Hậu Cung Chân Hoàn Truyện

Quyển 7 - Chương 19: Trong lá oanh vàng hót nỉ non[20]




[20] Trích Thục tướng, Đỗ Phủ. Dịch thơ: Cự Minh Sơn. Nguyên văn Hán Việt: Cách diệp hoàng ly không hảo âm - ND.

Vì trong lòng đang có tâm sự nên trưa hôm đó tôi chẳng thể ngủ ngon. Độ này thời tiết đã khá nóng, tiếng ve sầu bên ngoài vang lên ra rả hệt như tiếng mưa rào, tôi nghe mà lòng thầm phiền muộn, thế là dứt khoát không ngủ nữa, sai mấy gã tiểu thái giám mang sào dính keo ra bắt sạch ve sầu để chúng khỏi kêu. Vừa khéo lúc này Bình Nương tới nói Dư Nhuận lại khóc, tôi bèn qua bên đó xem thế nào. Không biết có phải vì mẫu thân qua đời sớm hay không, Dư Nhuận rất hay khóc, khuôn mặt nhỏ nhắn thường xuyên đỏ bừng vì khóc quá nhiều. Tôi đau xót không thôi, vội bế thằng bé vào lòng mà dỗ dành, mãi một hồi lâu sau mới đỡ hơn một chút. Bình Nương không kìm được thở dài than: “Đức phi nương nương đi rồi, thật đáng thương cho tiểu Hoàng tử mới ra đời đã phải mồ côi mẹ.”

Hoa Nghi hậm hực nói: “Ngày đó nếu không vì thị tỳ của An Chiêu viện làm kinh động đến Đức phi thì bây giờ hai mẹ con Đức phi đã có thể ở bên nhau rồi, được như thế thì thật tốt biết bao.”

Tôi nhớ tới chuyện xưa, tâm trạng lại càng thêm bức bối, ngoảnh đầu lại vừa khéo nhìn thấy Tiểu Liên Tử tới bẩm báo các tin vừa thăm dò được, nào là trưa nay Mẫn Phi vô cùng giận dữ, ngay đến tấm bình phong lưu ly khảm ngọc mà thái phi tặng cho cũng đập vỡ, rồi thì phủ Nội vụ đã tìm được mấy chữ có ngụ ý rất tốt để dùng làm phong hiệu cho An Lăng Dung khi phong phi, chiều nay sẽ mang đến chỗ Huyền Lăng để y lựa chọn.

Tôi bế Dư Nhuận trong lòng nghe hắn bẩm báo, nghe xong liền không kìm được bật cười. “Phủ Nội vụ hẳn là đang cực lực bợ đỡ An thị đây, không ngờ mới nhanh như thế mà đã làm xong việc chọn chữ cho phong hiệu rồi.”

Tiểu Liên Tử không dám tiếp lời, tôi lại hỏi: “Hoàng thượng bây giờ ở đâu?”

“Dạ, đang xem tấu sớ ở Nghi Nguyên điện.”

“Hoàng hậu thì sao?”

“Nghe nói là dùng bữa trưa xong thì đã đi ngủ, hình như bệnh đau đầu lại tái phát.”

Tôi giao đứa bé cho Bình Nương, sau đó liền ngoảnh đầu qua dặn dò Hoa Nghi: “Xuống bếp hỏi xem canh lá sen và bánh hoa quế trộn bột ngó sen đã làm xong chưa đi, đợi lát nữa bản cung sẽ đích thân mang qua Nghi Nguyên điện cho Hoàng thượng.”

Buổi chiều vốn là thời gian nhàn hạ nhất trong ngày, lòng tôi tuy có mục đích nhưng sau khi nhìn cảnh non xanh nước biếc trên đường, tâm trạng tôi cũng bất giác thư thái hơn hẳn.

Huyền Lăng hiện đang ngồi một mình ở phòng tây, chắc hẳn tấu sớ không phải là loại quan trọng lắm nên y chỉ tiện tay lật xem qua một chút, bộ dạng khá là ung dung. Thấy tôi đi vào, y mỉm cười vẫy tay gọi: “Trời chiều đang nóng nực, sao nàng lại tới đây thế?”

Tôi hơi nhún người hành lễ, nói: “Quả nhiên là người gặp chuyện mừng tinh thần sảng khoái. Nhìn Hoàng thượng bây giờ khí sắc hồng hào là đủ thấy việc An muội muội có thai khiến Hoàng thượng cao hứng đến cỡ nào.”

Huyền Lăng cười, nói: “Thân thể Dung Nhi vốn yếu đuối, không ngờ lần này thai tượng lại mười phần ổn định, rất ít khi bị nôn, ngay đến thái y cũng nói là hiếm có.”

Tôi cười tươi vui vẻ. “An muội muội đúng là có phúc. Còn nhớ thần thiếp khi mang thai Lung Nguyệt đã bị nôn đến là khổ. Qua đó đủ thấy đứa bé này của An muội muội ngoan ngoãn đến thế nào, sau này nhất định sẽ mười phần hiếu thảo, hiểu chuyện.”

Những lời này khiến Huyền Lăng lại càng vui hơn, y cầm tay tôi, kéo tôi ngồi xuống. “Nàng tới đúng lúc lắm, trẫm vừa nãy ngồi xem tấu sớ một mình đang thấy chán quá đây.”

Tôi nhẹ nhàng đứng dậy mở hộp thức ăn ra, nở một nụ cười rất mực dịu dàng. “Thần thiếp trộm nghĩ thời gian buổi chiều dài đằng đẵng, Hoàng thượng dùng bữa trưa nhất định đã ăn những thứ có nhiều dầu mỡ, đã thế lại vì có chuyện mừng của An muội muội nên ăn gì cũng thấy ngon, bây giờ ắt hẳn là còn đầy bụng, do đó thần thiếp mới đặc biệt chuẩn bị chút đồ điểm tâm thanh đạm mang tới đây mời Hoàng thượng thưởng thức, không biết Hoàng thượng thấy thế nào?”

Huyền Lăng cười, nói: “Khiến trẫm đắc ý nhất vẫn là phong hiệu được đặt cho Uẩn Hoan của chúng ta, Linh Tê, trẫm với nàng thực đúng là tâm hữu linh tê nhất điểm thông.”

Tôi vừa múc một bát canh lá sen đặt tới trước mặt Huyền Lăng vừa chậm rãi giải thích: “Canh lá sen này được nấu từ lá sen non hái trước lúc mặt trời mọc, còn nước dùng để nấu canh là nước sương trên lá sen. Lá sen thì dễ hái nhưng để gom đủ nước sương thì quả thực khá tốn thời gian, may mà canh nấu ra thơm ngon vô cùng, coi như không uổng phí một phen công sức.” Rồi tôi lại lấy hai miếng bánh hoa quế bột ngó sen ra đặt lên hai cánh hoa sen tươi, đưa tới trước mặt Huyền Lăng, nói tiếp: “Canh lá sen rất thanh đạm, lại thoang thoảng hương thơm của lá sen, còn bánh hoa quế bột ngó sen này thì rất dễ tiêu hóa, ăn vào vừa thơm vừa ngọt, Hoàng thượng mau nếm thử một chút đi.”

Bánh hoa quế bột ngó sen vốn có màu vàng tươi óng ánh, đặt lên cánh hoa sen hồng phấn mịn màng trông lại càng hấp dẫn, chỉ nhìn thôi đã đủ khiến người ta phải thèm thuồng. Huyền Lăng cười, nói: “Hai món này trông cũng đơn giản, nhưng hiếm có là ở chỗ đều được làm rất tinh tế, khiến người ta vừa nhìn đã muốn ăn rồi.” Nói rồi liền ăn một miếng bánh, uống một ngụm canh, trông bộ dạng hết sức thư thái, dễ chịu. “Mùi vị đúng là không tệ chút nào.” Thế nhưng rất nhanh sau đó y đã lộ ra một tia buồn bã, quay đầu nhìn qua phía tôi. “Mùi vị của bánh hoa quế bột ngó sen này quen thuộc quá, hình như trước đây trẫm từng ăn ở đâu rồi mà không sao nhớ ra được.” Y tập trung suy nghĩ suốt một hồi lâu, cuối cùng mới do dự nói: “Là ở cung của Đức phi đúng không nhỉ?”

Tôi khẽ nở nụ cười mỉm nhưng bên trong đó lại ẩn giấu một nỗi thương cảm khó nói bằng lời. “Đúng vậy thưa Hoàng thượng, bánh hoa quế bột ngó sen mà Đức phi tỷ tỷ làm là ngon nhất, ngày xưa Hoàng thượng từng rất thích ăn.”

Huyền Lăng cũng có vẻ thương cảm, buông bánh xuống, nói: “Nàng ấy đã qua đời, trẫm cũng lâu lắm không được ăn thứ bánh này rồi.” Hơi dừng một chút, y buồn bã nói tiếp: “Khi Đức phi còn tại thế, trẫm đã không thường xuyên tới thăm nàng ấy, một năm chỉ gặp gỡ có vài ba lần, cũng chẳng trò chuyện được mấy câu, thậm chí trước khi nàng ấy qua đời, trẫm còn chẳng ở bên nàng ấy nữa. Bây giờ nàng ấy đi rồi, thỉnh thoảng nghĩ tới nàng ấy, trẫm đều cảm thấy vô cùng buồn bã.” Rồi y thở dài một tiếng. “Nói đến cùng thì vẫn là trẫm có lỗi với nàng ấy.”

Khi My Trang còn tại thế, Huyền Lăng đã chẳng thương yêu tỷ ấy, trân trọng tỷ ấy, tin tưởng tỷ ấy, bây giờ tỷ ấy đã ra đi lâu như thế rồi mới nói ra những lời này, thực chỉ khiến người ta thêm buồn và cảm nhận được sâu sắc sự bạc bẽo của y.

Tôi vội vàng bước tới khuyên nhủ: “Đều tại thần thiếp không tốt, tự nhiên lại khiến Hoàng thượng buồn. Khi ra đi, tỷ tỷ đã từng hết sức vấn vương Hoàng thượng, nếu biết Hoàng thượng vì mình mà thương tâm thế này, tỷ ấy ở dưới suối vàng ắt chẳng được yên tâm.” Tôi suy nghĩ một chút rồi nói tiếp: “Kỳ thực Hoàng thượng không cần phải buồn đâu, ngày đó tỷ tỷ từng đích thân dạy cho đầu bếp trong cung cách làm loại bánh này, bây giờ tỷ tỷ tuy không còn nữa nhưng thần thiếp đã gọi người đầu bếp đó tới Nhu Nghi điện hầu hạ, hôm nào Hoàng thượng muốn ăn thì hãy tới ăn một phen thật thoải mái, cứ coi như là tỏ chút lòng hoài niệm với tỷ tỷ là được rồi.”

Huyền Lăng gật đầu, nói: “Hoàn Hoàn, vẫn là nàng hiểu lòng người khác nhất, Đức phi có người tỷ muội như nàng cũng có thể yên lòng nhắm mắt được rồi.”

Tôi cười, nói: “Kỳ thực hôm nay mang đồ điểm tâm tới đây, trong lòng thần thiếp còn có một phen tâm tư khác.”

Huyền Lăng không kìm được lộ vẻ tò mò. “Tâm tư của nàng lúc nào cũng đặc biệt, trẫm chẳng thể đoán nổi. Nàng hãy nói ra trẫm nghe xem.”

Tôi mím môi, nói: “Lá sen là cha, hoa sen là mẹ, ngó sen là con cái, hôm nay thần thiếp dâng hai món điểm tâm này lên là hy vọng Hoàng thượng, các vị tỷ muội trong cung và các Hoàng tử, Công chúa sẽ mãi mãi bình an vui vẻ, chung ý chung lòng.”

Huyền Lăng bật cười, ôm tôi vào lòng. “Hoàn Hoàn, chỉ vì những lời này của nàng, trẫm cũng phải cảm ơn nàng một phen mới được.”

Tôi cất tiếng nỉ non: “Thần thiếp không cần Hoàng thượng cảm ơn, chỉ mong Hoàng thượng có thể mãi mãi đối xử với thần thiếp như bây giờ, vậy có được chăng?”

Y cất tiếng cười vang sảng khoái. “Được, trẫm đáp ứng với nàng, trẫm cùng Hoàn Hoàn và Dư Hàm, Lung Nguyệt, Linh Tê của chúng ta sẽ mãi mãi bình an, vui vẻ, chung ý chung lòng.”

Tôi tựa người trong lòng Huyền Lăng, dõi mắt nhìn ra phía ngoài cửa sổ, chỉ thấy trên mấy gốc chuối biếc xanh thỉnh thoảng lại có một con chim nhỏ nghỉ chân đậu lại cất tiếng hót vui tươi, sau đó thì bay lên cao vút, chao liệng giữa những đám mây trắng muốt như bông, nhìn vô cùng thích mắt.

Từ ngoài điện chợt có hai tiếng gõ cửa khe khẽ, bầu không khí tĩnh lặng tức thì bị phá tan.

Huyền Lăng uể oải cất tiếng hỏi: “Ai ở ngoài đó thế?”

Giọng nói của Lý Trường kính cẩn vang lên: “Bẩm Hoàng thượng, phủ Nội vụ đã chọn được mấy chữ tốt lành đưa tới để Hoàng thượng lựa chọn rồi ban cho An Chiêu viện.”

Tôi mỉm cười đẩy khẽ Huyền Lăng. “Đây là việc mừng của An muội muội đấy, Hoàng thượng mau kêu y vào đây đi.”

Tới lúc này, Lý Trường mới dám đi vào. Huyền Lăng vui vẻ nói: “Để trẫm xem phủ Nội vụ đã chọn được những chữ hay ho gì nào.”

Tôi đứng bên cạnh Huyền Lăng đưa mắt nhìn đi, thấy tất cả chỉ có ba chữ được viết bằng mực vàng trên ba tờ giấy màu đỏ sậm, lần lượt là “Túc”, “Lệ”, “Văn”.

Tôi mỉm cười cất giọng ôn tồn: “Cả ba chữ đều không tệ chút nào. Như chữ túc này, đức hạnh vẹn toàn ấy là túc; khôn ngoan quyết đoán ấy là túc; uy đức kiêm đủ ấy là túc; đoan chính nghiêm nghị ấy là túc; giữ được phụ đạo ấy là túc; mặt thành tâm kính ấy là túc; biết trên biết dưới ấy là túc. Tất thảy các ý nghĩa đều rất hay.”

Huyền Lăng nói: “Giữ được phụ đạo, mặt thành tâm kính, quả là rất hợp với Dung Nhi. Có điều chữ này không khỏi có phần hơi cứng rắn, không hợp lắm với tính tình yếu đuối của Dung Nhi.” Y lại nhìn qua chữ văn, nở nụ cười tươi, nói: “Dung Nhi vốn tính trầm mà lại khiêm tốn, nhún nhường, thực là một người lễ nghĩa, chữ này có vẻ rất hợp đấy.”

Người lễ nghĩa? Tôi vừa tức giận vừa tức cười, chợt để ý thấy một tia thần sắc ám muội trên mặt Huyền Lăng khi nói ra câu này, đột nhiên nhớ tới một việc, suýt thì cười lạnh thành tiếng, nhưng vì đang ở trước mặt Huyền Lăng nên rốt cuộc đành nín nhịn. Có điều tôi cũng hiểu được An Lăng Dung là loại người như thế nào trong lòng Huyền Lăng, nhủ thầm mình sau này phải cẩn thận tính toán mới được.

“Hoàng thượng nói rất phải.” Tôi chậm rãi nói: “Chữ văn này vừa mang ý nho nhã, lễ độ lại vừa mang ý điềm đạm, nhún nhường, quả là rất hợp với An muội muội. Có điều khi nghe nhắc tới chữ văn, người ta thường sẽ lập tức hình dung đến một người đầy bụng thi thư, học thức uyên bác, An muội muội tính tình đúng là điềm đạm nhưng nói về thi thư hay học thức thì hãy còn hơi kém, nếu dùng chữ này chỉ e muội ấy sẽ cả nghĩ.”

Huyền Lăng cười, nói: “Vậy thì chỉ còn lại chữ lệ thôi.” Nói rồi liền sai Lý Trường mang bút đỏ tới chuẩn bị khoanh vòng tròn lựa chọn.

Tôi mỉm cười, nói: “Chữ lệ ấy vừa mang nghĩa là dung nhan xinh đẹp lại vừa có ý thành cặp thành đôi, ngoài ra còn chỉ phu thê nghĩa nặng tình sâu nữa, quả nhiên là rất hay.” Dứt lời liền lén đưa mắt ngó nhìn thần sắc y.

Huyền Lăng nghe tôi nói xong thì lập tức tỏ ra do dự, sau khi suy nghĩ một chút liền vứt cây bút lông sói xuống bàn.

Tôi hỏi: “Hoàng thượng sao thế? Chữ lệ này không phải là rất hay sao?”

Huyền Lăng khẽ cất tiếng lẩm bẩm: “Phu thê nghĩa nặng tình sâu? An Chiêu viện chỉ là thiếp thôi, đâu thể có cái gọi là phu thê nghĩa nặng tình sâu với trẫm được, đúng là nực cười.” Sau đó lại quay qua nói với tôi: “Nếu chọn chữ này làm phong hiệu, chỉ sợ truyền ra ngoài rồi văn võ bá quan sẽ chỉ trích trẫm quá sủng hạnh thiếp thất.” Y suy nghĩ một chút rồi nói với Lý Trường: “Đi nói với phủ Nội vụ là mấy chữ này đều không ổn, hãy chọn lại rồi đưa tới đây.”

Tôi mỉm cười, nói: “Kỳ thực đâu cần phủ Nội vụ phải bận rộn thêm nữa, An muội muội xưa nay vẫn luôn rất được lòng Hoàng thượng, Hoàng thượng đích thân chọn một chữ làm phong hiệu cho muội ấy là được rồi mà.”

Huyền Lăng tiện tay cầm bát canh lá sen lên uống một ngụm, nói: “Trong thời gian ngắn thế này trẫm thực khó mà nghĩ ra được chữ nào hay. Hoàn Hoàn, nàng với Dung Nhi quen nhau đã lâu, chi bằng hãy nghĩ thay trẫm đi.”

Tôi đưa tay lên chống cằm. “Chuyện như thế này thần thiếp đâu dám làm chủ. Hoàng thượng vẫn nên tự mình quyết định thì hơn.”

Y vuốt nhẹ bờ má tôi một cái, cười nói: “Trẫm đã trao cho nàng đại quyền hiệp trợ quản lý lục cung, việc này có gì đâu mà không được. Hơn nữa lúc trước nàng cũng từng chọn cho Trinh Quý tần một phong hiệu rất hay mà.” Nói rồi liền đưa bút cho tôi. “Nàng cứ thử viết một chữ ra đi, nếu thật sự không ổn thì trẫm sửa giúp nàng là được.” Tôi suy nghĩ một chút rồi viết ra một chữ “Ly[21]” rất lớn, sau đó ngoảnh đầu qua mỉm cười, hỏi y: “Hoàng thượng thấy sao?”

[21] Ly ở đây là con chim hoàng oanh, còn được gọi là vàng anh - ND.

Y hơi cau mày, khẽ lẩm bẩm: “Ly?”

Tôi khẽ gật đầu, dải tua trên chiếc bộ dao hình phượng hoàng đung đưa nhè nhẹ va vào bên tai mang tới cảm giác mát rượi như cơn mưa phùn tháng Tư. Tôi dịu giọng nói: “Giỏi hát giỏi múa, tính tình lại hiền hòa như chim hoàng oanh, đó chính là những ưu điểm lớn nhất của An muội muội. Mà ngoài ra chim hoàng oanh còn là loài chim rất mực chung tình, chẳng khác An muội muội chút nào, do đó thần thiếp thấy chữ ly này là hợp với An muội muội nhất.”

Lý Trường đứng kế bên tiện miệng nói: “Nô tài nghe nói chim hoàng oanh một thai thường có bốn trứng, mà An Chiêu viện thì đang có thai, đặt phong hiệu như vậy vừa hay ứng với điềm nhiều con nhiều phúc.”

Tôi cười tươi, nói: “Xuân về cảnh đẹp, oanh hót véo von, thực là vừa hợp mùa vừa hợp cảnh, cứ như thần thiếp thấy khó mà tìm được chữ nào thích hợp với An muội muội hơn nữa rồi.”

Huyền Lăng dãn hẳn đôi mày, tôi biết là y đã bị đánh động, quả nhiên y lập tức cười, nói: “Nghĩ kĩ lại thì quả đúng là rất hợp.” Dứt lời liền lệnh cho Lý Trường: “Đi truyền chỉ đi, sau đó hãy qua chỗ Hoàng hậu kêu nàng ta chọn ngày lành tháng tốt luôn nữa.”

Lý Trường hồi bẩm: “Hoàng hậu nương nương lại đang tái phát bệnh đau đầu, chỉ e khó mà rời khỏi giường được.”

Tôi suy nghĩ một chút rồi nói: “Chi bằng Hoàng thượng cứ ban danh phận cho An muội muội trước, còn về điển lễ sắc phong gì đó thì đợi Hoàng hậu khỏe lại rồi hãy tính tới việc cử hành cũng không muộn.” Tôi làm bộ vô tình nói: “Có điều mấy tên nô tài ở phủ Nội vụ thật chẳng ra sao, chỉ có mỗi việc soạn phong hiệu thôi mà cũng không làm cho ra hồn, cuối cùng còn phải phiền đến Hoàng thượng.”

Huyền Lăng lộ vẻ trầm ngâm, đôi hàng lông mày hơi cau lại.

Tôi chậm rãi cất tiếng: “Tứ lang rất thích chữ ly mà Hoàn Hoàn vừa nói tới đúng không?” Tôi cố kìm nén nỗi căm hận trong lòng, biến nó thành nụ cười mỉm bên khóe miệng. “Đại Chu chúng ta không có quá nhiều sự kiêng kỵ về tên của quân vương, chẳng hạn bối phận của Hoàng thượng theo hàng chữ Huyền, tên thì chỉ sửa từ ba chấm thủy thành hai chấm thủy như bây giờ, còn các vị vương gia khác thì không sửa đổi gì cả, như thế vừa tỏ được sự thân mật giữa huynh đệ lại không làm mất cái tôn ti trên dưới.”

Huyền Lăng khẽ mỉm cười, thế nhưng trong mắt lại lộ rõ vẻ nghi hoặc. Tôi cúi đầu, thoáng ửng hồng hai má. “Tứ lang xin chớ trách Hoàn Hoàn nhỏ mọn.”

Y cất giọng rất mực dịu dàng: “Sao vậy?”

Tôi ngoảnh mặt qua một bên để lộ thần thái thương cảm, cất tiếng thở dài: “Hoàng thượng đối xử với Ly Phi rất tốt, trong lòng Hoàn Hoàn cũng thấy vui thay cho muội ấy. Nói một câu thực lòng, bấy lâu nay Hoàn Hoàn vẫn luôn cảm thấy tứ lang và Ly Phi muội muội thực là một đôi do ông trời sắp đặt, bằng không tại sao Ly Phi đã bầu bạn bên tứ lang mười mấy năm trời mà hai bên chưa từng phát sinh chút mâu thuẫn nào? Hơn nữa trong tên của tứ lang có một chữ Lăng[22], trong tên của Ly Phi muội muội cũng có một chữ Lăng2, tuy rằng cùng âm không cùng nghĩa nhưng cũng cho thấy rõ là tứ lang và Ly Phi muội muội rất có duyên với nhau, còn Hoàn Hoàn rốt cuộc chỉ là người ngoài thôi.” Tôi gượng cười buồn bã. “Có lẽ hai tiếng tứ lang kia vốn nên dành cho Ly Phi chứ chẳng phải là thần thiếp.”

[22] Là chữ: 凌. 2. Là chữ: 陵.

Y đứng dậy nắm lấy bàn tay lạnh ngắt của tôi, dịu dàng nhìn tôi chăm chú. “Nàng thật sự để tâm tới điều này ư?”

Tôi ngước mắt lên thản nhiên nhìn lại y, lộ rõ vẻ u buồn. “Có lẽ Hoàn Hoàn không nên để tâm tới điều này, nhưng nếu không bởi tứ lang thật lòng đối tốt với Hoàn Hoàn nhiều năm, cho dù chỉ vì cố kỵ thân phận, Hoàn Hoàn cũng ắt chẳng chịu nói mấy lời vừa rồi ra ngoài miệng.” Tôi hơi cúi đầu, chậm rãi quỳ xuống hành lễ. “Xin Hoàng thượng khoan thứ cho thần thiếp tội đố kỵ.”

Y đưa tay ôm chặt tôi vào lòng. “Trẫm với nàng bề ngoài là quân thần, còn những lúc riêng tư thì chẳng khác gì phu thê, người khác đâu thể so sánh với nàng được.” Rồi y ghé đến bên tai tôi, khẽ cất tiếng rủ rỉ: “Tuy trẫm không đặt nặng những việc này nhưng nói gì thì nói tị húy cũng là điều nên làm, huống chi trẫm đâu nỡ lòng nào để Hoàn Hoàn của trẫm phải buồn chứ.”

Y gọi Lý Trường lại: “Đi truyền chỉ ra khắp lục cung, trẫm ban cho An Chiêu viện tên mới là Ly Dung, sắc phong nàng ta làm Ly Phi chính nhị phẩm, nói với nàng ta hôm nay không cần phải tới tạ ơn nữa.”

Tôi tựa người vào lòng Huyền Lăng, hơi nhếch khóe môi nở một nụ cười trong tĩnh lặng