Đồng Đạo

Chương 28




Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Việc Paulo yêu cầu có chiếc radiô đã bị từ chối, nhưng khi nhận ra rằng đơn giản là ông chỉ muốn được nghe nhạc thì họ đã mang tới cho ông một cái máy ghi âm cũ kỹ và hai cuộn băng của Dàn nhạc Hội những người yêu nhạc Rio. Nhạc cổ điển là thứ ông yêu thích. Paulo mở nhỏ vừa đủ nghe và lật qua đám tạp chí cũ, trong khi yêu cầu của ông về sách vở còn đang được xem xét. Đồ ăn, cho đến lúc này, là quá đủ; có vẻ như họ muốn làm cho ông được vui lòng. Những kẻ cầm giữ ông là những người còn trẻ tuổi, làm việc cho ai đó mà Paulo biết là ông sẽ không bao giờ thấy mặt được. Thực tế là nếu như họ có thả ông ra, đám trai trẻ này sẽ trốn biệt và không bao giờ có thể tính tới chuyện truy tố ai.

Ngày thứ hai của ông trôi qua chậm chạp. Eva quá khôn ngoan để không lao vào cái bẫy của họ. Một ngày nào đó, điều này sẽ là có ý nghĩa. Và ông sẵn sàng chờ đợi chừng nào bọn họ có thể chờ đợi.

oOo

Ông Thẩm phán mang theo sẵn một chiếc bánh pizza trong lần đến thăm thứ hai. Karl Huskey thích thú với lần gặp trước đến mức đã gọi cho Patrick từ hồi chiều để xem họ có thể gặp lại hay không. Patrick thì đang rất muốn có bạn.

Huskey lấy từ trong cái cặp nhỏ của mình ra một xấp thư và quẳng lên bàn làm việc của Luật sư Lanigan. “Nhiều người, hầu hết số ở tòa án, muốn gửi lời chào. Tôi bảo họ rằng họ có thể viết cho anh.”

“Tôi đã không nhận ra là mình còn có nhiều bạn bè đến thế đấy.”

“Dĩ nhiên. Những tay cạo giấy này có quá nhiều thời giờ để viết thư. Đó gần như là những gì nhiều nhất mà họ có thể làm được.”

“Cảm ơn.”

Huskey kéo ghế lại gần giường Patrick và gác chân lên miệng ngăn kéo vẫn đang để chìa ra của cái bàn đêm. Patrick vừa xơi gần hai miếng pizza, và lúc nãy đã ngừng ăn.

“Tôi sắp phải chính thức khước từ xét xử vụ này đấy,” Huskey nói với vẻ gần như là xin lỗi.

“Tôi biết.”

“Sáng nay, tôi đã nói chuyện khá lâu với Trussel. Tôi biết là anh không thích thú gì ông ta, nhưng mà ông ta là một thẩm phán giỏi. Ông ta sẵn lòng nhận vụ này."

“Tôi muốn Thẩm phán Lanks.”

“Biết thế, nhưng rủi là không thể được. Lanks có rắc rối về huyết áp, và chúng tôi đã cố để ông ấy không phải xử các vụ lớn. Anh biết đấy, Trussel còn nhiều kinh nghiệm hơn cả Lanks và tôi cộng lại, đặc biệt là trong những án tử hình.”

Patrick hơi sững người, hai mắt đột nhiên nhíu lại và đôi vai thoáng trĩu xuống khi ông bạn già nói hết câu đó. Một án tử hình. Điều đó làm hắn chết lặng, giống như bao nhiêu lần khác, mỗi khi hắn đứng lâu lâu trước gương. Huskey không bỏ sót một chi tiết nhỏ bé nào. Như người ta thường nói, bất kỳ ai cũng có khả năng trở thành một kẻ sát nhân, và Huskey đã từng nói chuyện với nhiều kẻ đó trong mười hai năm làm thẩm phán. Tuy nhiên, Patrick lại là người bạn đầu tiên của ông phải đứng trước một cái án tử hình.

“Sao ông lại toan nghỉ hưu thế ?” Patrick hỏi.

“Những lý do thông thường thôi. Tôi đã mệt mỏi rồi, và nếu không ra đi bây giờ thì sẽ chẳng bao giờ còn có thể làm được điều đó. Bọn trẻ con sắp đến lúc vào đại học, và tôi cần phải làm ra nhiều tiền hơn.” Huskey ngừng lại một giây, rồi hỏi, “Xin tò mò một chút, làm sao mà anh biết là tôi đang toan nghỉ hưu hả ? Tôi đã có tuyên bố gì đâu.”

“Tin đồn khắp ấy mà.”

“Tới tận Braxin ư ?”

“Tôi có gián điệp, Karl.”

“Ai đó ở đây à ?”

“Không. Đương nhiên là không. Tôi đâu dám liều lĩnh tiếp xúc với bất kỳ ai ở đây.”

“Vậy là ai đó ở Braxin phải không ?”

“Phải, một luật sư mà tôi đã gặp.”

“Và anh đã nói với anh ta mọi chuyện ư ?”

“Cô ta. Phải, tôi đã nói tất cả.”

Huskey gõ gõ những ngón tay, và nói, “Chuyện có vẻ hay đấy ”

“Tôi xin có lời khuyên là lần sau thì tới lượt ông hãy trốn tới đó.”

“Tôi sẽ nhớ lời khuyên này. Cô luật sư đó hiện giờ ở đâu ?”

“Quanh đâu đây thôi, tôi nghĩ vậy.”

“Giờ thì tôi hiểu. Cô ấy phải là người giữ chỗ tiền kia.”

Patrick cười vang. Sau cùng thì tảng băng đã tan. “Ông muốn biết về chỗ tiền đó hả, Karl?”

“Tất tật. Anh đã đánh cắp nó như thế nào ? Hiện nó ở đâu ? Còn lại được bao nhiêu ?”

“Ông đã nghe được những gì ở tòa án hả ?”

“Trời, cả trăm thứ tin đồn. Nhưng tôi thích nhất là cái tin nói rằng anh đã nhân đôi được số tiền đó lên và cất giấu nó trong các nhà băng ở Thụy Sĩ, và rằng anh đang nhàn cư ở Braxin, và trong ít năm nữa anh sẽ không còn việc gì để làm ngoài việc chơi với cái đống tiền của mình.”

“Nghe cũng được đấy.”

“Có nhớ Bobby Doak, cái con chồn mặt rỗ chuyên lo các vụ ly hôn với giá chín mươi chín đôla và bực bội với bất kỳ ai đòi hơn cái giá đó không ?”

“Rồi, tay đó quảng cáo cả trong các bản tin của nhà thờ.”

“Chính hắn ta. Ngày hôm qua, hắn ngồi uống cà phê trong phòng thư ký và ba hoa về chuyện hắn được nghe một nguồn tin tay trong nói rằng anh đã phung phí số tiền đó vào ma túy và những cô gái làng chơi trẻ tuổi, và đó là lý do vì sao anh đã phải sống như một gã nông dân ở Braxin.”

"Doak thì thế thật."

Phút thoải mái qua nhanh và Patrick bắt đầu im lặng. Huskey không chịu để lỡ cơ hội. “Vậy chỗ tiền đó đang ở đâu ?”

“Tôi không thể nói được, Karl.”

“Còn lại bao nhiêu ?"

“Một tấn.”

“Nhiều hơn số mà anh đã đánh cắp chứ ?”

“Nhiều hơn số mà tôi đã lấy đi, đúng thế.”

“Anh đã làm thế nào ?"

Patriek tung chân ra khỏi giường, đi ra cửa. Cửa vẫn đóng kín. Hắn vươn vai, duỗi chân, và vớ cái chai nước lên tu một ngụm. Thế rồi hắn ngồi xuống mép giường và nhìn thẳng vào Karl.

“Tôi đã gặp may,” hắn nói, gần như thầm thì. Nhưng Karl vẫn nghe rõ từng âm một. “Tôi sẽ vẫn ra đi, Karl, dù có hay không có chỗ tiền ấy. Tôi biết là tiền đang được chuyển đến Hãng, và tôi đã lên một kế hoạch để chiếm lấy. Thế nhưng, nếu như chuyện không thành thì tôi cũng sẽ vẫn ra đi. Tôi không thể chịu thêm một ngày với Trudy. Tôi không ưa cái công việc của mình, và dù sao chăng nữa thì tôi cũng sắp bị Hãng đuổi ra đường. Bogan và những kẻ ở đó đang mưu toan một vụ lừa đảo lớn, và tôi là người bên ngoài duy nhất biết điều đó.”

“Lừa đảo nào ?”

"Tố cáo của Aricia. Chúng ta sẽ nói chuyện đó sau. Bởi vậy tôi đã từ từ tính toán việc ra đi của mình, và tôi đã gặp may. Vận may đã theo bên tôi cho tới cách đây hai tuần. May mắn đến không thể tin nổi.”

“Chúng ta đã nói tới cái lễ an táng kia.”

“Phải. Tôi đã trở lại cái căn hộ nhỏ mà tôi thuê ở Orange Beach. Tôi ở đó một vài ngày, ở tịt trong nhà, nghe băng để ôn lại vốn tiếng Bồ Đào Nha. Tôi cũng dành ra nhiều thời giờ để sắp xếp lại những câu chuyện mà tôi đã ghi lại được ở văn phòng Hãng. Có rất nhiều tư liệu cần sắp xếp lại, và tôi đã phải làm việc cật lực. Ban đêm, tôi đi dạo hàng giờ trên bờ biển, tập cho đến toát mồ hôi để cố làm giảm cân càng nhiều càng tốt. Tôi đã gần như không ăn uống gì.”

“Những tư liệu gì vậy ?”

“Hồ sơ về Aricia. Trước kia, tôi vốn biết vài điều cơ bản về tầu bè và đột nhiên thấy mình cần phải trở thành một thủy thủ cừ. Tôi bèn thuê một chiếc thuyền, và ngay lập tức tôi đã lênh đênh ẩn náu trên mặt nước.”

“Ở đây ư ?"

“Phải. Tôi thường thả neo gần đảo Ship, và ngắm bờ biển Biloxi.”

“Vì sao ?”

“Tôi đã gắn thiết bị nghe trộm ở văn phòng Hãng. Karl. Tất cả các điện thoại, các bàn làm việc, trừ của Bogan. Tôi còn đặt cả một micrô trong phòng vệ sinh nam nằm giữa phòng Bogan và phòng Vitrano ở tầng một. Các micrô này truyền tín hiệu tới một ăngten giấu trên căn áp mái. Cái máy thu ở đó sẽ lại phát tín hiệu tới môt ăngten chảo đường kính cỡ gần ba chục phân mà tôi đặt trên thuyền. Bộ thiết bị này là thứ hiện đại, kỹ thuật cao. Tôi mua nó trên thị trường đen ở Rôm, tốn khá nhiều tiền đấy. Với ống nhòm, tôi có thể thấy cái ống khói trên nóc tòa nhà của Hãng, và các tín hiệu được thu rất dễ dàng. Mọi cuộc trò chuyện trong tầm thu của một micrô nào đó đều được chuyển ra thuyền cho tôi. Tôi ghi tất cả, rồi ban đêm thì sắp xếp lại. Tôi biết họ ăn trưa ở đâu và tâm trạng các bà vợ của họ thế nào. Tôi biết tất cả.”

“Thật không thể tin nổi.”

“Ông cần phải được nghe họ đã cố tỏ ra trịnh trọng thế nào sau tang lễ của tôi. Trên điện thoại, khi nhận những những lời chia buồn, họ tỏ thái độ ủ ê thích hợp. Thế nhưng sau đó, họ đã đùa cợt về cái chết của tôi. Cái chết đó giúp họ tránh được một cuộc đối đầu bẩn thỉu với tôi. Bogan đã được chọn làm ngưòi thông báo cho tôi rằng tôi bị buộc thôi việc ở Hãng. Ngày hôm sau đám tang, ông ta và Havarac đã uống rượu Scotch với nhau trong phòng họp và cười cợt về việc tôi đã may mắn được chết vào một thời điểm thích hợp đến thế."

“Anh có giữ những cuộn băng đó không ?”

“Tất nhiên. Nghe này. Tôi còn có cuộn băng ghi lại cuộc nói chuyện giữa Trudy và Doug Vitrano, trong phòng làm việc cũ của tôi, chỉ vài giờ trước cái lễ tang kia, khi họ mở tủ của tôi và bất ngờ tìm thấy cái bản hợp đồng bảo hiểm sinh mạng trị giá hai triệu đôla. Điều đáng vui đấy chứ. Trudy đã mất tới hai mươi giây mới cất tiếng nổi, "Khi nào thì tôi lấy được số tiền này hả ?"

“Lúc nào thì tôi có thể được nghe chúng ?”

“Tôi chưa biết, sắp thôi. Có hàng trăm cuộn băng. Công việc biên tập lại mất mười hai giờ một ngày trong vài tuần lễ liền. Ông thử tưởng tượng tới tất cả những cú điện thoại mà tôi đã phải nghe xem.”

“Có lúc nào họ nghi ngờ không ?”

“Có lẽ là không. Rapley có một lần nói với Vitrano rằng thời điểm mà tôi chết thật đáng kinh ngạc, bởi lẽ tôi mới chỉ mua bảo hiểm sinh mạng với khoản bồi thường hai triệu trước đó có tám tháng trời. Và có một hay hai lời bình luận đó về những biểu hiện hơi lạ lùng của tôi, nhưng toàn là vô bổ. Họ đã quá vui mừng rằng tôi đã không làm vướng lối của họ nữa.”

“Anh có nghe trộm điện thoại của Trudy không ?”

“Tôi đã nghĩ tới chuyện đó, nhưng mà mua việc làm gì ? Lối cư xử của cô ta là có thể đoán trước. Cô ta không có ích gì cho tôi cả.”

“Nhưng Aricia thì có thể.”

“Chắc chắn rồi. Tôi biết mọi nước đi của họ trong vụ Aricia. Tôi biết là khoản tiền kia đang được chuyển ra nước ngoài. Tôi biết rõ nhà băng nào và bao giờ thì tiền sẽ được chuyển đến.”

“Vậy làm sao mà anh đã đánh cắp được nó ?”

“Cũng lại nhờ rất nhiều may mắn. Mặc dù Bogan là người quyết định, nhưng Vitrano làm hầu hết chuyện giao dịch với các chủ nhà băng. Tôi đã bay tới Miami với một bộ giấy tờ giả, theo đó tôi là Doug Vitrano. Tôi có số thẻ bảo hiểm xã hội của ông ta và những tư liệu thiết yếu khác nữa. Cái thằng cha làm giấy tờ giả cho tôi đó có một bộ sưu tập hàng trăm khuôn mặt đặt sẵn trong máy tính và ông chỉ cần cho biết ông thích khuôn mặt nào, vậy thôi, thế là khuôn mặt đó lập tức có trên cái bằng lái xe của ông. Tôi đã chọn một khuôn mặt hao hao cả tôi và Vitrano. Từ Miami, tôi bay tới Nassau, và đó là nơi khó khăn nhất. Tôi tới nhà băng Ngân hàng liên hiệp xứ Wales. Tay chủ chốt mà Vitrano đã có liên hệ tên là Graham Dunlap. Tôi chìa tất cả những thứ giấy tờ giả mạo của mình ra, kể cả một nghị quyết của hội đồng cổ đông, trên giấy có tiêu đề của Hãng hẳn hoi, theo đó tôi có bổn phận chuyển số tiền đó đi nơi khác ngay khi vừa nhận được. Dunlap không ngờ là đích thân ngài Vitrano đến và rất ngạc nhiên, thậm chí là sửng sốt với việc Hãng cử người tới tận nơi chỉ vì một việc rất thông thường như vậy. Ông ta pha cà phê mời tôi và còn bảo cô thư ký mang bánh ngọt tới nữa. Tôi đang ăn bánh ngay trong phòng làm việc của ông ta thì bức điện chuyển tiền kia được gửi tới.”

“Ông ta không hề nghĩ tới việc gọi điện cho Hãng à?”

“Không. Và nghe này, Karl, tôi đã sẵn sàng chuồn ngay. Nếu như Dunlap có mảy may ngờ vực, hẳn là tôi sẽ phải xử lý ông ta, chạy ra khỏi nhà băng, lên tăcxi và lao ra sân bay. Tôi đã có sẵn trong túi mình ba chiếc vé cho ba chuyến bay khác nhau.”

“Liệu anh sẽ đi đâu được ?”

“Trời ạ, nên nhớ rằng tôi vẫn đang là người chết cơ mà. Có thể là tới Braxin. Tôi sẽ kiếm một việc làm chẳng hạn như pha rượu ở quầy bar và dành phần cuộc đời còn lại của mình trên những bãi biển. Tóm lại, kể cả không lấy được tiền thì tôi cũng vẫn cứ đi. Thế nhưng tôi đã lấy được, và họ bắt đầu truy đuổi. Bởi vậy mà lúc này tôi lại đang ở đây. Dù thế nào chăng nữa thì Dunlap cũng đã có những câu hỏi chính đáng và tôi đã trả lời trôi chảy. Ông ta xác nhận là điện chuyển tiền đã đến, và ngay lập tức tôi cho chuyển nó di, tới một nhà băng ở Manta.”

“Tất cả à ?”

“Gần như là tất cả. Dunlap hơi lưỡng lự một chút khi nhận ra rằng tất cả chỗ tiền đó đang rời khỏi nhà băng của mình. Tôi hồi hộp kinh khủng. Ông ta nhắc gì đó về khoản phí cho dịch vụ dành cho ngân hàng mình và tôi hỏi thông thường là bao nhiêu. Ông ta lập tức trở thành một con cáo ranh mãnh, nói rằng năm mươi nghìn sẽ là thích hợp, và tôi đã đồng ý. Năm mươi nghìn đôla đã được để lại trong tài khoản và sau đó được chuyển sang cho Dunlap. Cái nhà băng đó nằm ở trung tâm Nassau ...”

“Từng ở trung tâm Nassau. Sáu tháng sau khi bị anh cướp mất khoản tiền đó, nó đã đóng cửa.”

“Phải, tôi có nghe nói. Thật đáng tiếc. Bước ra khỏi nhà băng, khi chân tôi đã chạm xuống mặt hè phố thì thật là phải cố lắm mới khỏi chạy như một người điên. Tôi những muốn hét váng lên và bay từ phố này qua phố khác, nhưng đã kiềm chế được. Tôi nhảy lên một chiếc tăcxi, nói với người tài xế rằng tôi đang rất vội. Chuyến bay đi Atlanta cất cánh sau đó một giờ. Chuyên Miami thì phải chờ một giờ rưỡi. Chuyến La Guardia thì đang đón hành khách lên, vậy là tôi bay đi New York.”

“Với chín mươi triệu đôla.”

“Trừ năm mươi nghìn cho Dunlap. Đó là chuyến bay dài nhất trong đời tôi, Karl. Tôi làm ba ly Martini và vẫn không cảm thấy gì ngoài sự hồi hộp. Cứ nhắm mắt là tôi lại thấy các nhân viên hải quan với những khẩu tiểu liên đang đợi sẵn tại cửa ra. Tôi cứ nghĩ là Dunlap đã trở nên ngờ vực và đã gọi điện cho Hãng, và bằng cách nào đó họ đã lần theo tôi được tới sân bay và biết tôi đang ở trên chuyến bay đó. Cả đời, chưa bao giờ tôi lại bám lấy khoang máy bay đến thế. Một ánh đèn máy ảnh nhoáng lên khi tôi bước ra đến khu vực cửa đón, và tôi nghĩ, thế là hết ! Họ vồ được mình rồi ! Hóa ra đó là một đứa trẻ với chiếc máy điện tử. Tôi thực sự là đã lao vội vào phòng vệ sinh, và ngồi trong toalét tới hai mươi phút. Cạnh chân tôi là cái túi bạt với tất cả tài sản của mình.”

“Đừng có quên chín mươi triệu đôla kia.”

“Phải.”

“Số tiền đó đã được chuyển đến Panama như thế nào ?"

“Làm sao mà ông biết là nó đã được chuyển đến Panama cơ chứ ?”

“Tôi là thẩm phán, Patrick. Cảnh sát đã nói với tôi. Đây là một thành phố nhỏ mà.”

“Chỉ thị chuyển tiền đã được đưa ra từ Nassau. Chỗ tiền đó được chuyển đến một tài khoản mới ở Manta, rồi nhanh chóng được chuyển tiếp tới Panama.”

“Sao anh lại thành thạo cái việc chuyển tiền đó đến thế ?"

“Cũng phải nghiên cứu chút ít. Tôi đã tìm hiểu vấn đề này trong một năm. Karl, hãy cho tôi biết ông nghe được tin về vụ mất tiền đó vào khi nào vậy ?”

Karl cười phá lên và ngả người ra. Ông ta chắp hai tay ra sau gáy. “Trời, các bạn bè của anh ở Hãng đã không giấu nổi cái vụ làm ăn kia của họ.”

“Tôi ngạc nhiên đấy.”

“Thực tế là cả thành phố biết họ sắp giàu to. Họ rất nghiêm chỉnh trong việc giữ bí mật thế nhưng lại tiêu tiền như phá. Havarac mua một chiếc Mercedes đen nhất và lớn nhất từng được sản xuất ra từ trước tới nay. Tay kiến trúc sư của Vitvano thì đang bước vào giai đoạn cuối cùng của việc thiết kế ngôi nhà mới cho họ — rộng hàng nghìn mét vuông. Rapley ký hợp đồng mua một chiếc thuyền buồm dài hai mươi lăm mét, nói rằng ông ta đang tính tới chuyện nghỉ hưu. Tôi có nghe nói đôi lần tới chuyện họ toan mua cả một chiếc máy bay phản lực riêng nữa cơ. Quanh đây thì khó mà giấu được cái khoản thù lao ba mươi triệu đôla kia lắm, mà họ cũng chẳng thực sự muốn giấu. Họ còn rất muốn người ta biết cơ mà.”

“Quả là thế thật.”

“Anh làm vụ đó vào một ngày thứ năm, đúng không nào ?"

“Đúng. Ngày 26 tháng Ba.”

“Ngày hôm sau, tôi đang chuẩn bị tiến hành xử vụ án dân sự thì một trong số các luật sư nhận được một cú điện thoại từ văn phòng Hãng. Đó là tin có trục trặc trong vụ làm ăn lớn tại Hãng Bogan, Rapley, Vitrano, Havarac và Lanigan. Chỗ tiền đó đã biến mất. Tất cả. Bị đánh cắp ở nước ngoài.”

“Người ta có nhắc đến tên tôi không ?”

“Ngày đầu thì không. Nhưng cũng chẳng bao lâu sau. Có tin nói rằng các camêra bảo vệ ở nhà băng đã ghi lại được hình ai đó hơi giống với anh. Thế rồi người ta thêm mắm thêm muối, và rồi tin này loang ra khắp thành phố.”

“Ông có tin là tôi đã gây ra vụ đó không ?”

“Lúc đầu, tôi quá kinh ngạc đến mức không tin bất cứ chuyện gì. Tất cả chúng tôi đều thế cả. Chúng tôi đã chôn cất anh, đã cầu nguyện. Không thể nào tin được. Thế nhưng, vài ngày trôi qua, cơn sốc qua đi và các lời giải hình thành. Bản di chúc mới, hợp đồng bảo hiểm sinh mạng, cái thi thể bị thiêu rụi - chúng tôi bắt đầu ngờ ngợ. Thế rồi họ phát hiện ra rằng cái văn phòng của Hãng luật đầy những thiết bị nghe trộm. FBI thẩm vấn tất cả những người ở quanh đây. Một tuần sau thì hầu hết mọi người đều tin rằng anh đã gây ra vụ đó.”

“Ông có tự hào về tôi không ?”

“Tôi sẽ không nói là tôi tự hào. Có lẽ là kinh ngạc. Hoặc là sửng sốt. Dù thế nào thì cũng còn một cái xác chết ở đó kia mà. Thế rồi, tôi đã bàng hoàng cả người.”

“Không một chút ngưỡng mộ nào ư ?”

“Tôi nhớ là không có cảm giác đó, Patrick. Không, một người vô tội đã bị giết hại để anh có thể đánh cắp số tiền kia. Bên cạnh đó, anh còn bỏ lại một người vợ và một đứa con gái.”

“Người vợ thì đã được một khoản kếch xù. Đứa trẻ thì không phải con tôi.”

“Lúc đó tôi đâu có biết vậy. Không một ai biết. Không, tôi không nghĩ là có ai ngưỡng mộ anh cả.”

“Đám cổ đông của Hãng thì sao ?”

“Không ai nhìn thấy họ trong mấy tháng ròng. Họ bị Aricia kiện. Tiếp theo đó còn những khiếu kiện khác nữa. Họ đã tiêu xài quá mức, đi đến chỗ phá sản. Những vụ ly dị, rượu chè, thật kinh khủng. Họ đã tự hủy diệt, như trong các cuốn tiểu thuyết vậy.”

Patrick leo lên giường và ngồi khoanh chân. Hắn cười một cách cay độc. Huskey đứng dậy đi đến bên cửa sổ. “Anh đã ở New York trong bao lâu ?” Ông vừa hỏi vừa nhìn qua khe tấm rèm cửa.

“Chừng một tuần. Tôi không muốn để một đồng trong số tiền đó quay lại Mỹ, bởi vậy tôi đã thu xếp chuyển nó tới một nhà băng ở Toronto. Cái nhà băng ở Panama kia là một chi nhánh của Ngân hàng Ontario, bởi vậy tôi cần bao nhiêu thì chuyển bấy nhiêu rất dễ dàng.”

“Anh bắt đầu ăn tiêu chứ ?”

“Không nhiều. Vào lúc đó, tôi đang làm một công dân Canada, với giấy tờ hoàn hảo, một người từ Vancouver chuyển tới. Tôi mua một căn hộ nhỏ và làm thẻ tín dụng. Tôi tìm một thầy dậy tiếng Bồ Đào Nha và học sáu giờ đồng hồ một ngày. Tôi đi châu Âu mấy bận để tấm hộ chiếu của tôi được sử dụng và được kiểm chứng. Mọi thứ đều ngon lành cả. Sau ba tháng, tôi rao bán cái căn hộ đó và đi Litxbon, học tiếng ở đó thêm vài tháng nữa. Rồi vào ngày 5 tháng Tám năm 1992, tôi bay đi São Paulo.”

“Bắt đầu những ngày tự do của anh.”

“Hoàn toàn tự do, Karl. Tôi xuống tới thành phố đó với hai cái túi nhỏ. Ngồi lên một chiếc tăcxi và, rất nhanh, tôi biến mất vào trong cái biển hai mươi triệu con người ở đó. Trời mưa và tối, tắc đường, và tôi ngồi trong cái xe tăcxi đó, tự nhủ rằng không ai trên thế giới này có thể biết tôi đang ở đâu. Đó là một sự tự do tuyệt đối, không hề bị câu thúc gì hết. Tôi nhìn ngắm gương mặt của những người đang vội vã đi lại hai bên đường phố, và nghĩ rằng từ lúc này trở đi mình cũng sẽ là một người trong số họ. Tôi, lúc bấy giờ, là một công dân Braxin tên là Danilo, và tôi sẽ không bao giờ là bất kỳ ai khác nữa.”