không ai chờ đợi cô cả.

Đối với mọi người, Seichan đã chết.

Cô đi ra trước anh, không ngoái lại.

Gray đi theo một vài hành khách phía sau cô. Ra ngoài, anh xếp hàng qua cửa hải quan, chìa giấy tờ giả mạo để đóng dấu rồi bước đi. Anh không có hành lý gửi theo người.

Gray bước dọc đường phố đầy ánh sáng. Những du khách muộn màng đang vội vã tìm ô tô và taxi. Vẫn còn đông, Geneva là sân bay quốc tế có đầy khách du lịch. Anh chưa nghĩ rằng có cái gì đang đợi anh ở đây cả. Anh chờ sẽ có sự tiếp xúc từ Raoul. Anh chuyển gần đến chỗ taxi đỗ.

Seichan đã biến mất, nhưng anh có cảm giác cô ta vẫn quanh quẩn đâu đó rất gần.

Anh cần một đồng minh. Bị cắt đứt khỏi Washington và ngay chính đồng đội của mình, anh phải liên minh với quỷ. Anh đã giải thoát cho Seichan bằng chiếc cưa sau khi nhận được một lời hứa từ cô ả. Họ sẽ hành động cùng nhau. Để được tự do, cô ta sẽ giúp Gray giải thoát Rachel. Sau đó họ sẽ mỗi người một ngã. Tất cả các món nợ, quá khứ và hiện tại đều cho qua.

Cô ta đã đồng ý.

Khi anh xử lý và băng bó vết thương cho Seichan, cô đã nhìn anh với một cái nhìn rất lạ. Trần trụi đến ngang thắt lưng, bộ ngực phô ra, chẳng hề xấu hổ. Cô nhìn anh với một vẻ tò mò, một con vật lạ lùng với sự tập trung thái quá. Cô nói rất ít, quá mệt thậm chí còn hơi bị sốt. Nhưng cô đã hồi phục nhanh chóng, một con sư tử cái đang từ từ thức dậy, khôn ngoan và sự linh lợi đang bừng trong đôi mắt.

Gray biết sự hợp tác của cô xuất phát không phải từ nghĩa vụ mà vì căm thù với Raoul. Chuyện hợp tác phù hợp với nhu cầu trước mắt của cô. Cô ta đã bị bỏ mặt để chết, một cái chết chậm chạp và đau đớn. Cô muốn gã Raoul phải trả giá. Bất cứ hợp đồng gì giữa Hiệp hội và Long Đình đối với cô đã chấm dứt. Tất cả những gì còn lại là sự trả thù.

Nhưng liệu đó có phải là tất cả không?

Gray vẫn nhớ đôi mắt của cô ta nhìn anh với vẻ tò mò. Nhưng anh cũng nhớ lời cảnh báo trước đây của Painter với anh về cô ta. Điều ấy chắc đã thể hiện rõ trên khuôn mặt anh.

“Ồ, chắc tôi sẽ phản bội lại anh,” Seichan nói một cách rành mạch khi cô kéo cái áo sơ-mi lên. “Nhưng chỉ khi nào mọi việc chấm dứt. Cả hai chúng ta đều biết điều đó. Sự tin cậy lẫn nhau. Có cách thật thà nào hơn như vậy không?”

Chiếc máy điện thoại của Gray cuối cùng cũng đổ chuông. Anh nhấc lên nghe. “Chỉ huy Piere,” Gray nói trống không.

“Chúc mừng đã tới Thụy Sỹ,” Raoul nói. “Có vé tàu hỏa đi thành phố cho mày tại phòng chờ đi vào trung tâm, dưới tên giả, đi về Lausanne. Chuyến tàu sẽ rời đi trong vòng ba mươi lăm phút nữa. Mày sẽ đi chuyến ấy”

“Thế còn đồng đội của tao thế nào?” Gray nói.

“Như đã được thu xếp, nó đang trên đường tới bệnh viện ở Geneva. Mày sẽ nhận được sự khẳng định khi nào lên tàu.”

Gray quay ra chỗ taxi. “Thế còn trung úy Vernona?” Anh hỏi.

“Cô ta được chăm sóc chu đáo. Vào lúc này. Đừng có nhỡ tàu.”

Im lặng ở đầu dây.

Gray trèo lên taxi. Anh cũng chả buồn tìm kiếm Seichan. Anh đã cấy một con chip lên điện thoại rồi nối với máy của cô. Cô đã nghe toàn bộ cuộc đối thoại. Anh tin cô ta thừa sức để bắt kịp với anh.

“Nhà ga xe lửa trung tâm” Anh nói với người tài xế.

Với cái gật đầu, chiếc taxi lao ra khỏi dòng xe cộ rồi hướng về phía trung tâm Geneva. Gray ngồi thụp xuống ghế. Seichan đã nói đúng. Khi biết việc chúng yêu cầu anh đến Thụy Sỹ, cô đã nói địa điểm nghi đang giam giữ Rachel. Một cái lâu đài nào đó trên dãy Alpes.

Sau mười phút, chiếc taxi lượn vòng quanh hồ. Phía xa kia sau hồ là một cái đài phun nước khổng lồ đang phun những cột nước cao tới một trăm thước Anh. Đài phun nước nổi tiếng Jet d’Eau. Nó được ánh đèn chiếu sáng rực rỡ, một hình ảnh huyền thoại. Một lễ hội nào đó đang diễn ra gần đây.

Gray nghe thấy những tiếng cười nói, ca hát từ xa.

Nghe như từ một thế giới khác vọng về.

Chưa đầy mấy phút, chiếc taxi đã đỗ ngay trước cửa nhà ga trung tâm. Anh bước tới quầy vé, nói tên mình rồi xuất trình giấy tờ. Anh đã có vé tới một thành phố nhỏ ven hồ Lausanne.

Anh sải bước tới cửa, lo lắng nhìn những người khách đi ngang qua. Anh không thấy bóng Seichan ở đâu cả. Một nỗi băn khoăn xuất hiện. Liệu có phải cô ta đã chuồn rồi chăng? Điều gì xảy ra nếu cô ta chơi trò hai mặt với Raoul? Grat gạt ngay băn khoăn đó.

Anh đã tiến hành sự lựa chọn. Đây là một sự mạo hiểm có tính toán.

Điện thoại lại reo.

Anh lấy ra rồi chỉnh hướng ăng-ten.

“Chỉ huy Pierce,” anh nói.

“Hai phút làm anh thỏa mãn” Lại là Raoul. Có tiếng cạch, rít nối máy. Giọng tiếp theo nghe xa hơn, tiếng vọng nhưng quen thuộc.

“Chỉ huy đó phải không?”

“Tôi đây, Monk. Anh đang ở đâu vậy?” Anh chắc chắn cuộc nói chuyện đang bị nghe lén không chỉ bởi Seichan. Mình cần thận trọng.

“Chúng vứt tôi xuống một bệnh viện với chiếc máy điện thoại này. Bảo tôi chờ điện của anh. Tôi đang ở trong phòng cấp cứu. Các bác sĩ đều nói tiếng Pháp rất giỏi.”

“Anh đang ở Geneva,” Gray nói. “Sức khỏe của anh thế nào rồi?”

Một sự im lặng.

“Tôi đã biết về chuyện bàn tay của anh rồi” Gray nói.

“Những kẻ khốn kiếp” Monk nói giọng giận dữ. “Chúng có bác sĩ trên tàu. Đánh thuốc mê cho tôi, cấp cứu rồi băng bó cánh tay lại. Các bác sĩ ở đây muốn chụp x quang, họ có vẻ hài lòng với việc sơ cứu của gã bác sĩ đó, đại khái như vậy.”

Gray hiển Monk cố làm cho mọi chuyện có vẻ nhẹ đi. Nhưng giọng anh vẫn nặng nề.

“Rachel thế nào?”

Vết đau lại nhói lên với lời nói của Monk.”Tôi không nhìn thấy cô ta từ khi bị tiêm thuốc mê. Tôi không biết bây giờ cô ta ở đâu. Nhưng… Gray này….”

“Cái gì?”

“Anh phải cứu cô ta ra khỏi bọn chúng.”

“Tôi đang làm việc theo hướng đó. Thế còn anh thì sao, anh có an toàn không?”

“Có vẻ như vậy,” anh ta nói “Chúng bảo tôi phải giữ mồm. Tôi làm như vậy, trở thành thằng câm. Tuy nhiên, các bác sĩ đã gọi cảnh sát địa phương. An ninh đã được thiết lập.”

“Lúc này, cứ làm như chúng yêu cầu anh.” Ray nói. “Tôi sẽ cố đưa anh ra càng sớm càng tốt.”

“Gray,” Monk nói, giọng rất căng thẳng. Gray nhận ra anh ta muốn truyền đạt điều gì đó, nhưng cũng biết rằng những kẻ khác đang nghe lỏm. “Chúng… chúng cho tôi đi”

Đường dây lại im lặng. Raoul trở lại đầu dây.

“Hết giờ rồi. Như mày thấy đấy, tụi tao tôn trọng lời hứa. Nếu như mày muốn con đàn bà đó được thả tự do, mày phải cầm chiếc chìa đến.”

“Hiều rồi, thế sau sao nữa?”

“Tao sẽ có xe đợi mày ở ga Lausann.e”

“Không.” Gray nói “Tao sẽ không tự nộp mình vào tròng của mày chừng nào chưa biết chắc rằng Rachel an toàn. Khi tao tới Lausanne, tao muốn được khẳng định rằng cô ta vẫn an toàn. Rồi tao với mày sẽ thu xếp với nhau.”

“Đừng dùng tay mày ép tao,” Raoul gào lên “Tao không thích lại phải chặt nó giống như bạn mày vậy. Chúng ta sẽ tiếp tục nói chuyện khi mày ở đây.”

Đường dây chấm dứt.

Gray hạ máy xuống. Như vậy là Raoul ở Lausanne.

Anh chờ tàu hỏa. Đó là chuyến tàu cuối cùng. Trên sân ga cũng không đông khách lắm. Anh nhìn những khách đi tàu. Không thấy dấu hiệu gì của Seichan. Liệu còn có những tên gián điệp nào của Long Đình ở đây không?

Cuối cùng con tàu cũng tới, tiếng va đập vào đường ray. Nó rít lên rồi đỗ lại sau một hồi còi. Gray trèo vào khoang giữa, rồi vội vã lách qua các toa đi về phía cuối, cố gắng gạt được cái đuôi nào đó.

Tại chỗ nối giữa hai toa cuối Seichan chờ ở đó.

Cô không tìm cách nhận ra anh, chỉ đưa cho anh một giẻ lau bụi dài. Cô quay lại rồi bước ra phía cửa thoát hiểm ở phía bên kia đường tàu cách xa chỗ lên tàu.

Anh theo sau, nhảy xuống. Anh nhét cái giẻ đó vào áo rồi kéo cổ áo lên.

Seichan vội vã đi qua một đường tàu khác sang chỗ chờ tàu bên cạnh. Họ rời nhà ga và Gray thấy mình đang ở bên cạnh một bãi đậu xe.

Một chiếc mô tô BMW màu đen vàng đang đỗ gần đó.

“Trèo lên” Seichan nói “Anh lái xe đi. Vai của tôi” Cô ta đã phải vứt cái gạc đeo đi để lái từ chỗ mượn xe ra đây, nhưng còn năm mươi dặm nữa mới tới Lausanne.”

Cô trèo lên ngồi sau anh rồi vòng cánh tay rắn chắc ôm chặt lấy anh.

Gray nổ máy. Anh đã nhớ đường từ đây đi Lausanne. Anh lao qua chỗ đỗ xe rồi lách qua các đường phố, rú ga vào đường cao tốc dẫn đi từ Geneva đến các khu vực đồi núi.

Ánh đèn pha xe máy hướng về phía trước.

Anh leo theo ánh đèn, mỗi lúc mỗi nhanh hơn, gió đập mạnh vào áo khoác. Seichan dựa ngày càng sát vào người anh, tay ôm choàng quanh người, bàn tay luồn vào trong áo, những ngón tay bám chặt vào thắt lưng.

Anh cố gắng kiềm chế không gạt tay cô ta ra. Khôn ngoan hay không thì anh cũng đã làm việc này rồi. Anh lại leo lên đường núi hẹp. Họ phải tới Lausanne trong vòng hai mươi phút, sớm hơn tàu hỏa. Liệu có kịp thời gian không?

Khi anh leo lên đỉnh núi nhìn xuống hồ, đầu óc Gray trở lại với cuộc chuyện trò với Monk. Anh ta định nói với anh điều gì? Chúng để tôi đi. Cái đó rất rõ ràng. Nhưng Monk còn ám chỉ điều gì?

Gray nhớ lại những nhận định khi còn ở Ai Cập. Anh đã biết Long Đình sẽ thả Monk. Chuyện thả được thực hiện để bảo đảm và ép Gray hợp tác với chúng. Vả lại tên Raoul vẫn còn Rachel để mặc cả.

Chúng để tôi đi.

Liệu có cái gì đó hơn cả chuyện thả anh ta không? Tụi Long Đình rất man rợ. Chúng không bao giờ chịu nhả ra những miếng mồi ngon. Chúng đã dùng cách tra tấn Monk để buộc Rachel phải nói. Vậy vì sao chúng lại từ bỏ một món quý dễ dàng như vậy? Monk đã đúng. Trừ phi Long Đình đã nắm chặt được Rachel.

Vậy là cái gì?

***

2 giờ 2 phút sáng

Laussance Thụy Sỹ

Rachel ngồi trong xà lim, im lặng và mệt mỏi

Mỗi khi nhắm mắt lại, cô lại hình dung ra nỗi hãi hùng. Cô thấy chiếc rìu vung xuống. Người Monk nảy lên, bàn tay bị chặt đứt của anh văng ra bên trên boong tàu như con cá bị vứt trên cạn. Máu tuôn ra.

Alberto đã hét lớn lên với Raoul vì hành động của hắn. Không phải vì sự tàn bạo của hắn mà vì gã muốn người đàn ông đó sống. Raoul đã gạt đi nỗi lo lắng của gã. Chúng đã buộc ga-rô cầm máu. Alberto nói Raoul cho người kéo Monk lên khoang bên.

Sau đó, cô được một trong những người đàn bà của hiệp hội cho biết anh ta còn sống. Hai giờ sau, chiếc tàu cao tốc đã tới một hòn đảo trên Địa Trung Hải. Họ được chuyển đến một máy bay tư nhân nhỏ.

Rachel nhìn thấy Monk, phờ phạc, cổ tay bị chặt được băng bó đến tận khuỷu đang nằm trên cán. Rồi cô bị nhốt vào khoang sau. Một mình, không có cửa sổ. Trong suốt chuyến bay kéo dài năm tiếng đồng hồ họ hạ cánh hai lần. Cuối cùng, cô được đưa ra.

Monk đã đi mất.

Raoul che cả mặt rồi bịt miệng cô lại. Cô bị chuyển sang một chiếc xe tải. Sau nửa giờ lái ngoằn nghèo họ tới điểm đến cuối cùng. Cô nghe tiếng bánh ô tô chạm vào những tấm gỗ. Một cái cầu. Chiếc xe phanh dừng lại.

Bị lôi ra ngoài, cô nghe thấy tiếng chó sủa gầm gừ, giọng rất đanh. Một con chó chăn cừu hay đại loại vậy.

Cô bị dẫn đi bằng khuỷu tay qua lối đi rồi xuống cầu thang. Cánh cửa đóng lại phía sau, không còn nghe tiếng chó sủa nữa. cô ngửi thấy mùi đá lạnh và ẩm ướt. Cô cũng cảm thấy áp lực tăng dần khi chiếc xe tải leo lên đây.

Vùng núi.

Cuối cùng thì cô bị đẩy xô về phía trước. Cô ngã sụp xuống cả hai chân hai tay.

Raoul ôm lấy phía sau cô bằng cả hai tay rồi cười lớn “Đã muốn xin chuyện đó rồi à?”

Rachel nhảy lên, vai cô bị va phải một vật gì đó rất rắn. Mặt nạ rồi giẻ bịt miệng được lấy ra. Xoa xoa vai, cô nhìn quanh xà lim bằng đá chật hẹp. Lại không có cửa sổ, cảm giác về thời gian đã mất đi. Đồ đạc duy nhất là một cái giường bằng thép. Chiếc chiếu được cuộn tròn xếp đầu giường. Một chiếc gối ở trên, không có khăn trải giường.

Xà lim không có chấn song. Một bên tường là một tấm kính thủy tinh dầy chắc chắn, bên kia là cánh cửa đệm cao su và lỗ thông hơi bằng bàn tay. Ngay cả những lỗ thông hơi cũng có nắp có thể đóng sập lại từ bên ngoài để không nghe tiếng động hoặc từ từ cho tù nhân chết ngạt.

Cô bị bỏ mặc ở đó trong vòng một tiếng.

Không có ai gác. Tuy vậy, cô vẫn nghe thấy tiếng nói từ dưới sảnh, có thể là khoang cầu thang.

Có tiếng huyên náo bên ngoài. Cô ngửng mặt lên rồi đứng dậy. Cô nghe thấy giọng nói cộc lốc của Raoul, những mệnh lệnh phát ra. Cô đứng nép vào bức tường thủy tinh. Quần áo của cô đã được trả lại lúc ở trên thuyền nhưng cô không có vũ khí.

Raoul xuất hiện, có hai tên hộ tống hai bên.

Hắn trông không vui vẻ gì.

“Đi ra khỏi đây” Raoul làu bàu.

Chìa khóa mở cửa, cô bị kéo ra ngoài.

“Đi theo lối này” Raoul nói. Hắn dẫn cô đi dọc theo sảnh.

Cô thấy những xà lim khác, có những cái bịt kín giống như xà lim của cô, một vài cái mở phía trước xếp đống vỏ chai vang.

Raoul đẩy cô tới cầu thang rồi tới một cái sân tối đen chỉ thấy mờ mờ ánh trăng. Những bức tường bằng đá xung quanh. Một cái cổng vòm dưới đó là hai cánh cổng sắt lớn có thể nâng lên dẫn đến một cái cầu hẹp bắc ngang con mương.

Cô đang ở trong một lâu đài.

Một hàng xe tải xếp dọc theo bức tường gần ngay lối vào lâu đài.

Dọc theo bức tường bên, một hàng dài gần hai chục cái chuồng có khóa. Những tiếng gầm gừ phát ra từ trong đó. Những cái bóng to lớn di chuyển trông thật gân guốc, gớm ghiếc.

Raoul chắc nhận thấy sự chú ý của cô. Hắn gật đầu một cách tự hào man rợ “Đây là những con chó chiến, có nòi từ TK XVIII. Giống thuần chủng, tuyệt vời. Tất cả những bắp thịt, xương hàm và răng.”

Rachel phân vân không biết liệu hắn có đang mô tả về mình không.

Raoul dẫn cô đi từ cửa lâu đài vào thẳng khu vực giữa. Hai hàng cầu thang dẫn đến một cánh cửa dày gỗ sồi, được những bóng đèn tròn, giống những chiếc bánh nướng, thắp sáng vẻ rất mời mọc nhưng họ không đi vào lối đó. Một cánh cửa bên dẫn đến một tầng dưới cầu thang.

Ấn vào một cái nút, hắn mở cánh cửa dưới.

Khi cánh cửa mở toang ra, Rachel đã thoáng thấy mùi thuốc khử trùng và mùi gì đó tối tăm, tởm lợm. Cô bị đẩy vào một căn phòng hình vuông, được thắp sáng rực rỡ bằng những bóng đèn huỳnh quang. Tường đá, nền lát bằng những tấm phủ. Một tên duy nhất đứng gác trước cửa ra vào.

Raoul đi ngang qua rồi đẩy cửa.

Phía trước là một lối đi dài dẫn qua hàng loạt căn phòng. Cô liếc nhìn vào vài ba cái phòng khi cô bị đưa đi dọc theo. Có phòng đầy những chuồng bằng thép không gỉ. Những dãy máy tính nối dọc với nhau chiếm một phòng khác. Trường điện tử, cô đoán chúng được sử dụng để thử nghiệm với các hợp chất ở trạng thái –m. Trong căn phòng thứ ba chỉ có một chiếc bàn bằng thép có chữ X. Đai buộc bằng da trên bàn cho thấy nó được dùng để trói người, nạn nhân phải dang thẳng tay chân ra. Một ngọn đèn phẫu thuật treo ở phía trên.

Cảnh tượng này làm cô lạnh cả người.

Căn phòng còn lại trải dài phía trước. Cô đã thấy quá đủ và chỉ mong được dừng lại một cánh cửa ở bức tường đối diện.

Raoul gõ rồi đẩy cửa vào.

Rachel rất ngạc nhiên bởi sự tương phản. Giống như là bước vào một căn phòng của thế kỷ trước của một nhà khoa học hoàng gia nổi tiếng. Căn phòng này được trang bị với đồ đạc làm bằng gỗ sồi và gỗ dẻ. Dưới sàn là tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ dày cộp màu xanh ngọc và đỏ sẫm.

Những giá sách và tủ bày xếp dọc theo tường chứa đầy các văn bản mới được thu gọn lại. Phía sau tấm kính cô đọc thấy bản đầu tiên của cuốn Principia của Isac Newton, bên cạnh đó là tập Nguồn gốc các loài của Đacuyn. Cũng có cả một văn bản nổi tiếng của Ai Cập đang được mở ra ở một bên. Rachel đang phân vân đây có phải là cuốn sách đã ăn cắp ở bảo tàng Cairo hay không, văn bản giả mạo với những khổ thơ bí ẩn đã dẫn đến toàn bộ vụ thám hiểm chết người này.

Những gì cô nhìn thấy đều là những kiệt tác nghệ thuật. Các pho tượng La Mã và Trung Đông xếp trên các giá, có cả một con ngựa cao hai tấc từ Ba Tư, một cái đầu tượng, một kiệt tác ăn trộm từ Iran chục năm về trước, được cho là khuôn mẫu của con ngựa nổi tiếng của Alexander Đại Đế, có tên là Bucephalus. Những bức họa được xếp phía trên. Cô biết một bức là của Rambrandt còn bức kia là của Rapheal.

Nhưng nằm ngay giữa phòng là một cái bàn lớn được chạm khắc. Nó được kê gần cái lò sưởi lát đá cao từ sàn đến trần. Những ngọn lửa nhỏ đang bập bùng bên trong lò sưởi.

“Giáo sư” Raoul gọi, đóng cửa lại phía sau.

Qua một cánh cửa bên tới một căn phòng trong, tiến sĩ Alberto Menardi bước vào. Gã mặc bộ vét màu đen đắt tiền. Chắc gã vẫn còn giữ thói quen nên vẫn đeo cổ áo choàng linh mục trên chiếc sơ mi màu đen.

Gã cầm một cuốn sách trong tay, chỉ về phía Rachel “Cô vẫn chưa thành thực với chúng ta.”

Rachel thấy tim mình như đập mạnh. Hơi thở như nghẹn lại.

Alberto quay lại Raoul “Nếu như anh làm tôi sao lãng việc cần chữa cổ tay cho thằng cha người Mỹ đó, tôi sẽ sớm phát hiện ra thôi. Hai người hãy tới đây.”

Hắn tiến tới một cái bàn chứa đầy tài liệu.

Rachel để ý tấm bản đồ cô vẽ Địa Trung Hải trải rộng trên bàn. Đã thấy có những dòng kẻ mới, vòng tròn, kinh độ, vĩ độ. Những con số nhỏ bí ẩn được điền vào một bên bản đồ. Một cái la bàn và thước vuông nằm bên cạnh cùng với dụng cụ đo độ cao mặt trời. Rõ ràng Alberto đang nghiên cứu về câu đố này, không mấy tin Rachel và hình dung ra cô và ông bác cô thật quá ngu đần.

Gã viện trưởng gõ vào tấm bản đồ “Rome không phải là điểm tiếp theo.”

Rachel cố giữ không tỏ ra là mình sợ.

Alberto tiếp tục “Tất cả những điều này đều ám chỉ mọi hoạt động đều tiến lên phía trước. Ngay chiếc đồng hồ cát đây, một bộ phận để chỉ thời gian, mỗi lúc chỉ rơi một ít cho đến khi có sự chấm dứt không đảo ngược. Vì lý do này, biểu tượng của đồng hồ cát luôn đại diện cho cái chết, sự chấm dứt của thời gian. Vẽ đồng hồ cát ở đây chỉ có nghĩa một điều.

Cặp mắt của Raoul nheo lại, cho thấy hắn chẳng hiểu gì cả.

Alberto thở dài “Tất nhiên nó có ý nghĩa là chặng cuối của cuộc hành trình. Tôi tin rằng khi dấu tích này chỉ đến đâu, nó đánh dấu chặng dừng chân cuối cùng.”

Rachel cảm thấy Raoul rung động bên cạnh cô. Chúng đã gần tới điểm kết thúc rồi. Nhưng chúng không có chiếc chìa khóa vàng và dù với tất cả sự thông minh của Alberto gã cũng chưa giải được câu đố. Nhưng gã sẽ làm được.

“Không thể là Rome” Alberto nói. “Cái đó sẽ là chuyển động ngược lại, không phải là tiến lên phía trước. Còn một điều bí mật phải giải ở đây.”

Rachel lắc đầu, vẻ như không mấy quan tâm “Đây là tất cả những thứ gì đã được tính toán trước khi tấn công” Cô chỉ tay quanh căn phòng của gã “Chúng tôi làm gì có được những thứ như ở đây.”

Alberto quan sát nét mặt Rachel khi cô nói. Cô cũng nhìn lại không lùi bước.

“Tôi….tôi tin cô” Gã nói chầm chậm “Ngài Vigor rất sắc sảo nhưng câu đố này có các tầng lớp về mặt bí hiểm.”

Rachel cố ra vẻ ngu ngơ, song vẫn lộ vẻ sợ hãi đã bị khống chế. Alberto làm việc một mình. Rõ ràng là gã tới đây để giải mã bí mật cho Long Đình. Không tin ai cả, gã quá tự tin vào sự siêu việt của chính bản thân gã. Gã không hiểu giá trị của những vấn đề rộng hơn, sự khác biệt của quan điểm. Nó đã giúp cho tài năng của cả nhóm ghép nối các bí mật vào với nhau chứ không phải đơn độc công việc của một người.

Nhưng gã viện trưởng này không phải là một kẻ ngốc “Tuy nhiên” Gã nói “Chúng ta biết chắc rằng cô đã cố giữ kín chuyện phát hiện ra chiếc chìa khóa vàng. Có thể cô vẫn còn giữ những điều nữa.”

Nỗi lo sợ lại tăng hơn “Tôi đã nói hết với ngài rồi” cô thề với một niềm tin mong manh. Liệu chúng có tin cô không? Liệu chúng có tra tấn cô không?

Cô nuốt nghẹn, cố gắng che giấu điều đó. Cô sẽ không nói nữa. Có quá nhiều chuyện mong manh rồi. Cô đã thấy quyền lực được phô diễn ở Rome và Alexandria. Long Đình chắc không thể nào bỏ qua điều này.

Ngay cả sinh mạng của Monk cũng bị quyết định ở đây. Họ đều là những người lính. Trở lại trên con tàu cao tốc, cô đã cung cấp thông tin về chiếc chìa khóa vàng không chỉ để cứu Monk mà còn để lôi Gray vào cuộc cho anh ta có cơ hội để làm điều gì đấy. Có lẽ đây là một sự mạo hiểm có lý. Giống như bây giờ, Long Đình vẫn thiếu một miếng ghép quan trọng cho lời giải. Cô vẫn phải cố giữ kín việc phát hiện ra Avignon và Giáo hoàng ở nước Pháp.

Hoặc tất cả sẽ bị mất hết.

Alberto nhún vai “Chỉ có một cách để tìm ra xem liệu cô có biết thêm không. Đây là lúc chúng tôi cần một sự thật hoàn toàn từ phía cô. Dẫn cô ta đến buồng bên cạnh. Chúng ta cần sẵn sàng.”

Hơi thở của Rachel trở nên dồn dập hơn, nhưng cô vẫn thấy như thiếu không khí. Cô bị gã Raoul kéo mạnh ra ngoài cửa. Alberto theo sau, cởi áo khoác sẵn sàng bắt tay vào việc.

Rachel lại hình dung cảnh bàn tay của Monk bị chặt trên bong tàu. Cô phải chuẩn bị bản thân cho những điều xấu hơn. Bọn chúng không được biết. Không bao giờ. Không có lý do nào để cô tiết lộ sự thật.

Khi Rachel bước ra ngoài sảnh, cô nhìn thấy cái đó từ phòng phía xa, căn phòng có cái bàn hình X kỳ dị, được thắp sáng hơn lúc nãy. Có ai đấy đã thắp sáng ngọn đèn giải phẫu trên đầu.

Raoul đứng che lấp một phần cảnh đó. Cô phát hiện ra một bình Iot ở trên giá, một cái khay đựng dụng cụ phẫu thuật, sắc nhọn, răng cưa, lưỡi dao. Một hình người bị buộc trên bàn.

Ôi...lạy Chúa. Monk phải không?

“Chúng ta không thể kéo dài việc tra tấn này suốt đêm” Alberto hứa hẹn, đi ngang qua để bước vào căn phòng trước tiên. Gã bước tới đeo đôi găng tay cao su.

Raoul cuối cùng cũng kéo cô xềnh xệch về phía cái bàn phẫu thuật hãi hùng đó.

Cuối cùng thì cô cũng nhìn thấy ai đó bị trói trên bàn, chân tay dang rộng, từ mũi đã có những giọt máu chảy tong tong.

“Một ai đó đến đây dò xét nơi họ không nên đến” Raoul nói với một nụ cười hằn học.

Khuôn mặt của người bị trói quay về phía cô. Cặp mắt họ nhận ra nhau. Vào lúc này, tất cả đều rời bỏ cô.

Rachel lao lên phía trước. “Không”

Raoul nắm lấy tóc cô rồi kéo cô quỳ xuống bằng đầu gối.

“Mày phải nhìn từ chỗ này!”

Alberto cầm lấy một con dao bằng bạc “Chúng ta sẽ bắt đầu bằng tai bên trái”

“Không” Rachel hét lên “Tôi sẽ nói! Tôi sẽ nói hết tất cả”

Alberto hạ con dao xuống quay sang phía cô.

“Avignon,” Cô nức nở “Đó là Avignon”

Cô cảm thấy không có tội lỗi gì khi nói ra điều này. Từ giờ cô phải tin tưởng vào Gray. Mọi hy vọng đều ở lại với anh ta. Rachel nhìn vào đôi mắt ngây dại vì hoảng sợ của người đang bị trói.

“Bà….” Cô rên rỉ.

Đó là bà ngoại của cô.

2 giờ 22 phút sáng

Avignon, Pháp

Thành phố Avignon tráng lệ đang ca hát, nhảy múa.

Liên hoan sân khấu mùa hè hàng năm diễn ra vào tháng bảy, một sự kiện lớn nhất thế giới, gồm những tiết mục âm nhạc, kịch và nghệ thuật. Thanh niên đổ dồn vào thành phố, đóng trại ở các công viên, tràn ngập các khách sạn và nhà nghỉ dành cho tuổi trẻ. Đó là những cuộc vui suốt ngày. Ngay cả khi màn đêm buông xuống cũng không làm nản lòng những người tham dự liên hoan.

Vigor quay ngoắt đi trước cảnh một cặp đang âu yếm nhau trên một cái ghế đơn độc ở công viên. Bộ tóc dài của cô gái đã dấu đi cố gắng làm vừa lòng người bạn trai. Vigor vội bước đến kế bên Kat. Họ chọn cách đi ngang qua công viên để đến Lâu đài Quảng trường. Tòa lâu đài của Giáo hoàng nằm ở trên những tảng đá lớn nhìn xuống dòng sông.

Khi họ đi qua một chòi quan sát, một khúc lượn của con sông hiện ra phía dưới. Bắc ngang qua sông là một trong những cây cầu nổi tiếng của Pháp được đề cập trong bài hát ru con chiếc cầu Avignon hoặc cầu St.Benezet. Được xây dựng từ cuối thế kỷ XII, nó là chiếc cầu duy nhất bắc qua sông Rhone…mặc dù qua nhiều thế kỷ chỉ còn bốn trong toàn bộ hai mươi tư vòm ban đầu còn lại. Chiếc cầu được chiếu sáng rực rỡ. Những đám đông nhảy múa trên đó - những nghệ nhân múa các điệu múa dân gian. Âm nhạc làm không khí càng rộn rã.

Tại Avignon, quá khứ và hiện tại dường như đan xen lẫn nhau giống như một số ít thành phố khác.

“Chúng ta bắt đầu từ đâu?” Kat hỏi.

Vigor đã dành suốt thời gian trong lúc bay tới đây để nghiên cứu, cố gắng trả lời chính xác câu hỏi này. Ông nói khi dẫn cô đi ngang qua con sông tới thành phố.

“Avignon là một trong những thành phổ cổ nhất của Châu Âu. Có thể thấy nguồn gốc của nó từ thời kỳ đồ đá mới. Người Celt đã định cư ở đây rồi đến người Roman. Nhưng Avignon nổi tiếng ngày nay là nét kiến trúc Gô-tich của nó đã phát triển rực rỡ trong thời kỳ Giáo hoàng Pháp. Avignon chứa đựng một trong những quần thể kiến trúc Gô-tích lớn nhất của cả Châu Âu. Một thành phố thực sự Gô-tích.”

“Thế ý nghĩa của chuyện đó dẫn đến đâu?” Kat hỏi.

Vigor nhận ra tâm trạng nặng nề qua giọng nói của cô. Cô vẫn băn khoăn về những đồng đội của mình, bị tách ra khỏi họ rồi gửi tới đây. Ông biết cô vẫn có mặc cảm rằng mình có trách nhiệm về việc cháu ông và Monk bị bắt. Cô vẫn mang theo gánh nặng tâm lý đó mặc dù chỉ huy của cô quả quyết rằng việc làm của cô là đúng.

Vigor cũng thấy đồng cảm với lo lắng của cô. Ông đã lôi Rachel vào chuyện mạo hiểm này. Giờ thì cô đang ở trong bàn tay của bọn Long Đình. Nhưng ông biết rằng việc hối lỗi như vậy chẳng đem cho họ điều gì tốt cả. Ông đã trưởng thành với đức tin. Đó là nền tảng cho sự tồn tại của ông. Ông đã tìm thấy một chút khuây khỏa trong việc đặt niềm tin cho sự an toàn của Rachel vào bàn tay của Chúa và của Gray.

Nhưng điều này không có nghĩa là ông không tích cực mà chỉ thụ động. Chúa giúp những kẻ nào tự giúp mình. Ông và Kat có nhiệm vụ của mình ở đây.

Vigor trả lời câu hỏi của cô “Từ gô-tich xuất phát từ tiếng Hy Lạp là goetic. Được dịch ra nghĩa là mầu nhiệm. Và những kiến trúc này được coi như mầu nhiệm. Nó giống như không nhìn thấy gì trong một thời gian, từ cái sườn rất mỏng, cái thảm bay, độ cao không thể tưởng tượng được. Nó mang lại một ấn tượng của sự không trọng lượng.”

Khi Vigor nhấn mạnh từ cuối cùng, Kat đã hiểu “Sự mất trọng lượng” Cô nói.

Vigor gật đầu “Nhà thờ và các kiến trúc Gô-tich hầu như hoàn toàn do một nhóm thợ nề xây dựng, họ tự gọi mình là Những đứa trẻ Solomon, một sự pha trộn của các hiệp sĩ và các vị linh mục. Họ giữ những điều bí mật về toán học để xây dựng các kiến trúc này, được coi như lấy được khi các hiệp sĩ phát hiện ra Đền thờ Solomon trong các cuộc Thập tự chinh. Những hiệp sĩ trở nên giàu có…hoặc giàu có hơn, như người ta nói người ta phát hiện ra một kho báu rất lớn của vua Solomon, có thể trong đấy có cả hộp gỗ đựng các bản gốc của luật pháp Do Thái mà người ta cho rằng được giấu trong đền thờ Solomon.”

“Và ví dụ như cái hộp đó là nơi Thánh Moses giấu những bình đựng chất manna của mình” Kat nói “Bản kê của ông ta đối với các kim loại ở trạng thái –m”

“Đừng bỏ qua khả năng ấy” Vigor nói “Trong Kinh thánh có nhiều đoạn đề cập đến năng lượng lạ lùng phát sinh từ hộp gỗ ấy. Nói như nó bị mất trọng lượng. Nhưng ngay cả từ ngữ đó cũng bắt nguồn từ những người giữ chiếc hộp đó, những linh mục của Lavite. Và cái hộp đó trở nên nổi tiếng vì có thể giết chết người ta, giết bằng những tia chớp. Một người, tên là Uzzah, đã cố gắng tìm cách giữ thăng bằng cái hộp khi nó nghiêng đi một chút. Ông ta lấy tay chạm vào nó rồi bị quật ngã. Vua David sợ quá đến mức từ chối không cho đưa cái hộp này vào thành phố của ngài. Nhưng những linh mục Lavitte chỉ cho ông cách di chuyển an toàn. Với những đôi găng, áo khoác, loại bỏ những thứ làm bằng kim loại.”

“Để tránh không bị giật”, giọng của Kat bớt đi chút căng thẳng, sự bí hiểm đã lôi cuốn cô.

“Có thể cái hộp đựng chỗ bột ở trạng thái –m bên trong hoạt động như những chất dẫn điện. Nguyên liệu siêu dẫn đã thu hút năng lượng môi trường bên ngoài rồi nạp vào đó giống như cái kim tự tháp bằng vàng đã làm. Cho đến khi có ai đấy không làm đúng như vậy.”

“Rồi bị điện giật.”

Vigor gật đầu.

“Đúng rồi” Kat nói “Chúng ta hãy nói rằng các hiệp sĩ đã phát hiện lại cái hộp đó và rất có thể là những chất siêu dẫn ở trạng thái –m. Nhưng liệu chúng ta có biết họ hiểu được điều bí mật của nó không?”

“Tôi có thể có câu trả lời. Chỉ huy Gray lúc đầu đã yêu cầu tôi tìm kiếm những tư liệu lịch sử liên quan đến những khả năng đơn nguyên kỳ lạ này.”

“Từ Ai Cập đến những vị Tiên tri trong Kinh Thánh” Kat nói.

Vigor gật đầu “Nhưng tôi phân vân liệu nó có bị trải dài ra hơn nữa không. Quá giai đoạn của Chúa. Liệu có dấu tích gì còn lại không?”

“Và Ngài đã tìm thấy nó” Kat nói, đọc được sự phấn khích trong ông.

“Những loại bột ở trạng thái –m có rất nhiều cái tên: bánh mỳ trắng, chất bột pháo, hòn đá Thiên đường, hòn đá của các nhà Tiên tri. Kể cũng ngạc nhiên, khi đọc kỹ vào thời kỳ Kinh thánh tôi còn tìm thấy một loại đá bí hiểm của lịch sử giả kim. Loại đá nổi tiếng của nhà Triết học.”

Kat trợn mắt “Loại đá có thể biến chì thành vàng?”

“Đó là sự hiểu nhầm thông thường. Một nhà Triết học ở TK XVII, Eiranaeus Philadethes, một người được tổ chức hội Hoàng gia đánh giá cao, đã lập ra kỷ lục trong bài viết của ông ta. Trích dẫn ra thì hòn đá của nhà Triết học không khác hơn là vàng đã được tinh lọc đến mức tinh khiết nhất…được gọi là đá vì tính chất cố định của nó…là vàng vì nó tinh túy hơn những gì tinh túy nhất…nhưng hình dạng của nó thì lại là hình dạng của chất bột rất tuyệt vời.”

“Lại chất bột vàng nữa rồi” Kat nói, ngạc nhiên.

“Liệu có sự tham khảo nào rõ hơn không? Và không phải chỉ có Eiranaeus, một nhà hóa học người Pháp vào TK XV, Nicolas Flamel, cũng mô tả một quá trình giả kim tương tự trong những lời nói cuối cùng, và tôi trích dẫn, nó làm chất bột vàng tuyệt vời, đó là đá của nhà triết học.” Vigor thở một hơi “Vậy rõ ràng một vài nhà khoa học vào thời gian đó đã thí nghiệm với một dạng kỳ lạ của vàng. Thực ra Hiệp hội Hoàng Gia của các nhà khoa học rất bị lôi cuốn vào vấn đề này. Kể cả ngài Isac Newton. Nhiều người không biết rằng Newton là một nhà giả kim cuồng nhiệt và cũng là một đồng nghiệp của Eiranaeus.”

“Vậy điều gì đến với tất cả công việc của họ?” Kat hỏi.

“Tôi không biết. Rất nhiều người cuối cùng đã đến với cái chết. Nhưng một đồng nghiệp khác của Newton, Robert Boyle, cũng nghiên cứu về vàng giả kim. Nhưng có cái gì đó làm ông lưu ý, một cái gì đó làm ông phát hiện ra. Ông dừng nghiên cứu. Ông chấm dứt việc nghiên cứu và tuyên bố những nghiên cứu ấy rất nguy hiểm. Thật sự nguy hiểm, ông nói việc lạm dụng nó có thể làm rối loạn loài người, biến quả đất thành một thảm họa. Nó tạo ra một phép màu về cái làm ông sợ. Liệu có phải ông ta đã đề cập đến một cái gì đấy đẩy cái hội những nhà giả kim đã mất của chúng ta tụt sâu xuống lòng đất không?”

Kat lắc đầu “Những hòn đá của các nhà Triết học liên quan gì đến kiến trúc Gô-tich”

“Hơn là cô tưởng. Một người Pháp vào đầu TK XII, tên là Fulcanelit, đã có một tác phẩm rất nổi tiếng có tên Sự bí hiểm của các nhà thờ. Nó đã mô tả chi tiết những nhà thờ Gô-tich ở Châu Âu đã được mã hóa những thông điệp bí ẩn, dẫn đến những dòng chảy của những kiến thức đã mất, trong đó có cách làm hòn đá của nhà Triết học và các bí mật về giả kim khác.”

“Mật mã trong đá?”

“Đừng ngạc nhiên. Đấy là cái nhà thờ đang làm rồi. Hầu hết dân cư lúc đó đều không biết chữ. Việc trang hoàng các nhà thờ đều phải có chỉ dẫn và đầy đủ thông tin, kể chuyện về Kinh thánh qua những tác phẩm bằng đá. Và nên nhớ như tôi đã nói, ai là người xây nên những sách truyện về những nhà thờ Gotich khổng lồ ấy?”

“Các hiệp sĩ Templar” Kat nói.

“Một nhóm được biết đã thu thập các kiến thức bí ẩn từ đền thờ Solomon. Vì vậy bên cạnh những việc kể những truyện trong Kinh Thánh, họ còn lồng ghép vào một vài thông điệp bổ sung đã được mã hóa, dành riêng cho những nhà giả kim thợ nề đồng nghiệp.”

Kat vẫn thấy ngờ ngợ.

“Người ta chỉ cần nhìn kỹ vào một vài công trình Gô tich cũng đã ngạc nhiên. Các loại tranh ảnh thánh thì đầy những hình tượng về mười hai con giáp, những câu đố toán học, những mê cung hình học xuất phát ngay từ những văn bản giả kim thời kỳ đó. Ngay cả tác giả của cuốn Thằng gù nhà thờ Đức Bà Victor Hugo cũng đã dành cả một chương để dè bỉu công trình Nhà Thờ Đức Bà mâu thuẫn với nhà thờ Cơ đốc giáo. Mô tả nghê thuật Gô-tích như những trang nổi loạn bằng đá.”

Vigor chỉ về phía trước qua những cái cây. Công viên chấm dứt khi tiến tới lâu đài Quảng trường. “Và Fulcanelli và Hugo không phải là những người duy nhất đã tin rằng có cái gì đó phản đồ liên quan đến những công trình của những Hiệp sĩ Templar. Cô có biết vì sao ngày thứ Sáu 13 được coi là ngày không may mắn không?”

Kat liếc nhìn ông rồi lắc đầu.

“Ngày 13 tháng 10, 1307. Ngày thứ sáu. Nhà vua nước Pháp cùng với Giáo hoàng đã tuyên bố những hiệp sĩ Templar là những kẻ phản đồ, ghép họ vào tội chết, câu rút và thiêu sống người cầm đầu của họ. Người ta tin rằng lý do thực sự của việc các hiệp sĩ bị đặt ra ngoài vòng pháp luật là để giành lại quyền lực trong tay họ và quyền kiểm soát của cải của họ trong đó có cả những kiến thức bí mật mà họ sở hữu. Nhà vua nước Pháp đã tra tấn hàng ngàn hiệp sĩ, nhưng những nơi cất giấu của cải của họ không bao giờ bị phát hiện ra. Chính vậy, đã đánh dấu chấm hết đối với các Hiệp sĩ Templar.”

“Thực sự đó là một ngày không may đối với họ.”

“Đúng ra đấy là cả một thế kỷ không may mắn” Vigor dẫn đường đi ra khỏi công viên dọc theo con đường có hai hàng cây dẫn đến trung tâm thành phố. “Sự chia rẽ giữa nhà thờ và các vị hiệp sĩ đã bắt đầu từ một trăm năm trước đó khi Giáo hoàng Thơ ngay III đã quét sạch một cách man rợ một giáo phái của những người ngộ đạo Thiên chúa giáo có liên hệ với các Hiệp sĩ Templar. Đó thực sự là một cuộc chiến dài tới một thế kỷ giữa đạo chính thống và Ngộ đạo.

“Và chúng ta biết ai đã thắng trận ấy” Kat nói.

“Liệu có phải vậy không? Tôi vẫn phân vân nếu như đó không phải là một chiến thắng của sự đồng hóa. Nếu như người ta không đánh bại được thì phải hòa nhập với họ. Một tài liệu thú vị xuất hiện vào tháng 9 năm 2001 có tên là tài liệu Chinon. Nó là một cuộn giấy có niên kỷ một năm trước ngày thứ Sáu đẫm máu thế kỷ XIV, do Giáo hoàng Nhân từ V ký, tuyên bố xá tội và miễn truy cứu các Hiệp sĩ Templar. Nhưng không may, nhà vua Phillip của nước Pháp phớt lờ điều đó, tiếp tục cuộc tàn sát trên phạm vi toàn quốc đối với các Hiệp sĩ. Nhưng tại sao lại có sự thay đổi về con tim của nhà thờ? Tại sao Giáo hoàng nhân từ xây lâu đài Avagnon ở đây theo truyền thống Gô-tich do những người thợ nề phản đồ xây dựng? Và tại sao trên thực tế Avagnon trở thành trung tâm Gô-tích của Châu Âu?”

“Liệu có phải ông gợi ý rằng nhà thờ đã quay ngoắt lại và dang tay ôm các Hiệp sĩ vào lòng không?”

“Hãy nhớ rằng chúng ta đã đi tới kết luận rằng một vài khía cạnh của những người Thiên chúa giáo Thomas, những người thiên chúa giáo với những kiến thức về ngộ đạo, đã được cất giấu bên trong nhà thờ. Có thể họ đã thuyết phục Giáo hoàng nhân từ can thiệp để bảo vệ những vị hiệp sĩ khỏi sự tàn sát của vua Phillip.”

“Để làm gì?”

“Để cất giấu cái gì đấy có giá trị lớn lao đối với Nhà thờ và đối với thế giới. Trong thế kỷ của Giáo hoàng Avignon, đã có sự bùng nổ về xây dựng diễn ra ở đây, rất nhiều thứ đó đã được giám sát bởi đứa con của Solomon. Họ có thể dễ dàng chôn giấu gì đấy có kích thước lớn.”

“Nhưng chúng ta sẽ bắt đầu tìm kiếm từ đâu?” Kat hỏi.

“Từ công trình mà vị Giáo hoàng cho phép, xây dựng bởi những bàn tay của các Hiệp sĩ, một trong những công trình vĩ đại nhất của kiến trúc Gô-tích.”

Vigor chỉ lên phía trước, khi con đường đi vào một quảng trường rộng, đang có rất đông những người tham gia liên hoan. Những ánh sáng màu tạo nên một khu vực nhảy múa, một dàn nhạc rock và một sân khấu tạm thời được dựng lên, đám thanh niên đang vặn vẹo, cười đùa, la hét. Dọc theo đó, những chiếc bàn đã được kê dành cho những người tham gia liên hoan. Một nghệ sĩ xiếc đang phun những thanh lửa lên trên bầu trời đêm. Tiếng vỗ tay động viên. Bia tuôn chảy cùng với những chiếc cốc giấy đựng café. Những dòng khói thuốc lá cùng với các loại lá được cuộn bằng tay.

Nhưng trên nền của đám tiệc vui vẻ đó là một cấu trúc vĩ đại màu đen sẫm nằm án ngữ, tạo nên bởi những tháp hình vuông, phía trước là những đường vòm cong bằng đá nổi bật lên bởi hai cái tháp hình chóp nhọn. Mặt ngoài bằng đá của chúng tạo nên một sự tương phản rõ rệt với khung cảnh vui vẻ phía dưới. Lịch sử đang đè nặng lên… và một bí mật của thời xa xưa.

Lâu đài của các vị Giáo hoàng.

“Một nơi nào đó trong cái kiến trúc này có một trang phản đồ của đá” Vigor nói, bước lại gần Kat hơn “Tôi tin chắc như vậy. Chúng ta phải tìm ra và giải mã nó.”

“Nhưng chúng ta bắt đầu tìm kiếm từ đâu?”

Vigor lắc đầu “Bất cứ cái gì đã làm Robert Boyle hoảng sợ, những bí mật kinh khủng tạo nên liên minh giữa các Hiệp sĩ phản đồ và nhà thờ chính thống, bất cứ bí mật nào đòi hỏi phải có một cuộc săn lùng báu vật trên Địa Trung Hải để tìm ra lời giải đáp được cất giấu ở đây.”

Vigor cảm thấy một luồng gió mạnh thổi vào từ phía con sông. Avignon được đặt tên từ những đợt gió mạnh thổi liên tục từ con sông, nhưng ông có cảm giác một cơn bão thực sự sẽ đến.

Trên trời, những ngôi sao đã lặn. Những đám mây đen đang hạ thấp.

Họ còn được bao nhiêu thời gian?

***

2 giờ 48 phút sáng

Lausanne Thụy Sỹ

“Đó là những gì chúng tôi tính toán ở Avignon” Rachel kết thúc ”Vatican của nước Pháp. Đó là điểm dừng chân tiếp theo và cuối cùn.”

Cô vẫn quỳ trên nền đá. Bà ngoại cô vẫn bị trói ở trên bàn. Cô đã kể cho chúng hết mọi thứ, không bỏ sót một chi tiết nào. Cô trả lời tất cả câu hỏi của Alberto. Cô không cố gắng quanh co. Cô không mạo hiểm việc chúng sẽ kiểm chứng sự thật bằng chính da thịt của bà ngoại mình.

Monk và Rachel là những người lính. Nhưng bà của cô không phải.

Rachel không thể để chúng làm hại bà. Cái chính là tùy thuộc vào Gray người đang cầm chiếc chìa khóa vàng từ Long Đình. Cô đã chuyển giao toàn bộ hy vọng và lòng tin cho anh. Cô không còn sự lựa chọn nào khác.

Trong khi cô kể, Alberto vẫn ghi chép, quay lại văn phòng của gã để lấy giấy bút cùng với tấm bản đồ của Rachel. Gã gật đầu khi cô kết thúc, chứng tỏ là gã rất tin.

“Tất nhiên” Gã nói “Thật đơn giản, thật tài tình. Cuối cùng thì tôi cũng có thể tìm ra điều ấy, nhưng giờ thì cố gắng của tôi sẽ là tìm cách khám phá bí mật tiếp theo ở Avignon.”

Alberto quay lại Raoul.

Rachel sợ cứng người. Cô nhớ đến điều xảy ra lần trước. Ngay cả khi cô đã nói cho chúng sự thật về chiếc chìa khóa vàng, Raoul vẫn chặt đứt bàn tay của Monk.

“Thế ngài Verona và người Mỹ kia giờ đang ở đâu?” Alberto hỏi.

“Lần cuối cùng tôi nghe nói là họ đang đi tới Mac-xây.” Hắn nói “Bằng chuyên cơ của chúng. Tôi nghĩ chúng tuân theo điều được yêu cầu. Tiếp cận gần nhưng không được tới Italy.”

“Mac-xây chỉ cách hai mươi phút ô tô với Avignon”. Alberto chau mày. “Ngài Verona đã bắt đầu trên đường giải đáp điều bí mật. Hãy xem máy bay của ông ta đã hạ cánh chưa?”

Raoul gật đầu rồi truyền đạt mệnh lệnh đến một trong những tên thuộc hạ để tên kia lập tức chạy xuống dưới sảnh.

Rachel chậm rãi đứng dậy. “Bà ngoại tôi…” Cô nói “Liệu các ông có cho bà cụ đi không?”

Alberto vẫy tay như thể gã đã quên khuấy mất bà cụ, rõ ràng gã còn có những việc trọng đại hơn trong đầu.

Một tên khác bước tới giật chiếc dây da trên bàn đang trói bà ngoại cô. Rachel giúp bà cụ ra khỏi bàn. Nước mắt vẫn tuôn chảy.

Rachel thầm chuyển lời cầu nguyện tới Gray. Không chỉ cầu nguyện cho cô và Monk mà cũng cho cả bà của cô.

Bà cụ run rẩy đứng dậy, tựa một tay vào bàn. Cụ thò tay ra lau nước mắt của Rachel.

“Thôi, thôi nào cháu gái…Khóc thế là đủ rồi. Cũng không gì ghê gớm lắm. Bà đã trải qua những chuyện còn kinh khủng hơn.”

Rachel tí nữa bật cười. Bà của cô đang cố an ủi cô.

Vẫy Rachel lui ra một bên, bà cụ hướng về phía gã viện trưởng.

“Alberto, ngươi cũng phải thấy xấu hổ chứ”. Bà cụ mắng gã như thể đang nói với một đứa trẻ.

“Bà….” Rachel cảnh báo, đưa một cánh tay ra.

“Không thể tin rằng cháu gái ta giữ được bí mật ngay cả với ngươi” Bà cụ kiễng lên hôn má Alberto. “Ta đã bảo ngươi rằng cháu gái ta còn giỏi hơn cả ngươi mà.”

Cánh tay đang giơ ra của Rachel như đang đông cứng lại. Máu như đọng lại trong huyết quản cô.

“Thỉnh thoảng ngươi cũng phải tin một bà già, đúng không?”

“Bà luôn luôn đúng, Camilla.”

Rachel như ngưng thở.

Bà ngoại cô ra hiệu Raoul lấy tay đỡ cụ. “Còn anh nữa, anh bạn trẻ, có thể giờ thì anh đã thấy tại sao dòng máu mạnh mẽ của Long Đình cần phải được gìn giữ.” Cụ tiến lại rồi gõ lên má gã khốn khiếp ”Anh và cháu gái ta…hai người sẽ sản sinh ra những đứa trẻ tuyệt vời.”

Raoul quay lại nhìn Rachel với cặp mắt lạnh tanh chết người.

“Cháu sẽ cố hết sức.” Hắn hứa.