Emily Trên Dải Cầu Vồng

Chương 24: Thung lũng ảo mộng




Liệu cô có tới New York cùng cô Royal không? Đây chính là câu hỏi mà bây giờ Emily phải đưa ra câu trả lời. Hay nói đúng hơn, câu hỏi mà bà Elizabeth phải đưa ra câu trả lơi. Vì, như Emily cảm nhận được, hết thảy mọi vấn đề đều phụ thuộc vào câu trả lời của bà Elizabeth. Và cô không thật lòng hy vọng bà Elizabeth sẽ cho phép cô đi. Emily có thể khát khao mơ ước đến những đồng cỏ xa xăm thú vị xanh tươi mơn mởn mà cô Royal đã vẽ nên, nhưng cô cũng khá chắc chắn rằng cô chẳng bao giờ có thể nhấm nháp cỏ trên đó được. Lòng kiêu hãnh – và cả định kiến – của nhà Murray sẽ là một rào chắn không thể vượt qua.

Emily không nói gì với bà Ruth về đề nghị của cô Royal. Bà Elizabeth có quyền được là người đầu tiên nghe tin này. Cô giữ kín bí mật sáng chói này cho tới tận kỳ nghỉ cuối tuần, khi cô Royal tới Trăng Non, rất lịch thiệp vui vẻ, và chỉ phảng phất chút xíu xiu vẻ kẻ cả, để đề nghị bà Elizabeth cho phép Emily đi cùng cô.

Bà Elizabeth im lặng lắng nghe – sự im lặng phản đối, theo như cảm nhận của Emily.

“Phụ nữ nhà Murray không bao giờ phải làm lụng kiếm sống,” bà lạnh lùng nói.

“Công việc này không hẳn là ‘làm lụng’ như bà nói đâu, bà Murray yêu quý,” cô Royal nói, với thái độ kiên nhẫn đầy lịch sự mà ắt hẳn người ta vẫn dùng với một quý bà mang theo cách nhìn của thế hệ đi trước. “Ở khắp mọi nơi, hàng nghìn phụ nữ vẫn đang bước vào đời sống nghề nghiệp và có công ăn việc làm.”

“Có lẽ họ sẽ chẳng gặp phải vấn đề gì nếu họ không xây dựng gia đình,” bà Elizabeth nói.

Cô Royal hơi đỏ mặt. Cô biết rõ trong cộng đồng Hồ Blair và Shrewsbury, cô vẫn bị coi là bà cô già, và bởi vậy là một người thất bại, bất kể thu nhập của cô là bao nhiêu và cô có vị trí như thế nào ở New York. Nhưng cô cố gắng giữ bình tĩnh và thử tấn công theo cách khác.

“Emily có năng khiếu viết lách đặc biệt,” cô nói. “Cháu cho là nếu được trao cơ hội, cô bé có thể làm được điều gì đó thực sự đáng giá. Cô bé phải được trao cho cơ hội, bà Murray ạ. Bà biết rõ rằng ở đây, sẽ chẳng có bất kỳ cơ hội nào cho kiểu công việc như thế.”

“Năm ngoái, Emily đã kiếm được chín mươi đô la bằng ngòi bút của mình,” bà Elizabeth nói.

“Lạy trời giữ cho tôi được kiên nhẫn!” cô Royal nghĩ. Cô Royal nói, “Vâng, và mười năm nữa, cô ấy có thể kiếm được vài trăm đô, nhưng ngược lại, nếu cô ấy đi cùng cháu, trong vòng mười năm nữa, thu nhập của cô ấy có thể lên đến hàng bao nhiêu nghìn đô la.”

“Ta phải suy nghĩ cẩn thận đã,” bà Elizabeth nói.

Emily không ngờ bà Elizabeth lại bằng lòng suy nghĩ cẩn thận vấn đề này. Cô những tưởng sẽ phải nhận sự từ chối dứt khoát.

“Bác ấy sẽ thay đổi ý kiến cho xem,” cô Royal thì thầm trên đường ra về. “Rồi cô sẽ có được cháu, Emily Bryd Starr yêu dấu ạ. Cô hiểu quá rõ những ông bà già Murray ấy. Họ luôn luôn biết cách nắm bắt cơ hội. Bác cháu sẽ cho cháu đi thôi.”

“Cháu e là không đâu ạ,” Emily rầu rĩ nói.

Khi cô Royal đã về, bà Elizabeth nhìn Emily.

“Cháu có muốn đi không, Emily?”

“Có ạ... cháu nghĩ vậy... nếu bác bằng lòng,” Emily ngập ngừng. Cô trắng bệch như tờ giấy... cô không nài nỉ cũng chẳng ngon ngọt dỗ dành. Nhưng cô không hy vọng gì... không một chút nào.

Bà Elizabeth mất một tuần suy nghĩ kỹ càng mọi chuyện. Bà gọi bà Ruth, ông Wallace và ông Oliver đến hỗ trợ. Bà Ruth nói bằng giọng ngờ vực,

“Tôi ngờ là chúng ta phải để con bé đi thôi. Đây là cơ hội tuyệt vời đối với nó. Cũng đâu phải con bé đi một mình... tôi sẽ không đời nào tán thành chuyện đó. Janet sẽ chăm sóc con bé.”

“Con bé còn quá nhỏ... con bé còn quá nhỏ,” ông Oliver nói.

“Có vẻ như đây là một cơ hội tốt dành cho con bé... nghe nói Janet Royal xoay xở tốt lắm,” ông Wallace nói.

Bà Elizabeth thậm chí còn viết thư cho bà cô Nancy. Câu trả lời quay trở về trong dòng chữ viết tay run run của bà cụ:

“Có lẽ các cô cậu nên để Emily tự mình quyết định,” cụ Nancy đề xuất.

Bà Elizabeth gấp bức thư của bà cô Nancy lại và gọi Emily vào phòng khách.

“Nếu muốn, cháu có thể đi với cô Royal,” bà nói. “Ta cảm thấy nếu ta cản trở cháu thì thật không phải. Chúng ta sẽ nhớ cháu... chúng ta vẫn muốn cháu ở cạnh chúng ta thêm vài năm nữa. Ta chẳng biết gì về New York. Ta nghe nói đó là một thành phố tội lỗi. Nhưng cháu đã được nuôi dạy tử tế. Ta sẽ trao quyền quyết định cho cháu. Laura, cô khóc lóc cái gì vậy hả?”

Emily có cảm giác chính mình cũng sắp òa khóc đến nơi. Ngạc nhiên thay, cảm giác mà cô cảm thấy lại không phải là sự nhẹ nhõm hay vui vẻ. Khát khao những bãi cỏ bị cấm đoán là một chuyện. Nhưng dường như khi hàng rào chắn đã bị hạ xuống và bạn được thông báo cứ tùy ý mà bước vào thì lại là chuyện khác.

Emily không lập tức lao về phòng để viết một bức thu tràn ngập niềm vui sướng cho cô Royal – lúc này đang đi thăm hỏi bạn bè ở Charlottetown. Thay vào đó, cô bước ra ngoài vườn suy nghĩ rất lung – suốt cả chiều hôm đó và cả ngày Chủ nhật. Trọn kỳ nghỉ cuối tuần ở Shrewsbury, cô luôn trầm ngâm lặng lẽ, ý thức rất rõ bà Ruth đang gắt gao quan sát cô. Vì lý do nào đó, bà Ruth không thảo luận vấn đề này cùng cô. Có lẽ bà đang nghĩ đến Andrew. Hoặc có lẽ gia đình Murray đã đạt được một sự thấu hiểu chung rằng phải làm sao để quyết định của Emily hoàn toàn không phải chịu bất kỳ tác động từ bên ngoài nào.

Emily không hiểu tại sao cô lại không viết thư cho cô Royal ngay lập tức. Tất nhiên cô sẽ đi. Chẳng phải có họa ngốc nghếch hết thuốc chữa thì mới không đi hay sao? Cô sẽ không bao giờ còn có cơ hội nhe thế nữa. Đó là một cơ hội chói lòa đến thế... mọi thứ đều trở nên dễ dàng... Đường Alps chỉ còn là một con dốc bằng phẳng hơi thoai thoải; thành công chắc chắn, chói lóa và nhanh chóng. Vậy thì, tại sao cô lại cứ phải liên tục tự nhủ với mình hết thảy những điều này; tại sao cô lại định đến xin lời khuyên của thầy Carpenter vào cuối tuần sau đó? Và thầy Carpenter cũng chẳng giúp được gì nhiều nhặn. Thầy bị thấp khớp và quạu quọ.

“Đừng có nói với ta là lũ mèo lại đang đi săn đấy nhé,” thầy rên rỉ.

“Không đâu ạ. Lần này con không mang bản thảo nào đến hết,” Emily nói kèm nụ cười yếu ớt. “Con đến xin lời khuyên về một vấn đề khác.”

Cô nói với thầy về tình trạng bối rối của cô.

“Đây là một cơ hội tuyệt vời,” cô kết luận.

“Tất nhiên đây là một cơ hội tuyệt vời... đi đi rồi biến chất thành dân Mỹ,” thấy Carpenter gầm gừ.

“Con sẽ không bị biến chất thành người Mỹ,” Emily phẫn nộ đáp lại. “Cô Royal đã ở New York hai mươi năm rồi, thế nhưng cô ấy có bị biến chất thành người Mỹ đâu.”

“Cô ấy không bị hả? Ta không nói biến chất thành dân Mỹ theo cái ý mà trò hiểu,” thấy Carpenter phản bác. “Ta không nhắc đến những đứa con gái ngu ngốc khăn gói đến ‘Hợp chủng quốc’ để làm việc rồi sáu tháng sau quay trở lại cùng chất giọng đủ khiến cho người ta bỏng rộp cả da. Janet Royal đã biến chất thành người Mỹ rồi; quan điểm, thần thái và phong cách của cô ấy đều đậm chất Mỹ. Và ta không chỉ trích gì chuyện đó hết; tất cả những điều đó đều ổn cả. Nhưng... cô ấy không còn là người Canada nữa; trong khi đó lại là điều ta mong muốn ở trò – vĩnh viễn là một người Canada thuần chất, làm được gì đó cho nền văn học của Tổ quốc trò, gìn giữ chất giọng và hương vị Canada của trò. Nhưng tất nhiên nếu thế thì sẽ không có nhiều đô la cho lắm.”

“Ở đây thì chẳng có cơ hội để làm bất kỳ điều gì hết,” Emily tranh luận.

“Không có... không nhiều hơn những cơ hội có được ở ngôi nhà Haworth[1],” thầy Carpenter gầm gừ.

[1] Nơi sinh sống của ba chị em nhà Bronte, cũng là nơi các bà sáng tác những tác phẩm nổi tiếng trên toàn thế giới như Đồi gió hú, Jane Eyre.

“Con không phải một Charlotte Bronte,” Emily phản bác. “Bà ấy là thiên tài... thiên tài có thể một mình vẫn đứng vững. Con chỉ có chút năng khiếu... năng khiếu cần được giúp đỡ... và... và... dẫn dắt.”

“Tóm lại là lôi kéo,” thầy Carpenter nói.

“Vậy theo ý thầy con không nên đi,” Emily lo lắng nói.

“Nếu trò muốn thì cứ đi đi. Đề đạt được sự nổi tiếng nhanh chóng thì tất cả chúng ta đều phải hạ mình đôi chút. Ôi chao, đi đi... đi đi... ta đang bảo trò thế đấy. Ta đã quá già để mà tranh luận rồi; cứ bình an mà đi đi thôi. Trò mà không đi thì đúng là kẻ ngốc... chỉ có điều... kẻ ngốc thỉnh thoảng cũng thành công đấy. Có một Thượng đế đặc biệt dành cho họ, chắc chắn rồi.”

Emily rời khỏi ngôi nhà nhỏ giữa thung lũng lòng chảo đó, đôi mắt có phần tối hơn bình thường. Trên đường lên đồi, cô gặp Già Kelly và ông bèn dừng con ngựa mập mạp cùng cỗ xe màu đỏ lại rồi vẫy tay ra hiệu vời cô.

“Cô gái yêu quý, có một ít bạc hà cho cháu này. Mà này, chẳng phải đã đến lúc... ờ... này, cháu biết đấy...” Già Kelly nháy mắt với cô.

“Ôi, cháu sắp thành bà cô già rồi, già Kelly ạ,” Emily mỉm cười.

Già Kelly lắc đầu túm dây cương lại.

“Chắc chắn cháu sẽ chẳng bao giờ gặp chuyện gì kiểu thế đâu. Cháu là một trong những con dân mà Chúa thật tâm yêu quý; chỉ có điều giờ đừng có tóm lấy một trong những người nhà Praste nhé; đừng bao giờ tóm một người nhà Praste, cô gái yêu quý.”

“Già Kelly,” Emily bất chợt nói, “cháu đã được đề nghị trao cho một cơ hội tuyệt vời... tới New York và trở thành nhân viên của một tòa báo. Cháu không thể quyết định được. Già nghĩ cháu nên làm gì thì hơn?”

Lúc nói chuyện này, cô đã nghĩ đến nỗi kinh hoàng của bác Elizabeth trước cái ý tưởng một người nhà Murray đi xin ý kiến Già Jock Kelly. Ngay cả cô cũng có phần xấu hổ trước hành động này.

Già Kelly lại lắc đầu.

“Cánh con trai quanh đây thì nghĩ gì chứ? Nhưng bà già ấy nói gì?”

“Bác Elizabeth bảo cháu có thể làm gì tùy ý.”

“Vậy thì chắc là chúng ta cứ để chuyện như thế thôi,” Già Kelly nói, rồi đánh xe đi mà không buông thêm một lời nào nữa. Rõ ràng Già Kelly chẳng giúp ích được gì.

“Tại sao mình lại muốn người khác giúp chứ?” Emily tuyệt vọng nghĩ. “Mình làm sao mà lại không thể tự quyết định được? Tại sao mình lại không thể nói là mình sẽ đi. Có vẻ như lúc này đây mình không trong tâm trạng muốn đi; mình chỉ cảm thấy mình nên đi thôi.”

Cô ước gì chú Dean đang ở nhà. Nhưng chú Dean đã không quay lại đây từ khi về Los Angeles hồi mùa đông. Và chẳng hiểu sao cô lại không thể thảo luận vấn đề này cùng Teddy. Chẳng có chuyện gì phát sinh từ thời khắc diệu kỳ trong ngôi nhà cũ của ông John; chỉ ngoại trừ việc một bầu không khí gượng gạo nào đó gần như đã hủy hoại mối quan hệ bạn bè xưa giữa họ. Đối với người ngoài, hai người vẫn là bạn bè thân thiết như từ xưa đến giờ, nhưng một điều gì đó đã mất... và dường như chẳng có gì ở đúng vị trí của nó cả. Cô sẽ không thừa nhận với chính mình rằng cô sợ không dám hỏi Teddy. Nếu cậu bảo cô cứ đi đi thì sao? Đó sẽ là nỗi đau thương không thể nào chịu đựng nổi... bởi vì điều đó sẽ chứng tỏ cậu chẳng thèm quan tâm đến chuyện cô đi hay ở. Nhưng Emily sẽ không hỏi cậu đâu.

“Tất nhiên mình sẽ đi,” cô nói to lên với chính mình. Có lẽ những lời nói được thốt lên thành tiếng sẽ giải quyết mọi chuyện đâu ra đấy. “Nếu không đi thì năm sau mình biết làm gì chứ? Bác Elizabeth chắc chắn sẽ chẳng bao giờ cho phép mình một mình đi bất cứ đâu. Ilse sẽ đi xa... cả Perry nữa... và có lẽ Teddy cũng thế. Cậu ấy nói cậu ấy buộc phải đi làm gì đó để kiếm tiền trang trải chi phí học mỹ thuật. Mình phải đi.”

Cô nói kiên quyết, như thể đang tranh cãi với một đối thủ vô hình nào đó. Sẩm tối khi cô về đến nhà, không có ai ở đó, và cô cứ đi đi lại lại không gnừng khắp quanh nhà. Những căn phòng lâu đời mới quyến rũ, đường hoàng và đẹp đẽ làm sao chứ, với nào nến, nào ghế tựa lưng hình thang, nào thảm bện! Căn phòng nhỏ bé của cô mới thân thương mời gọi xiết bao, với giấy dán hình thoi, với thiên thần bảo hộ, với cái lọ bầu bĩnh màu đen in hình hoa hồng cùng tấm kính cửa sổ kỳ cục lập dị! Căn hộ của cô Royal liệu có tuyệt vời bằng một nửa thế này không?”

“Tất nhiên mình sẽ đi,” cô nhắc lại lần nữa; cảm giác như thể chỉ cần bỏ qua từ “tất nhiên” ấy thì hẳn mọi chuyện đã được định đoạt rồi.

Cô bước vào vườn, đắm chìm trong vẻ đẹp lạnh nhạt, thờ ơ của đêm trăng đầu xuân, và đi đi lại lại trên những lối đi trong vườn. Từ xa xăm, vẳng đến tiếng còi tàu Shrewsbury – y hệt tiếng gọi từ thế giới đầy mê hoặc đằng sau nó; một thế giới tràn ngập thú vị, quyến rũ và kịch tính. Cô dừng lại bên chiếc đồng hồ mặt trời cũ kỹ phủ lớp địa y và lần dấu theo câu nói chạy dọc theo vành đồng hồ, “Cứ thế thời gian trôi”. Thời gian cứ thế trôi - gấp gáp, không chút lưu tình, ngay cả ở Trăng Non, vốn không thể bị hư hại bởi bất kỳ sự vội vã hay hối thúc nào của thời hiện đại. Lẽ nào cô không nên thuận theo dòng chảy? Những bông hoa loa kèn tháng Sáu trắng muốt rung rinh trong gió nhẹ; cô hầu như có thể nhìn thấy Bà Gió – người bạn lâu năm – đang cúi rạp trên khóm hoa để xoay nghiêng những cái cằm mịn màng của chúng. Liệu Bà Gió có đến gặp cô giữa phố phường đông đúc nơi thành phố? Liệu ở đó cô có được giống như con mèo của Kipling?

“Và chẳng biết liệu ở New York, có bao giờ mình gặp ánh chớp không,” cô bâng khuâng nghĩ.

Khu vườn lâu năm mà ông Jimmy yêu quý này mới đẹp đẽ làm sao! Trang trại Trăng Non lâu đời mới đẹp đẽ làm sao! Vẻ đẹp của nó có một nét lãng mạn tinh tế chỉ thuộc riêng mình nó. Sự mê hoặc toát lên từ đường cong của con đường đỏ thẫm ướt đẫm sương phía xa kia; sự quyến rũ thiêng liêng xa cách ở Ba Nàng Công Chúa; sự huyền diệu trong vườn cây ăn quả; nét ma mị đầy kích thích phảng phất trong rừng linh sam. Làm sao cô có thể rời bỏ ngôi nàh cổ đã bao bọc yêu thương cô này; đừng bao giờ nói với tôi rằng những ngôi nhà không biết yêu thương! – những ngôi mộ của các bậc tổ tiên bên hồ Blair, những cánh đồng mênh mông và những khu rừng ma ám nơi giấc mơ thời thơ ấu của cô đã từng được mơ? Đột nhiên, cô biết cô không thể rời bỏ chúng được, cô biết cô không bao giờ thật lòng muốn rời bỏ chúng. Đó chính là lý do khiến cô tuyệt vọng đi khắp nơi hỏi xin lời khuyên từ những người hoàn toàn ngoài cuộc. Thực ra cô vẫn hy vọng họ sẽ bảo cô đừng đi. Chính vì vậy cô mới mong mỏi mãnh liệt đến thế rằng chú Dean đang ở nhà – chắc chắn ông sẽ bảo cô đừng đi.

“Mình thuộc về Trăng Non; mình ở giữa những người thân thích của mình,” cô nói.

Không có gì để nghi ngờ về quyết định này; cô không muốn bất kỳ ai giúp cô đưa ra quyết định. Một cảm giác mãn nguyện sâu sắc từ tận đáy lòng xâm chiếm khắp người khi cô bước đi, tiến vào ngôi nhà cũ giờ không còn nhìn cô bằng ánh mắt trách móc nữa.Cô tìm thấy bà Elizabeth, bà Laura và ông Jimmy đang ngồi trong căn bếp tràn ngập ánh nến diệu kỳ.

“Cháu sẽ không tới New York, bác Elizabeth ạ,” cô nói. “Cháu sẽ ở lại Trăng Non cùng các bác.”

Bà Laura khẽ bật ra một tiếng kêu vui mừng. Ông Jimmy nói, “Hu ra!” Bà Elizabeth đan nốt một vòng tất nhưng vẫn chẳng nói gì cả. Rồi...

“Ta nghĩ một người nhà Murray sẽ làm thế,” bà nói.

Tối thứ Hai, Emily thẳng tiến đến Ashburn. Cô Royal đã trở lại và đón chào cô bằng thái độ ấm áp.

“Cô hy vọng cháu đến để nói với cô rằng bà Murray đã quyết định tỏ ra là người hiểu lý lẽ và để cháu đi cùng cô, cháu yêu.”

“Bác ấy bảo cháu có thể tự mình quyết định.”

Cô Royal vỗ tay.

“Ôi, tuyệt, tuyệt! Vậy là chuyện đã xong xuôi rồi.”

Emily tái nhợt, nhưng đôi mắt cô đen thẫm lại với sự thiết tha và cảm xúc dồn nén.

“Vâng, chuyện đã xong xuôi rồi... cháu sẽ không đi đâu ạ,” cô nói. “Cháu cảm ơn cô thật lòng, cô Royal ạ, nhưng cháu không thể đi được.”

Cô Royal chằm chằm nhìn cô; thoáng ý thức được rằng có nài nỉ hay tranh luận cũng chẳng ích gì; nhưng rồi ngay lúc đó lại bắt đầu nài nỉ và tranh luận.

“Emily... cháu không nói nghiêm túc đấy chứ? Sao cháu không thể đi được?”

“Cháu không thể rời bỏ Trăng Non; cháu yêu nó quá; nó có ý nghĩa quá lớn lao đối với cháu.”

“Cô tưởng cháu muốn đi cùng cô chứ, Emily.” Cô Royal oán trách nói.

“Cháu muốn. Và một phần trong cháu vẫn muốn. Nhưng một phần khác trong cháu lại khiến cháu không đi được. Xin cô đừng cho rằng cháu là kẻ ngu ngốc hay vô ơn, cô Royal.”

“Tất nhiên cô không nghĩ cháu là kẻ vô ơn,” cô Royal nói, bất lực, “nhưng cô có... phải, cô có nghĩ rằng cháu là kẻ ngu ngốc khủng khiếp. Cháu cứ thế ném bỏ cơ hội vươn đến một sự nghiệp. Ở đây, cháu liệu có bao giờ làm được điều gì đáng giá không? Cháu không ý thức được con đường của cháu sẽ gian nan đến thế nào đâu. Ở đây cháu không thể lấy được chất liệu... không có môi trường... không...”

“Cháu sẽ tạo ra môi trường riêng của mình,” Emily nói, hơi mất bình tĩnh. Xét cho cùng, cô nghĩ, quan điểm của cô Royal cũng giống y như của bà Alec Sawyer, và thái độ của cô thực sự mang vẻ kẻ cả. “Còn về phần chất liệu... người dân sống ở đây cũng giống y hệt người dân ở bất kỳ nơi nào khác; cũng đau khổ, sung sướng, lầm lỗi và khát khao đúng y như những người dân New York.”

“Cháu thì biết gì về điều đó chứ,” cô Royal nói, có phần dằn dỗi. “Cháu sẽ chẳng bao giờ viết được bất cứ thứ gì thực sự đáng giá khi ở đây... không thứ gì lớn lao. Không có cảm hứng... cháu sẽ gặp trở ngại trên mọi phương diện; các toà soạn lớn sẽ chẳng buồn liếc mắt quá cái dòng địa chỉ đảo Hoàng tử Edward trên bản thảo của cháu. Emily, cháu đang tự tử trên phương diện văn chương đấy. Rồi cháu sẽ nhận ra điều đó lúc ba giờ sáng giữa một đêm trắng nào đó, Emily Byrd Starr ạ. Ồ, và hẳn là sau vài năm nữa, cháu sẽ kiếm được khách hàng từ lớp giáo lý và xử lý các giấy tờ nông nghiệp. Nhưng cháu sẽ thỏa mãn với chuyện đó chứ? Cháu biết thừa là không. Và rồi, sự ghen tị tầm thường của những chốn bé nhỏ õng ẹo như thế này nữa; nếu cháu làm được bất cứ điều gì mà đám bạn học của cháu không thể làm được thì rồi trong số bạn bè cháu, sẽ có người không đời nào tha thứ cho cháu. Và tất cả bọn họ sẽ cho rằng cháu chính là nữ nhân vật chính trong tất cả các câu chuyện cháu sáng tác; nhất là khi cháu miêu tả nhân vật đó là người xinh đẹp và quyến rũ. Nếu cháu viết một câu chuyện tình, họ sẽ đoán chắc đó là câu chuyện của cháu. Cháu sẽ mệt mỏi vì Hồ Blair; cháu sẽ hiểu hết người dân sống ở đó – họ là người như thế nào, họ có thể trở thành người như thế nào; sẽ chẳng khác gì cảm giác đọc một cuốn sách lần thứ hai mươi rồi. Ồ, ‘trong bụng mẹ’, như cách cô từng nói hồi lên tám, với một người bạn chơi cùng mới sáu tuổi. Cháu sẽ nản chí; rồi dần dần cái thời khắc ba giờ sẽ nhấn chìm cháu; cái thời khắc ba giờ hằng đêm, hãy nhớ nhé; cháu sẽ từ bỏ; cháu sẽ cưới cái người anh họ của cháu...”

“Không bao giờ.”

“Chà, hoặc ai đó giống như cậu ta, vậy đấy, rồi thì ‘an phận’...”

“Không, cháu sẽ không bao giờ ‘an phận’,” Emily quả quyết nói. “Không bao giờ chừng nào cháu còn sống... thế thì tẻ nhạt đến mức nào chứ!”

“... và cháu sẽ có một phòng khách giống như phòng khách của dì Angela,” cô Royal nói tiếp không chút lưu tình. “Một bề lò sưởi ken đầy ảnh; một cái giá vẽ với bức ảnh ‘phóng đại’ lồng trong cái khung rộng hai mươi xăng ti mét; một album bọc vải nhung đỏ trên có tấm khăn lót đan bằng kim móc; một cái chăn kỳ dị trên chiếc giường trong phòng dành cho khách; một cờ hiệu vẽ tay trong hành làng; và, như một chi tiết thanh lịch cuối cùng, một khóm trúc thiên môn sẽ ‘mang vẻ yêu kiều đến giữa chiếc bàn tại phòng ăn’ của cháu.”

“Không đâu,” Emily nghiêm trang nói, “những thứ như thế không thuộc về truyền thống nhà Murray.”

“Chà, vậy thì là những thứ cũng có tác động tương đương về mặt tinh thần. Ồ, cô có thể nhìn thấy cả cuộc đời cháu. Emily, tại một nơi như thế này, nơi người ta chẳng thể nhìn xa quá mũi mình một dặm.”

“Cháu có thể nhìn xa hơn thế,” Emily nói, hếch cằm lên. “Cháu có thể nhìn tới những vì sao.”

“Cô đang dùng cách nói ẩn dụ, cháu yêu ạ.”

“Cháu cũng thế. Ôi, cô Royal, cháu biết cuộc sống nơi này có phần tù túng trên một số phương diện; nhưng bầu trời chẳng thuộc về cháu nhiều hơn mức nó thuộc về bất kỳ ai khác. Cháu có thể không thành công ở đây; nhưng, nếu vậy, cháu cũng sẽ chẳng thành công ở New York. Nếu rời bỏ mảnh đất cháu yêu thương, một suối nguồn sự sống nào đó sẽ cạn khô trong tâm hồn cháu. Cháu biết ở nơi này, cháu sẽ gặp nhiều khó khăn và nản lòng, nhưng người ta đã vượt qua những khó khăn còn tệ hại hơn gấp nhiều lần. Cô biết câu chuyện cháu kể cho cô về ông Parkman rồi đấy; hàng bao nhiêu năm trời, ông ấy chẳng thể viết được liên tục quá năm phút; ông ấy đã mất tận ba năm để hoàn thành một trong những cuốn sách của ông ấy; mỗi ngày sáu dòng trong suốt ba năm. Cháu sẽ luôn nhớ đến câu chuyện đó mỗi khi cháu nản lòng thối chí. Nó sẽ giúp cháu trải qua những đêm trắng, bất kể là bao nhiêu đêm đi chăng nữa.”

“Chà,” – cô Royal vung hai bàn tay ra – “cô đầu hàng. Cô cho rằng cháu đang phạm phải một sai lầm khủng khiếp, Emily ạ; nhưng nếu sau này cô phát hiện ra cô đã sai, cô sẽ viết thư thừa nhận điều đó. Và nếu cháu phát hiện ra cháu đã sai, hãy viết thư cho cô thừa nhận điều đó nhé, và cháu sẽ thấy rằng cô luôn sẵn sàng giúp đỡ cháu như từ trước đến giờ vẫn thế. Thậm chí, cô sẽ không nói, ‘Cô đã bảo mà.’ Hãy gửi cho cô bất kỳ truyện nào của cháu phù hợp với tờ tạp chí của cô nhé, và hãy nhờ cô cho ý kiến trong bất cứ trường hợp nào cô có thể. Ngày mai cô sẽ quay về New York ngay. Cô định đợi đến tháng Bảy chỉ cốt để đưa cháu theo cùng. Vì cháu không đi nên cô quay về thôi. Cô không thích sống tại một nơi mà tất cả những gì ngưỡi ta nghĩ chỉ là cô đang chơi ván bài dở và thua trong trò chơi hôn nhân; nơi toàn bộ cánh con gái – chỉ trừ cháu – đều tỏ thái độ tôn kính đến mức đáng ghê tởm đối với cô; và là nơi những người lớn tuổi không ngừng nhắc đi nhắc lại trông cô giống mẹ cô đến mức nào. Mẹ cô vốn xấu xí. Hãy chào tạm biệt thật nhanh nào.”

“Cô Royal,” Emily tha thiết nói, “cô tin rằng – đúng vậy phải không ạ - rằng cháu rất cảm kích trước tấm lòng của cô chứ? Sự cảm thông và động viên của cô có ý nghĩa rất lớn đối với cháu... sẽ luôn luôn có ý nghĩa đối với cháu hơn nhiều so với tưởng tượng của cô.”

Cô Royal len lén quét khăn tay lướt qua đôi mắt và cúi chào duyên dáng.

“Cám ơn cháu vì những lời nói tử tế đó, tiểu thư ạ,” cô nói nghiêm trang.

Rồi cô bật cười khe khẽ, đặt hai tay lên vai Emily vào hôn lên má cô.

“Chúc cháu luôn nhận được mọi lời chúc tốt lành nhất từng được nghĩ đến, được nói hay được viết ra trên đời,” cô nói. “Và cô cho là sẽ... dễ chịu lắm... nếu có bất kỳ nơi nào lại có thể có ý nghĩa đối với cô giống như ý nghĩa hiển nhiên của Trăng Non đối với cháu.”

Ba giờ đêm hôm đó, dù thao thức nhưng rất mãn nguyện, Emily nhớ lại rằng cô vẫn chưa từng được gặp Chu-Chin.