Hậu Cung Chân Hoàn Truyện

Quyển 7 - Chương 6: Ai thương ta đổ bệnh vì hoa




Mùa xuân năm nay dường như cứ thế trôi qua giữa những cơn mưa dầm rả rích. Những biến cố liên tiếp xảy ra hôm đó đã khiến trong lòng mỗi phi tần đều như bị phủ một tầng mây đen bức bối, không ai dám tùy tiện nhắc tới bất cứ chuyện gì trong ngày hôm đó nữa. Cái chết của My Trang khiến Thái hậu xưa nay vốn luôn yêu quý tỷ ấy bị đả kích rất nhiều, ngoài việc phá lệ truy phong tỷ ấy làm đức phi ra, mọi nghi thức trong tang lễ đều được tiến hành theo quy cách của quý phi, coi như là một chút an ủi đối với tỷ ấy sau khi chết. Ngoài ra, cũng vì tang lễ của My Trang mà lễ phong phi của Hồ Uẩn Dung đành dời ngày lại. Dư Nhuận được tôi đón đến bên cạnh mình nuôi nấng, thân thể thằng bé vẫn luôn yếu ớt hơn những đứa bé khác vì khó sinh, do đó nhũ mẫu phải vắt sữa ra bát rồi mớm cho nó ăn từng chút một. Chừng hơn một tháng sau, thân thể Nhuận Nhi mới dần khá hơn một chút, bắt đầu tự bú được. Do thằng bé là con mồ côi của My Trang nên tôi đặc biệt thương yêu, thậm chí còn hơn cả Dư Hàm và Linh Tê mà mình dứt ruột đẻ ra mấy phần.

Chuyện hôm đó thông qua Hồ Uẩn Dung đã truyền tới tai Thái hậu, Thái hậu sau cơn giận dữ thì rốt cuộc vẫn không làm gì, chỉ giống như Huyền Lăng dặn dò Hoàng hậu phải chú ý giữ gìn thân thể, không cần hỏi nhiều tới những việc trong cung nữa, tất thảy cứ giao cho tôi xử lý là được. Mà sau chuyện lần đó, hai vị Canh y Quản, Nghê phải dọn tới vĩnh hạng, Triệu Tiệp dư và Dư Dung Nương tử thì cả ngày không bước chân ra khỏi cửa lần nào. Ngoài ra có thể dễ dàng thấy được, Dư Dung Nương tử vốn khá đắc sủng nay đã không được ngó ngàng gì đến nữa, dần bị Huyền Lăng ghẻ lạnh.

Hai ngày sau đó, Huyền Lăng bất ngờ ban cho Ngọc Nhiêu một chiếc bộ dao vàng ròng hình hai bông hải đường chung gốc, nói là để khen thưởng việc muội ấy dũng cảm xông vào điện của Hoàng hậu để bảo vệ tỷ tỷ. Sự ban thưởng đột ngột này tỏ rõ rằng Huyền Lăng đã bắt đầu chú ý tới Ngọc Nhiêu, đồng thời còn chẳng coi Hoàng hậu ra gì.

Mới thoáng đó, Tết Đoan Ngọ đã qua, Huyền Thanh giờ đã khỏe hẳn, từng cùng Huyền Phần vào cung thỉnh an Thái hậu mấy lần, tiếng khóc của Dư Nhuận nghe cũng vang hơn hẳn, tới lúc này hậu cung mới dần khôi phục một chút náo nhiệt.

Hôm nay Huyền Lăng thương lượng với tôi về việc phong phi cho Hồ Uẩn Dung, nói: “Lễ sắc phong cho Uẩn Dung cũng nên tổ chức rồi. Sau khi Đức phi qua đời, mẫu hậu vẫn luôn phiền muộn không vui, dùng việc này để xung hỷ một chút cũng tốt.” Dừng một chút rồi lại tiếp: “Nếu còn không phong Uẩn Dung làm phi, chỉ e nàng ấy sẽ lèo nhèo với Thái hậu mãi. Dù sao việc này cũng đơn giản, quy cách thì có sẵn rồi, phong hiệu cũng không cần đặt nữa, cứ chọn chữ xương thôi là được.”

Tôi nhớ đến tâm tư mà nàng ta để lộ ra qua hình thêu thần điểu Phát Minh trên áo hôm đó, trong lòng thoáng có chút không vui, liền cười nhạt, nói: “Chữ xương vốn không có gì để chê trách, có điều thực là nổi bật quá. Ai mà không biết Hồ muội muội cầm trong tay khối ngọc bích khắc bốn chữ “vạn thế vĩnh xương” khi ra đời. Nếu Hoàng thượng thật lòng thương muội ấy, vậy thì đừng nên nuông chiều muội ấy quá.”

Y vốn đang ung dung đọc cuốn Thái Bình ngự lãm, nghe thế liền ngẩng đầu nhìn tôi vẻ nghi hoặc. “Nàng cũng cảm thấy Uẩn Dung đôi lúc hơi quá trớn ư?”

Tôi cầm nắp chén trà khẽ gạt mấy cái, chậm rãi nói: “Giữa mùa đông hoa thủy tiên rất thơm, nhưng chính vì hương thơm nồng đậm quá nên mới dễ làm người ta đau đầu. Giống như hoa nhài vậy, hương thơm thoang thoảng lan xa mới là tốt nhất. Hồ muội muội được Hoàng thượng và Thái hậu thương yêu, tất nhiên không ai sánh bằng, nhưng thân ở ngôi cao khó tránh khỏi bị kẻ tiểu nhân đố kỵ, việc vừa rồi chính là một ví dụ rõ ràng nhất, nếu muội ấy chỉ là một phi tần bình thường thì đã chẳng bị người ta để ý tới những chi tiết nhỏ trên xiêm y rồi.”

Huyền Lăng khẽ cười, nói: “Điều nàng lo nghĩ quả không sai, vậy cứ đổi cho nàng ta một phong hiệu khác là được rồi. Uẩn Dung vốn thông minh, mẫn tiệp, vậy cứ ban cho nàng ấy chứ mẫn đi, nàng đi báo việc này với phủ Nội vụ một tiếng là được rồi.”

Y thấy trên tường đang treo một bức Thu phổ dung tân đồ vừa vẽ, bên trên lá sen khô vàng, phù dung nở rộ, phong cảnh ngợp đầy sắc xuân, giữa những bông hoa còn có hai con hồng nhạn vỗ cánh bay giữa trời, thành cặp thành đôi, mặn nồng da diết. Y cười, nói: “Trẫm nhớ là đâu từng thưởng cho nàng bức họa này của Thôi Bạch?”

Tôi che miệng cười, nói: “Chẳng qua là mấy nét tô vẽ cẩu thả của một cô bé, vậy mà Hoàng thượng cũng bị gạt ư?” Thấy y lộ vẻ nghi hoặc, tôi bèn giải thích: “Đây chỉ là bức họa phỏng theo mà tiểu muội của thần thiếp vẽ trong lúc rảnh rỗi thôi.”

“Tiểu muội của nàng?” Y khẽ mỉm cười, đôi hàng lông mày bất giác dãn ra. “Có phải là nữ tử ngày đó từng xông vào điện của Hoàng hậu không? Trẫm đã thưởng cho nàng ta một chiếc bộ dao mà không thấy tới tạ ơn gì cả, hôm nay sẵn dịp trẫm ở trong cung của nàng, xem ra nàng ta không thể lười nhác được rồi.”

Tôi không thoái thác được, đành gọi Ngọc Nhiêu tới. Lúc này Ngọc Nhiêu vừa trang điểm xong, khi tới còn có chút không bằng lòng, chỉ hơi nhún người hành lễ với Huyền Lăng một cái rồi im lặng đứng sang một bên.

Huyền Lăng không hề khó chịu, chỉ mỉm cười, nói: “Nàng giỏi tài vẽ tranh như vậy, có muốn cọ sát với họa sư trong cung một chút không? Trẫm có thể an bài giúp nàng.”

Ngọc Nhiêu hờ hững nói: “Họa sư trong cung đa phần đều thích những thứ màu sắc rực rỡ, hoa lệ, Hoàng thượng nhìn dân nữ phỏng theo tranh của Thôi Bạch để vẽ chắc cũng biết rồi, dân nữ ắt hẳn là không hợp với họa sư trong cung.”

Y chăm chú nhìn bức tranh trên tường một lát rồi nói: “Nàng vẽ một đôi chim nhạn.” Sau đó liền chậm rãi cất tiếng ngâm: “Khuất bóng vạn tầng mây, ngàn non tuyết muộn, bóng lẻ về đâu chứ[5]? Chim nhạn là loài chim trung trinh, do đó lúc nào cũng thành đôi thành cặp.” Đoạn y cười, nói: “Tỷ tỷ của nàng mỗi khi tới Thái Bình hành cung đều ở tại Nghi Phù quán, nàng ấy rất thích hoa phù dung đấy.”

[5] Trích Mô ngư nhi - Nhạn khâu, Nguyên Hiếu Vấn. Dịch thơ: Điệp Luyến Hoa. Nguyên văn Hán Việt: Diểu vạn lý tằng vân, thiên sơn mộ tuyết, chích ảnh hướng thùy khứ? - ND.

Ngọc Nhiêu tới lúc này mới nở nụ cười tươi. “Dân nữ cũng thích loài chim trung trinh.”

Huyền Lăng thấy muội ấy nở nụ cười, bất giác dõi mắt nhìn chăm chú. “Cây trâm ngọc trên đầu nàng đẹp lắm. Có điều hình như nàng vừa trang điểm, chiếc bộ dao trẫm ban thưởng nàng không thích hay sao, cớ gì khi trẫm triệu kiến lại không cài?”

Tôi lo Huyền Lăng giận Ngọc Nhiêu, vội vàng nói: “Tiểu muội của thần thiếp vốn không thích những thứ đồ vàng, do đó mới không cài đấy thôi.” Tôi khẽ đẩy Ngọc Nhiêu một cái. “Hoàng thượng ban thưởng, muội còn chưa tạ ơn đấy.”

Ngọc Nhiêu hơi khom người một chút, nói giọng không tự ti, không kiêu ngạo: “Dân nữ quả đúng là không thích đồ vàng, hơn nữa hoa hải đường trên chiếc bộ dao đó là loài hoa mà tỷ tỷ dân nữ thích, dân nữ quyết sẽ không đụng đến.”

Huyền Lăng cười, nói: “Vui một mình chẳng bằng mọi người cùng vui, có đồ tốt chia sẻ cho nhau cũng không tệ chút nào.” Đoạn y vẫy tay gọi Lý Trường lại: “Đi lấy bức Thu phổ dung tân đồ của Thôi Bạch lại đây thưởng cho Chân tiểu thư.” Sau đó liền cười giải thích: “Bức tranh này lục đệ và cửu đệ của trẫm đều rất thích, lão lục thì vừa ý hoa phù dung, lão cửu thì thích chim nhạn, đã xin trẫm mấy lần rồi nhưng trẫm không cho đấy. Bây giờ trẫm thưởng nó cho nàng, bọn họ nhất định sẽ ghen tị lắm đây.”

Ngọc Nhiêu hơi ửng hồng đôi má, khom người tạ ơn.

Tôi bất giác nhớ lại việc Huyền Thanh trồng hoa sen khắp hồ để mừng sinh nhật mình năm nào, liền khẽ nở nụ cười mỉm. “Bức họa này quả là mang đầy ý vị, thần thiếp thật hy vọng sau này tiểu muội thành thân không phải đi xa, như thế hai tỷ muội qua lại với nhau cũng tiện, giống như cặp chim nhạn kia, bằng không tỷ muội phải xa nhau, vậy thì đâu còn gì là vui thú nữa.”

Huyền Lăng chỉ cười không nói, mấy ngày sau lại sai người ban tặng hai khối mực Lý Đình Khuê và mấy cuộn giấy Trừng Tâm Đường để Ngọc Nhiêu dùng vẽ tranh. Thấy Huyền Lăng như vậy, tôi vốn còn có chút lo lắng, nhưng khi Huyền Lăng tới cũng chỉ thỉnh thoảng mới gọi Ngọc Nhiêu tới rồi lẳng lặng nhìn muội ấy pha trà, vẽ tranh, thường xuyên không nói một lời, giống như là đang ngắm cảnh từ xa. Ngọc Nhiêu thì lại càng không nói gì với y trước, chỉ làm việc của mình. Ngoài cửa sổ, lá chuối mơn mởn xanh biếc, thỉnh thoảng lại có mấy cánh hoa màu hồng lộ ra dưới ánh mặt trời. Thời gian cứ thế trôi qua, ba người chúng tôi cùng ngồi với nhau trong tĩnh lặng, thành ra cũng không cảm thấy thời gian trôi quá nhanh.

Nửa tháng sau, lễ phong phi của Hồ Uẩn Dung rốt cuộc đã được cử hành. Thân thể Trinh Quý tần lúc này đã khá hơn một chút, có thể miễn cưỡng tới tham dự. Tôi đứng nghiêm trang một bên, lén quay sang rỉ tai hỏi Hoán Bích: “Việc muội bế nhị Hoàng tử tới trộm rồng tráo phượng hôm đó, Trinh Quý tần không nghi ngờ gì cả chứ?”

Hoán Bích đáp: “Dạ không. Nô tỳ cũng đã đâm vào mu bàn chân tam điện hạ hai cái giống hệt như nhị điện hạ rồi, hơn nữa quãng thời gian đó Trinh Quý tần đang ốm nên chẳng để tâm tới được, đợi khi đón nhị điện hạ về thì vết thương đã lành hẳn rồi.” Muội ấy vừa nói vừa đưa tay xoa ngực. “Hôm đó Lý công công tới đón tam điện hạ, vừa khéo hai vị điện hạ đều đang ngủ ở chỗ Đức phi. Nô tỳ thấy mặt ông ấy đầy nét sầu lo, nói là phải tích huyết nghiệm thân gì đó, trong lòng thầm biết là không hay, liền thừa dịp không ai chú ý bọc nhị điện hạ vào chiếc tã mà nương nương đã tự tay làm. Dù sao hai vị điện hạ trông cũng giống nhau, lại đều đang ngủ, chỉ cần nô tỳ ôm chặt một chút là sẽ khó có ai phát giác ra được.”

Tôi thở dài, nói: “May mà muội nhanh trí, lại còn nhắc Trinh Quý tần tránh mặt đi, bằng không nhị điện hạ mà khóc lên, Trinh Quý tần thân là mẹ ruột ắt sẽ phát hiện ra ngay.”

Hoán Bích nói: “Khi đó trái tim nô tỳ cũng nảy lên tới tận cổ họng rồi ấy chứ!” Sau đó lại đưa mắt liếc về phía Hoàng hậu lúc này đang ngồi nghiêm trang trên ghế phượng. “Lần này coi như may cho Hoàng hậu, đã gây ra nhiều chuyện thị phi như thế mà Hoàng thượng còn tha cho nàng ta, thực chẳng ra sao cả.”

Huyền Lăng đang ngồi bên cạnh Hoàng hậu tỏ ra hết sức hờ hững, xem ra quan hệ giữa hai bên đã bắt đầu xuất hiện vết rạn nứt rồi. Tôi thầm cười lạnh một tiếng, có lẽ bọn họ vốn đã chẳng gần gũi gì, hoặc cũng có thể vết rạn nứt ấy đã xuất hiện từ lâu lắm rồi, chỉ là bây giờ lại càng sâu sắc thêm mà thôi. Tôi mỉm cười, khẽ lắc đầu, ngoài mặt thì vẫn ra vẻ rất mực kính cẩn, khẽ nói: “Hoàng thượng không phải là không phân biệt được đúng sai, chẳng qua là bị tình cảm làm vướng bận, tâm bất do kỷ đó thôi.”

Tôi thầm thở dài một hơi, tâm tư bất giác lại càng nặng thêm mấy phần.

Đợi khi nghi lễ xong xuôi, các phi tần theo lệ đều phải tới Yến Hy điện chúc mừng Hồ Uẩn Dung. Suốt nửa ngày trời, hậu cung đều vô cùng náo nhiệt, tôi đặc biệt đợi lúc mọi người đã rời khỏi Yến Hy điện hết mới dắt theo Cận Tịch tới chúc mừng.

Hồ Uẩn Dung lúc này đang đứng dưới mái hiên nhìn cung nữ thả diều, thấy tôi tới thì bèn vẫy tay cười, nói: “Thần thiếp ngỡ là Thục phi nương nương không chịu nể mặt, ai ai cũng tới mà duy chỉ mình nương nương không tới, đang định qua bên đó thỉnh tội đây này.”

“Muội muội nói đùa rồi.” Tôi bước đến nắm lấy bàn tay nàng ta. “Muội trước giờ vẫn luôn gần gũi với Đức phi tỷ tỷ, cũng phải thông cảm cho ta một chút, bây giờ Dư Nhuận đang ở trong cung của ta, ta nhất định phải vạn phần cẩn thận mới được, bằng không thực là có lỗi với tỷ ấy.” Hồ Uẩn Dung nghe thế liền khẽ gật đầu. “Nghe nói tứ điện hạ bây giờ đã khỏe mạnh hơn lúc mới sinh nhiều rồi, đều là nhờ công của Thục phi cả.”

Tôi quan sát bộ cung trang rực rỡ trên người nàng ta, khẽ cười, nói: “Lần này muội được phong làm Mẫn Phi, ta cũng muốn tới sớm để chúc mừng muội lắm chứ, chỉ là vừa rồi chỗ muội nhất định là đông người náo nhiệt, ta muốn tâm sự đôi câu lại sợ muội muội không có thời gian để nghe. Ta thực tình đầy lòng thương muội muội mà không dám nói, thứ nhất là sợ muội muội chẳng thèm, vì muội vốn là người được Thái hậu và Hoàng thượng thương yêu nhất rồi; thứ hai là ta cũng sợ có người nói bậy sau lưng là ta thiên vị, chỉ biết nương theo ý của Thái hậu và Hoàng thượng mà tới bợ đỡ muội muội, thành ra một phen chân tâm chẳng dám bộc lộ ra ngoài.”

Hồ Uẩn Dung cùng ngồi xuống với tôi, lại cười tủm tỉm kêu thị nữ pha trà dâng lên, nói: “Sau chuyện ngày hôm đó, nếu muội còn không rõ tỷ tỷ thật lòng thương muội thì thực là chẳng biết tốt xấu gì. Ai mà ngờ nổi vị biểu tỷ đó của muội lại chẳng thương muội được như tỷ tỷ, còn bày kế hãm hại muội nữa, thực là đáng buồn.” Nói rồi nàng ta nắm lấy bàn tay tôi, nở một nụ cười đầy ý vị. “Ngày tháng trong cung còn dài, sau này muội còn phải nhờ cậy vào tỷ tỷ nhiều lắm.”

Tôi khẽ cười, nói: “Muội muội thông minh, mẫn tiệp, Hoàng thượng đã đặc biệt vì thế mà đổi phong hiệu cho muội, niềm vinh hạnh như thế trong cung thực là chẳng có ai hơn. Ta sau này còn mong được muội muội giúp đỡ ấy chứ, bằng không một mình quản lý lục cung thì thực là nhạt nhẽo lắm.” Sau đó lại khẽ cất tiếng thở dài. “Nếu muội muội sớm ngày trở thành quý phi, ta hẳn sẽ có thể buông bỏ gánh nặng đang mang hiện giờ, việc chăm sóc mấy đứa bé dù sao cũng quan trọng hơn.”

“Tỷ tỷ nói đùa rồi.” Mẫn Phi nở nụ cười mỉm, cặp mắt lóng lánh đung đưa. “Muội đâu có xứng làm quý phi, ngay đến Hoàng hậu biểu tỷ cũng cảm thấy muội chẳng có tài cán gì, chỉ có thể dừng lại ở ngôi phi này thôi. Tỷ tỷ nói Hoàng thượng đổi phong hiệu của muội là niềm vinh hạnh lớn lao, nhưng muội thực sự thích chữ xương kia hơn nhiều.”

Tôi cười tủm tỉm, nói: “Chữ xương đó của muội muội tất nhiên là rất tốt, nhưng thần điểu Phát Minh thoạt nhìn thật quá giống phượng hoàng, khó tránh khỏi có người nảy lòng ngờ vực.”

“Ồ?” Nàng ta tươi cười rạng rỡ, đưa tay chỉnh lại chiếc bộ dao đính hồng ngọc cài trên đầu. “Trong lòng tỷ tỷ chẳng lẽ không có một chút nghi ngờ nào ư?”

Tôi cười nhạt, nói: “Sao có thể chứ! Muội muội hẳn cũng biết bây giờ cha ta vẫn còn là tội thần ở mãi đất Xuyên Thục, gia thế thấp kém, được Hoàng thượng thương yêu cho làm thục phi thế này đã là may mắn lắm rồi, lúc nào cũng phải cố gắng giữ mối thiện duyên, đâu có dám nghi ngờ gì muội muội. Hơn nữa hôm đó ta bị Quản thị vu cáo, muội muội còn đứng ra nói giúp cho mấy lần, trong lòng ta đến bây giờ vẫn luôn ghi nhớ kĩ.”

Hồ Uẩn Dung lén thở phào một hơi, sau đó mới chậm rãi cười, nói: “Ngày đó cung nữ của An thị làm kinh động tới Đức phi tỷ tỷ, vì thế mới khiến Đức phi tỷ tỷ chịu cơn kinh hãi bên ngoài Chiêu Dương điện, cuối cùng thì khó đẻ. Nghe nói vì việc này mà tỷ tỷ từng tát con tiện nhân An thị đó một cái ở Đường Lê cung, đúng không?”

Tôi khẽ nhấp một ngụm trà, nói: “Khi đó ta quả thực có phần nôn nóng quá, cũng bởi toàn bộ tâm tư đều đặt trên người Đức phi tỷ tỷ cả.”

“Việc này không thể trách tỷ tỷ được. Tỷ tỷ cứ nhìn cái bộ dạng đốn mạt của cô ta thường ngày mà xem, thực là đáng khinh quá mức, nếu đổi lại là muội thì không chỉ đơn giản là một cái tát thế thôi đâu.” Nàng ta thoáng lộ vẻ đắc ý. “Từ sau khi Đức phi qua đời, Hoàng hậu đối đãi với cô ta cũng kém ngày xưa nhiều rồi.”

Tôi mỉm cười khe khẽ, sai Cận Tịch mở hộp quà mang theo ra, bên trong là một cây tuyết sâm rất lớn, áng chừng phải to ngang cổ tay của một nữ tử. “Vừa rồi đông người không tiện, cây tuyết sâm ngàn năm này là để cho muội muội bồi bổ thân thể. Mong là muội muội có thể sớm ngày sinh hạ hoàng tử cho Hoàng thượng, đến khi đó ta sẽ lại tới đây chúc mừng Mẫn Quý phi.”

Ánh mắt Hồ Uẩn Dung bất giác trở nên ảm đạm, ngay sau đó đã lại nở nụ cười tươi. “Đa tạ tỷ tỷ.” Rồi nàng ta khẽ thở dài một tiếng. “Tiếc là Ôn thái y đã vì mấy chuyện vu vơ không căn cứ kia mà tinh thần suy sụp, bằng không có y trợ giúp điều dưỡng thân thể, Uẩn Dung hẳn sẽ sớm ngày được như ước nguyện.”

Tôi ngẩng đầu nhìn sắc trời một chút, rồi cũng thở dài. “Vốn muốn nói chuyện với muội muội lâu một chút, tiếc là đã đến thời gian ta phải tới cung của Hoàng hậu rồi. Gần đây trong cung xảy ra mấy chuyện không lớn không nhỏ, ta cần đi bẩm báo với Hoàng hậu một tiếng.”

Hồ Uẩn Dung cười, nói: “Tỷ tỷ kiếm cớ gạt muội đấy sao? Ai mà không biết biểu ca đã giao phó mọi việc trong cung cho tỷ, bảo cô ta chú ý nghỉ ngơi, tỷ đâu cần phải để ý tới cô ta làm gì nữa.” Sau đó lại cầm tay tôi, nói tiếp: “Trong cung của muội còn có Vân Sơn Ngọc Tiêm trà mà Hoàng thượng vừa ban cho đấy, tỷ tỷ hãy ở lại đây uống trà nói chuyện với muội đi mà.”

Tôi làm ra vẻ rất luyến tiếc: “Trà trong cung của muội muội tất nhiên phải là hạng nhất rồi. Nghe nói năm nay mưa nhiều, Vân Sơn Ngọc Tiêm trà tổng cộng mới tiến cung có hơn một cân, không ngờ chỗ muội muội đã có rồi.” Hơi dừng một chút, tôi nói vẻ hết cách: “Chỉ là cô ta dù tệ đến mấy thì cũng là nữ tử tôn quý nhất trong cung, Hoàng thượng cũng không thể không nể mặt cô ta được, nói gì thì nói, Thuần Nguyên Hoàng hậu cũng là tỷ tỷ ruột của cô ta, mà Thái hậu lại là người nhà họ Chu nữa, Hoàng thượng tuy đã nói như vậy nhưng ta cũng không thể cho là thật được. Ta xin thật lòng khuyên muội muội một câu này, xét cho cùng cô ta vẫn là hoàng hậu.”

Những lời cuối cùng trước khi rời đi, tôi nói bằng giọng chân thành thấm thía, chẳng rõ Hồ Uẩn Dung có nghe lọt tai hay không, chỉ im lặng tiễn tôi đi mà không nói gì.

Sau khi về cung, Hoán Bích lén hỏi tôi: “Mấy lời khuyên của tiểu thư không biết Mẫn Phi có nghe lọt tai không nhỉ?”

“Ai mà biết được, dù sao sau chuyện lần trước, hai bên cũng đã kết mối thù sâu rồi, mà thường ngày cô ta lại luôn tỏ ra cao ngạo như thế nữa.”

Hoán Bích mím môi cười, nói: “Chỉ sợ tiểu thư càng khuyên cô ta lại càng bất mãn với Hoàng hậu hơn thôi.”

Vừa khéo lúc này Vệ Lâm tới thăm mạch bình an, tôi tranh thủ lúc y thăm mạch, khẽ hỏi: “Ôn thái y đã đỡ hơn chút nào chưa?”

Vệ Lâm thấp giọng đáp: “Tinh thần của Ôn thái y vẫn luôn không được tốt, cả ngày mượn rượu giải sầu, thêm vào đó nhát dao kia cũng không nhẹ, đến bây giờ tình hình vẫn tệ vô cùng.” Hơi dừng một chút, y lại tiếp: “Quan trọng nhất là cái tâm khí ngày xưa đã chẳng còn.”

Tôi buồn bã lắc đầu. “Ngươi hãy giúp bản cung để ý tới y nhiều một chút.”

Vệ Lâm đáp “vâng” một tiếng, tôi đứng dậy đi tới trước cửa sổ, nhìn những phiến lá chuối xanh biếc bên ngoài, nhẹ nhàng cất tiếng: “Ôn Thực Sơ bị như vậy rồi, bây giờ bên cạnh bản cung chỉ còn mình ngươi là đáng tin cậy thôi.”

Vệ Lâm khom người, nói: “Nương nương quá khen rồi, vi thần nhất định sẽ hết lòng hết sức.”

Tôi nói: “Ngươi có tấm lòng như vậy là tốt nhất rồi, bản cung ắt sẽ không bạc đãi ngươi đâu. Đợi vài ngày nữa ngươi hãy bảo Ôn Thực Sơ tới đây thăm mạch bình an cho tứ điện hạ.” Tôi cố ý hạ thấp giọng nói: “Chắc ngươi biết rõ nên làm thế nào cho ổn thỏa.”

Y đáp “vâng” một tiếng, cáo từ rời đi.

Khi nhìn thấy dung mạo Ôn Thực Sơ, tôi không kìm được hít vào một hơi khí lạnh, con người thường ngày vẫn luôn hiền hòa, đôn hậu đó giờ đây không ngờ đã tiều tụy tới mức này. Chỉ thấy hắn lúc này hai mắt hõm sâu, gầy đến mức như chỉ còn da bọc xương vậy, thực khác hẳn với trước kia. Hắn vốn bị thương nặng vừa lành, thế mà toàn thân lại nồng nặc mùi rượu, khiến người ta không kìm được phải lùi về phía sau mấy bước.

Tôi thấy hắn như vậy, lại nghĩ tới cái chết của My Trang, còn chưa nói gì thì nước mắt đã tuôn rơi lã chã.