Hậu Cung Chân Hoàn Truyện

Quyển 8 - Chương 3: Chương 2 xuân đến người đi lòng thổn thức




Suốt cả mùa thu và mùa đông năm ấy, những làn gió lạnh đều như ấm lên vì vô số những lời rì rầm bàn luận sục sôi, đó là những bóng đao bóng kiếm thấp thoáng trong từng câu nói, bên trên thì vương vất mùi thơm của phấn son. Trong thời gian này, dường như mỗi làn gió thổi qua đều mang theo vô số lời đồn đoán về ngôi hoàng hậu, mà Hồ Uẩn Dung vốn xuất thân cao quý lại rất được ân sủng nên nhiều người đã bắt đầu ngầm cho rằng nàng ta sẽ được ngồi lên vị trí kia.

Để xua tan những lời đoán mò vô căn cứ, Hồ Uẩn Dung từng lấy miếng ngọc bích kia ra cho mọi người cùng ngắm nghía, lại cẩn thận giải thích: “Bức hình trên miếng ngọc bích này là thần điểu Phát Minh ở phương Đông, có ý nói rằng bản cung dù có phúc đến mấy thì cùng lắm cũng chỉ ngồi được tới ngôi quý phi thôi, quả thực không có duyên với ngôi hậu.”

Xuân Tần cầm miếng ngọc trên tay ngắm nghía cẩn thận một hồi, tỏ vẻ chân thành nói: “Nương nương nói đùa rồi, tần thiếp thấy đây rõ ràng là phượng hoàng chứ đâu phải thần điểu Phát Minh. Phượng vốn ứng vào nữ tử tôn quý nhất trên đời, phúc phận của nương nương sao có thể chỉ dừng ở ngôi quý phi được chứ!”

Nghe Xuân Tần nói ra lời kinh người này, Vận Quý tần vội ghé tới xem, ngạc nhiên nói: “Quả đúng thế thật, ai bảo đây là thần điểu Phát Minh, rõ ràng là phượng hoàng mà. Nương nương nghe ai nói bức hình trên miếng ngọc bích này là thần điểu Phát Minh vậy?”

Hồ Uẩn Dung cũng hết sức bất ngờ, vội vàng nói: “Là một vị đạo sĩ mà bản cung quen hồi nhỏ. Ông ta nói đây là thần điểu Phát Minh ở phương Đông, ứng vào nữ tử cực kỳ tôn quý giữa chốn nhân gian.”

“Lão đạo sĩ đó chắc bị ngớ ngẩn rồi, đã là nữ tử cực kỳ tôn quý thì một con thần điểu Phát Minh làm sao so sánh được, nhất định là ông ta đã già nên lẩm cẩm nhìn nhầm, đây ắt là phượng hoàng không sai được.” Vận Quý tần vừa nói vừa lộ rõ vẻ xem thường.

Xuân Tần vội vàng đưa tay bịt miệng nàng ta lại, nói: “Các đạo sĩ đều tiên phong đạo cốt, ăn nói cực kỳ có thâm ý, ắt không bao giờ lẩm cẩm đâu. Hồi phu nhân còn nhỏ thì Thuần Nguyên Hoàng hậu đang làm chủ trung cung, như thế tức là phượng hoàng đã chỉ người khác rồi, bức hình trên miếng ngọc bích của phu nhân chỉ có thể được nói thành thần điểu Phát Minh thôi. Có điều vị tiên sư đó nhất định có tài tiên tri, biết là nương nương sau này phú quý, do vậy mới nói là ứng vào nữ tử cực kỳ tôn quý giữa chốn nhân gian, còn về việc lời nói trước sau mâu thuẫn thì ắt là thiên cơ bất khả lộ. Về sau Thuần Nguyên Hoàng hậu qua đời, Quý phi lên làm chủ trung cung, bây giờ hậu cung lại xao động, có lẽ sau khi phế hậu thì thần điểu Phát Minh cũng sẽ trở nên tôn quý như phượng hoàng thôi.”

Mọi người đều nửa tin nửa ngờ, thế nhưng bức hình trên miếng ngọc bích đó rõ ràng càng nhìn càng thấy giống phượng hoàng, có người khẽ cười, nói: “Xuân Tần xuất thân từ vương phủ, đúng là có chút kiến thức.”

Hồ Uẩn Dung mỉm cười không nói gì, Xuân Tần thoáng lộ vẻ đắc ý. “Khi tần thiếp còn ở trong vương phủ cũng thường xuyên thấy Kỳ Sơn Vương trò chuyện với các vị tiên sư, thoạt tiên nghe lời họ nói thì câu trước câu sau chẳng liên quan gì tới nhau cả, ấy vậy mà chờ đến sau này không ngờ lại đều ứng nghiệm, qua đó đủ thấy hạng người phàm tục như chúng ta kiến thức đều nông cạn vô cùng, những lời đó phải là nhân vật có đạo hạnh thì mới hiểu được.”

Khi Hoa Nghi kể lại những lời này cho tôi thì tôi đang thành tâm kính Phật một nén nhang thơm, trong lòng thầm tưởng niệm thai nhi còn chưa ra đời đã phải chết thảm trong bụng mình. Chờ Hoa Nghi kể xong tôi liền đi rửa sạch hai tay, sau đó mới chậm rãi nói: “Hoa Nghi, khi còn ở dân gian, chắc muội đã từng nghe câu chuyện chim sẻ bay lên cành cao biến thành phượng hoàng rồi đúng không? Ngay đến chim sẻ mà còn có thể biến được như thế, việc này đối với thần điểu Phát Minh mà nói thực sự là quá dễ dàng.”

Hoa Nghi đưa tay chống cằm, nói: “Nô tỳ chỉ không phục Vận Quý tần thôi, khi Hoàng hậu đắc thế thì đi theo Hoàng hậu, bây giờ Hoàng hậu thất thế lại lập tức chạy qua bợ đỡ Trang Mẫn Phu nhân.”

Vừa khéo lúc này Cận Tịch đi vào thay hoa quả cúng trên ban thờ, nghe thấy thế thì bất giác cười thành tiếng, chỉ tay về phía những ngọn cỏ héo úa đang không ngừng đung đưa theo gió bên ngoài cửa sổ, nói: “Nếu trên đời không có loại người như nàng ta thì câu nói “cỏ đầu tường gió chiều nào theo chiều đó” biết phải dùng với ai bây giờ?”

Hoa Nghi không kìm được bật cười khúc khích, không nói gì thêm.

Sau khi Hoàng hậu bị cấm túc, Vinh Tần xưa nay vốn chăm chỉ lui tới Chiêu Dương điện bỗng trở nên an phận hơn rất nhiều. Hôm ấy, Khánh Quý tần Chu Bội khi tới thỉnh an tôi đã cười, nói: “Khi xưa nhìn nàng ta cưỡi ngựa xông vào Minh uyển thì xem chừng là một người rất gan dạ, thế mà bây giờ Hoàng hậu bị cấm túc, không ngờ nàng ta lại không nói một lời.”

Khi nói những lời này, Chu Bội thoáng lộ vẻ đắc ý, hiển nhiên sau khi Vinh Tần đắc sủng, sự sủng ái Huyền Lăng dành cho nàng ta đã giảm đi khá nhiều. Bây giờ Vinh Tần an phận, số lần Chu Bội được thị tẩm tăng hẳn lên, nàng ta đắc ý hay sung sướng kỳ thực cũng là lẽ thường tình. Tôi đưa mắt quan sát nàng ta một chút, vì trong Nhu Nghi điện ấm áp như mùa xuân nên lúc này nàng ta đã cởi áo ngoài, chỉ mặc một chiếc áo dài thêu hình những bông hoa muôn màu muôn vẻ, trông diễm lệ vô cùng, mái tóc được búi theo kiểu Nghênh xuân kế, bên trên cài xéo một cây thoa bằng vàng đính mấy dải tua hồng ngọc không ngớt đung đưa, xung quanh lại được tô điểm bằng không ít món đồ châu ngọc khác, quý phái mười phần.

Kỳ thực, đối với những nữ tử trong chốn thâm cung mà nói, chỉ khi nào nhận được sự sủng ái của bậc đế vương thì dung nhan mới có thể rạng rỡ nhường này.

Tôi khẽ nở nụ cười mỉm, ôn tồn cất tiếng dặn dò: “Bất kể là khi hả dạ hay là khi ngã lòng, cứ phải yên phận mà sống qua ngày thì sự ân sủng mới có thể giữ vững lâu dài được. Kỳ thực Hoàng thượng cũng không thích những người hay gây chuyện thị phi đâu.”

Chu Bội ngoan ngoãn đáp “vâng” một tiếng, cụp mắt xuống, dường như có điều suy tư. Một lát sau nàng ta lại cười tươi, nói: “Nương nương nên đi thay y phục rồi, trong bữa tiệc toàn cung tụ họp đêm nay, nghe nói mấy vị vương gia cũng vào cung đấy.”

Phải rồi, hôm nay là gia yến nhân dịp tết Nguyên Tiêu. Tôi ngoảnh đầu nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy sắc trời âm u nặng nề, bèn khẽ nói: “Hình như tuyết sắp rơi rồi, nếu Tĩnh phi vào cung thì phải cẩn thận mới được.”

Chu Bội nghe thấy thế liền cười, nói: “Dạ phải, tính ra thì Tĩnh phi cũng sắp sinh đến nơi rồi.”

Đêm Nguyên Tiêu trong Tử Áo Thánh vô cùng náo nhiệt, khắp nơi đều treo đèn hoa rực rỡ, trùng trùng lầu các sáng rực như sao, thực chẳng khác gì một dải Ngân Hà treo ngược vô cùng bắt mắt, ngay đến bầu không khí cũng như ngợp đầy một nỗi mừng vui khó diễn tả bằng lời.

Dịp Nguyên Tiêu hằng năm vốn chính là ngày cát tường viên mãn, các phi tần trong cung trên đến quý phi, dưới đến canh y, cung nhân... không có ai là không trang điểm cẩn thận, khắp nơi đều ngợp đầy lụa là gấm vóc, rực rỡ muôn màu, khung cảnh thực tươi đẹp khiến lòng người say đắm. Sau khi mọi người yên vị, các cung nhân nối đuôi nhau đi vào, dâng lên đủ sơn hào hải vị, ngọc lộ quỳnh tương, kèm theo đó là những điệu ca múa tưng bừng, cả Trọng Hoa điện chìm trong một bầu không khí tột độ vui tươi.

Trong điện có đặt mấy chậu thủy tiên cùng sơn trà, một loại thì trắng như tuyết xuân, một loại thì đỏ tựa vầng dương thắm, được hơi ấm thổi vào thì lại càng ngát hương thơm, thấm vào lòng người. Lúc này, cùng ngồi bên dưới chậu sơn trà Bảo Châu nở rộ nhất trong điện chính là ba phu thê Thanh Hà Vương. Ngọc Ẩn và Vưu Tĩnh Nhàn một trái một phải ngồi bên cạnh Huyền Thanh. Y là một nam tử hào hoa xuất chúng, tài năng phi phàm, bọn họ thì là hai nàng trắc phi dịu dàng xinh đẹp, nhìn từ xa giống hệt hai bông hoa cùng nở trên một cành, vô cùng hòa hợp. Lúc này Vưu Tĩnh Nhàn đã sắp tới ngày sinh nở, bụng nhô cao hẳn lên, bộ cung trang màu đỏ thêu hình hoa mẫu đơn lại càng làm tôn lên làn da trắng ngần cùng thân hình hơi đẫy đà của nàng ta, còn Ngọc Ẩn ở phía bên kia thì diện một chiếc áo gấm màu tím thêu hình bướm vờn hoa, rõ ràng là thua kém rất nhiều. Mỗi khi các thị nữ mang rượu hay đồ ăn tới thì đều cung kính dâng lên Tĩnh phi trước. Lòng tôi bất giác giá lạnh, chỉ từ cảnh này là đủ biết địa vị của Ngọc Ẩn và Vưu Tĩnh Nhàn ở phủ Thanh Hà Vương hơn kém nhau thế nào rồi, với tâm tính của Ngọc Ẩn thì cuộc sống ắt chẳng thể nào dễ chịu.

Khi tôi đang trầm ngâm suy nghĩ thì Dư Hàm trong lòng bỗng ghé đến bên tai tôi khẽ nói: “Tĩnh Nhàn thẩm mẫu hôm nay đẹp quá!” Sự đắc ý và thất ý ngay đến trẻ con cũng có thể phân biệt rõ ràng như thế, đám người vốn quen thói nịnh nọt bợ đỡ trong cung tất nhiên khỏi cần phải nói làm gì. Tôi đưa tay khẽ xoa má Dư Hàm, nói: “Nhị di mẫu hôm nay cũng rất đẹp mà.”

Dư Hàm bật cười khúc khích, cất giọng non nớt nói: “Thẩm mẫu cười trông rất đẹp, di mẫu thì ít cười lắm.” Rồi nó đột nhiên trượt xuống khỏi đùi tôi, chạy đến bên cạnh Vưu Tĩnh Nhàn kéo tay nàng ta nói nói cười cười không ngớt, còn tò mò đưa tay lên sờ bụng nàng ta.

Huyền Lăng thấy vậy thì bật cười, ghé đến bên tai tôi, khẽ nói: “Dư Hàm còn nhỏ mà đã thích đứa bé trong bụng Vưu thị như thế rồi, xem ra hai đứa rất có duyên với nhau đấy.”

Nghe thấy lời này, hai tai tôi bất giác nóng lên, nhưng miệng thì vẫn cười hờ hững. “Bọn chúng là đường huynh đường đệ với nhau, tất nhiên là có duyên rồi.” Lời còn chưa dứt, chợt nghe mấy tiếng “tưng tưng” vang lên không ngớt, tôi nhìn đi theo hướng phát ra âm thanh thì thấy Dư Hàm đang nghịch một chiếc đàn không[1] của nhạc sư, hết sức vui vẻ.

[1] Tên một loại đàn cổ, có nhiều dây, loại ít thì có năm dây, loại nhiều nhất là có hai mươi lăm dây - ND.

“Cẩn thận kẻo đứt tay đấy.” Huyền Thanh vội bế Dư Hàm vào lòng, cẩn thận nhìn kĩ, thấy thằng bé không sao thì mới cười, nói: “Nếu cháu thích đàn không, cứ bảo nhạc sư gảy đàn cho nghe là được rồi.”

Tĩnh phi mỉm cười điềm đạm, đưa tay tới nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn của Dư Hàm. “Hàm Nhi thích đàn không đúng không, thẩm mẫu gảy cho con nghe nhé?”

Dư Hàm vốn còn nhỏ, lại rất thích Vưu Tĩnh Nhàn, lập tức vui mừng vỗ tay đồng ý ngay.

Vưu Tĩnh Nhàn thướt tha đứng dậy, chiếc váy dài màu đỏ đung đưa theo từng bước chân, khuôn mặt tròn xoe tựa như vầng trăng ngày rằm toát ra một vẻ đẹp thuần khiết khó mà dùng lời miêu tả.

Nàng ta dùng tay trái đỡ lấy chiếc đàn không màu đen nạm vàng hai mươi lăm dây, tay phải thì đưa tới thử dây đàn một chút, sau đó khẽ xốc tay áo lên, bắt đầu gảy đàn. Khi tiếng đàn đầu tiên vang lên, lập tức như có một làn gió mát thổi tới dưới ánh trăng miên man dìu dịu, lại một tiếng đàn nữa vang lên, đâu đây như có một nhành ngọc lan đang chậm rãi nở hoa trong gió đêm, hứng sương đêm lành lạnh, lẳng lặng khoe sắc dưới ánh trăng heo hắt. Có lúc những sợi dây đàn được gảy dồn dập, hệt như những làn gió xuân ấm áp không ngớt thổi về, trong vườn trăm hoa đua sắc ngợp đầy sắc xuân, dường như còn có thể nghe thấy tiếng chim ca ríu rít, oanh yến hót mừng. Một hồi lâu sau, âm thanh bắt đầu trùng thoáng, để lộ ra những nét tiêu điều, rồi thì mưa lạnh đổ về, ngấm sâu vào tận trong xương tủy, trăm hoa đều rụng hết, cảnh sắc trở nên úa tàn. Sau mấy phen lặp lại, đến trái tim người nghe cũng như chùng hẳn xuống, ngợp trong một nỗi cô quạnh tịch liêu. Chờ khi tiếng đàn lại một lần nữa trở nên sôi nổi, ánh dương ấm áp tức thì quay trở lại nhân gian, nhành ngọc lan kia cũng mừng vui khoe sắc, phong thái phi phàm. Những người đang có mặt chừng như đều ngửi thấy hương hoa ngọc lan vương vất đâu đó, tâm trạng bất giác đắm say, vô cùng thư thái, không ai ngờ được giữa khung cảnh úa tàn hiện tại, nhành hoa kia vẫn có thể nở đẹp như thế, còn tỏa hương thầm đi khắp nơi. Khi mọi người còn đang đắm chìm trong sự ngọt ngào và thư thái ấy, tiếng đàn không hóa ra đã dừng lại tự lúc nào, chỉ còn lại chút dư âm vảng vất nhưng vẫn đủ khiến người ta mê say.

Vưu Tĩnh Nhàn hơi khom người, thần thái đầy vẻ yên bình và thỏa mãn, hai mắt thì dịu dàng nhìn về phía Huyền Thanh, dung mạo dường như lại xinh đẹp hơn trước mấy phần.

Huyền Thanh gật đầu, nói: “So với trước đây đã tiến bộ thêm một chút, nhưng ta dặn nàng rồi cơ mà, thường ngày phải chú ý dưỡng thai, đừng chăm chăm để tâm luyện đàn như thế.”

Vưu Tĩnh Nhàn bất giác ửng hồng hai má. “Thiếp thân biết là vương gia thích nghe, mà luyện tập một chút cũng đâu có tốn bao nhiêu sức lực.” Nàng ta cúi đầu khẽ vuốt ve cái bụng đã nhô cao của mình, dịu dàng cười nói. “Đứa bé hình như cũng rất thích nghe đấy.”

Huyền Thanh dịu dàng nhìn cái bụng của nàng ta, ôn tồn nói: “Nàng cũng mệt rồi, mau ngồi xuống nghỉ ngơi đi.”

Vưu Tĩnh Nhàn khẽ mỉm cười, đưa mắt nhìn qua phía Ngọc Ẩn ở bên cạnh. “Tỷ tỷ xin hãy tránh đường một chút.”

Ngọc Ẩn vốn đang cầm chén rượu ngơ ngẩn, bỗng phát hiện mình bây giờ đang chắn đường đi của Vưu Tĩnh Nhàn, đành đứng dậy, nói: “Tĩnh phi nhớ cẩn thận...” Giọng nói ấy nghe yếu ớt vô cùng, rất nhanh đã bị tiếng nhạc xung quanh nhấn chìm, chẳng thể nghe thấy rõ.

Sau khi cơm no rượu say, các cung nhân lại lần lượt dâng lên các thức điểm tâm, tất thảy đều là thứ mà các phi tần thường ngày thích ăn, chẳng hạn như canh tổ yến kim ti của Đoan Quý phi, rượu anh đào của Đức phi, canh tổ yến táo đỏ của Hồ Uẩn Dung, của tôi với Dư Hàm thì đều là canh hoa toàn phúc thường ngày hay uống.

Trong sách Kim quỹ yếu lược của Trương Trọng Cảnh thời Hán có ghi lại, canh hoa toàn phúc được dùng hoa toàn phúc, mật ong và tân giáng để nấu thành, chủ trị chứng khí huyết ứ đọng ở gan, chẳng những thơm mát mà còn rất có ích cho thân thể. Khi My Trang còn tại thế, Ôn Thực Sơ thường xuyên dùng canh này để tẩm bổ cho tỷ ấy. Đức phi vừa nhìn thấy liền không kìm được khẽ thở dài. “Vừa nhìn thấy canh này ta liền nhớ đến tình cảnh khi Huệ Nghi Quý phi còn tại thế, Thục phi thực đã có lòng rồi.”

Tôi cầm thìa khuấy nhẹ bát canh, đồng thời đưa tay xoa nhẹ mái tóc mềm mại trên đầu Dư Nhuận. “Nhuận Nhi giờ còn nhỏ, chờ nó lớn thêm chút nữa muội sẽ dặn dò nó phải ăn những thứ mà mẹ ruột nó thích nhiều một chút.” Hơi dừng lại, tôi khẽ cười, nói tiếp: “Tỷ tỷ còn chưa quen với thứ mùi này đấy thôi, đến khi ăn quen rồi sẽ rất có lợi cho thân thể đấy.”

Đức phi cười, nói: “Y thuật của Ôn thái y, ta tất nhiên là vô cùng tin tưởng rồi.”

Tôi đang định uống canh, chợt nhìn thấy Dư Hàm nấp sau cây cột nạm hình rồng cuộn không chịu ra ngoài, vội vàng vẫy tay gọi nó: “Hàm Nhi, con nấp ở đó làm gì đấy?”

Bình Nương nôn nóng đến nỗi trên mũi tuôn đầy mồ hôi, cười gượng, nói: “Dạ, bẩm nương nương, điện hạ nghịch ngợm, nhất quyết không chịu uống canh.”

Dư Hàm thò nửa cái đầu ra từ sau cây cột, lè lưỡi, nói: “Nhi thần không uống đâu, canh này ngán lắm, nhi thần không thích.”

Bình Nương không ngừng dỗ dành: “Điện hạ mau uống đi mà, để nguội mới uống sẽ có hại cho dạ dày đấy.”

Dư Hàm một mực lắc đầu không chịu, còn chạy lòng vòng phía sau cây cột. Bình Nương nôn nóng đến nỗi luống cuống chân tay, gọi váng lên “tiểu tổ tông” không ngớt lời. Thấy Dư Hàm nghịch ngợm như thế, Dư Nhuận vô cùng thích thú, cặp mắt đen láy mở to nhìn chằm chằm vào ca ca, miệng thì cười khúc khích không ngừng. Các phi tần cũng đều thấy thú vị, chỉ duy có Vinh Tần vốn ngồi bên cạnh Xuân Tần là không nói năng gì, còn nhìn chăm chăm về hướng đó như Dư Nhuận, sắc mặt nhợt nhạt đối lập với bộ cung trang thêu hình hoa thược dược trên người nàng ta lúc này.

Dư Hàm cứ thế chạy một hồi, trong điện lại ấm áp, trên trán thằng bé chẳng mấy chốc đã toát đầy mồ hôi. Tĩnh phi đang ngồi phía xa vẫy tay, cười nói với nó: “Hàm Nhi, để thẩm mẫu múc canh cho con uống nhé?”

Dư Hàm hôm nay vốn thích Vưu Tĩnh Nhàn nhất, nghe thấy thế liền lập tức chạy vụt tới bên cạnh nàng ta, chu môi lên nói: “Con muốn thẩm mẫu múc cho con uống, con muốn thẩm mẫu múc cho con uống.”

Vưu Tĩnh Nhàn cầm khăn tay cẩn thận lau mồ hôi cho Dư Hàm, đồng thời dịu dàng dặn dò: “Chạy nhanh như thế lỡ bị ngã thì phải làm sao? Con ngồi xuống bên cạnh thẩm mẫu đi nào!”

Dư Hàm hết sức nghe lời, vội vàng ngồi xuống thật ngay ngắn, bàn tay thì cầm mép váy Vưu Tĩnh Nhàn mà tươi cười rạng rỡ nhìn nàng ta. Vưu Tĩnh Nhàn đón lấy chiếc bát bạch ngọc từ trong tay Bình Nương, dùng chiếc thìa nhỏ làm bằng vàng ròng múc một thìa canh lên thổi nhẹ mấy lần, dường như còn chưa yên tâm, bèn đưa vào miệng nếm thử, cảm thấy không hài lòng lắm, lại múc một thìa khác lên thổi cẩn thận rồi mới đưa tới bên miệng Dư Hàm. “Hàm Nhi, có thể uống được rồi.” Nàng ta mỉm cười cất tiếng, thế nhưng còn chưa nói xong thì đôi hàng lông mày đã nhíu chặt lại, dường như vô cùng đau đớn, bất chợt một dòng máu từ bên khóe miệng rỉ ra, từng giọt từng giọt chảy xuống bộ cung trang màu đỏ tươi, sau nháy mắt đã biến mất chẳng còn tăm tích.

Dư Hàm sợ đến nỗi sắc mặt trắng bệch, vội vàng nắm chặt lấy tay nàng ta khóc lớn. “Thẩm mẫu! Thẩm mẫu! Người làm sao vậy?”

Vưu Tĩnh Nhàn chẳng thể nói được gì, máu tươi vẫn không ngừng rỉ ra từ bên khóe miệng, sắc mặt nhanh chóng trở nên nhợt nhạt, thân thể mềm nhũn ngã vào lòng Huyền Thanh, chiếc bát bạch ngọc trong tay theo đó rơi xuống đất. Huyền Thanh còn chưa rõ là có chuyện gì xảy ra, bất giác nôn nóng đến nỗi mặt mày tím tái, vừa ôm Vưu Tĩnh Nhàn vừa quát gọi: “Thái y! Thái y đâu rồi?”

Ngọc Ẩn vội đứng bật dậy, không may bị trượt chân, thiếu chút nữa thì ngã nhào xuống đất. Phân Nhi nhanh tay đỡ lấy Ngọc Ẩn, khi đưa mắt nhìn xuống đất thì không kìm được kinh hãi kêu lên: “Không hay rồi, Tĩnh phi chảy máu rồi!”

Các vị thái y của Thái y viện vốn đang chờ bên ngoài điện, nghe thấy có động tĩnh liền vội vã chạy vào. Huyền Thanh không kịp đưa Vưu Tĩnh Nhàn tới nơi yên tĩnh, đành tạm thời bế nàng ta vào hậu điện của Trọng Hoa điện. Việc xảy ra quá đột ngột, các cung nhân và phi tần đều bị tôi yêu cầu phải ở lại trong Trọng Hoa điện không được đi lại bừa bãi, để tránh mối hiềm nghi, tôi và Đoan Quý phi cũng đều ở lại chờ kết quả, chỉ để mình Đức phi vào trong chăm sóc cho Vưu Tĩnh Nhàn.

Huyền Lăng mặt mày âm u bất định ngồi trên ngự tọa, các phi tần ngơ ngác nhìn nhau, không ai dám động đậy. Trọng Hoa điện vốn đang ca múa tưng bừng lúc này trở nên vô cùng tĩnh lặng, bầu không khí ngợp trong một vẻ nặng nề.