Hãy Hôn Em Nếu Anh Có Thể

Chương 1




Bụng Sam Cooper cứ sôi lên ùng ục khi nhìn thấy những chiếc ô xanh-vàng đang che cho cái quầy bán món hot-dog[1] khoái khẩu của anh tránh khỏi ánh mặt trời chói chang. Vừa bước ra khỏi cuộc họp báo, nơi mà ngài thị trưởng và ngài ủy viên cảnh sát vừa mới công bố bản tóm tắt đã được chờ đợi từ lâu về một loạt các vụ trộm đột nhập vào các căn hộ ở Upper West Side, Coop có một chiếc máy ghi âm kĩ thuật số ở một bên túi áo và tiền mặt ở túi bên kia.

[1] Hot-dog: Xúc xích nóng kẹp vào bánh mì.

Mùi thơm của loại hot-dog ngon nhất New York làm anh chảy nước miếng. “Chào Dom. Hôm nay buôn bán thế nào?” Anh hỏi người chủ quán. “Không thể phàn nàn gì được. Buổi trưa mọi người chen nhau mua. Bây giờ thì chậm lại nhưng nó sẽ lại đông trong suốt quá trình mọi người đi lại.” Người đàn ông lớn tuổi, da sạm đi vì những ngày đứng ngoài trời, nhấc chiếc nắp vung bằng kim loại lên, để lộ ra bữa trưa muộn của Coop. “Một chiếc bình thường à?”

Coop gật đầu. “Những cái bánh. Thực ra làm gấp đôi đi. Từ sáng tới giờ tôi chưa ăn gì cả.”

Anh liếc nhìn đồng hồ. Gần ba giờ chiều. Đủ thời gian cho anh ăn và có được bài báo của mình trước khi quay về nhà kết thúc một ngày làm việc.

Khi Dom đặt những chiếc hot-dog vào giữa bánh và bắt đầu gập bánh lại thì Coop đưa mắt liếc quanh thành phố. Vào một ngày tháng Tám nóng như hôm nay, rất ít người đi lang thang loanh quanh bên ngoài. Những người thông minh nhanh chóng rút ra khỏi thành phố, hướng về phía Hampton xa hoa hoặc bãi biển Jersey. Những người khác thì nấp ở trong nhà với chiếc điều hòa làm mát.

Quầy hot-dog yêu thích của Coop nằm ở góc Đường 47 và Đại lộ Park. Là một người luôn quan sát mọi người theo bản năng - một trong những điều mà anh cho là đã đưa anh tới việc trở thành nhà báo - Coop luôn luôn nghiên cứu những cửa hàng và những tòa nhà lân cận, và những người vào và ra mỗi tòa nhà, mỗi cửa hiệu.

Như thường lệ, cửa hàng bán đồ nữ trang cổ Vintage Jewelers thu hút ánh nhìn của anh. Không giống như hầu hết các cửa hàng thượng lưu trong khu vực, nó trông khá bình thường. Bù vào đó thì ô kính bày hàng thường xuyên thay đổi, những chi tiết cầu kỳ, tinh vi gần như luôn luân phiên thay đổi hàng ngày. Bình thường chỉ có những phụ nữ hay lui tới cửa hàng - không phải điều ngạc nhiên lớn - nhưng hôm nay một người đàn ông mặc một chiếc áo thể thao, đội mũ trùm đầu, đứng ở bên trong.

“Thật kì lạ,” Coop lẩm bẩm. Cái nóng của mặt trời làm anh toát mồ hôi trong áo sơ-mi và hơi nước bốc lên từ vỉa hè làm đế giày của anh phồng lên.

“Bánh xong rồi đây,” Dom lên tiếng, làm xao nhãng sự tập trung của Coop.

Nhưng không phải là trước khi Coop chợt nhìn thấy cái gì đó trông giống như một khẩu súng trong tay người đàn ông. Chất adrenaline[2] của Coop bắt đầu phát huy tác dụng và anh tập trung vào cửa hàng. Có hai người phụ nữ đằng sau quầy thu tiền. Nếu anh xâm nhập vào thì anh sẽ làm gã kia liều mạng bắn vào ai đó.

[2] Adrenaline: Một loại hoocmôn được tạo ra trong cơ thể khi ta phấn khích, sợ hãi hoặc giận dữ. Nó làm cho tim đập nhanh hơn và làm năng lượng trong cơ thể tăng lên và khiến ta có khả năng di chuyển rất nhanh.

Bên trong, người đàn ông quay người bỏ đi.

Coop nhìn liếc sang Dom. “Đừng hỏi gì cả, gọi ngay 9-1-1,” anh nói khi chộp lấy chiếc nắp kim loại ra khỏi chiếc xe bán hàng và quay lại đứng đối diện cửa hàng.

Khi gã đàn ông bước ra, Coop hành động theo bản năng. Anh đưa chân ra ngáng chân gã trước khi gã kịp bỏ chạy. Gã đàn ông loạng choạng nhưng hắn lấy lại được thăng bằng và đứng thẳng lên. Coop hít một hơi thật sâu và dùng cái nắp vung nồi bánh hot-dog làm bằng nhôm đánh thật mạnh vào đầu gã đàn ông. Cái mũ trùm đầu của gã chắc hẳn đã làm cho cú đánh nhẹ bớt đi, nếu không thì cái hộp sọ của gã rất cứng bởi gã lại cố gắng đứng lên lần thứ hai. Coop vung mạnh tay hơn và gã đàn ông ngã xuống vỉa hè, rên rỉ trong đau đớn. Đồ trang sức từ trong túi gã đổ ra nền đất.

Trước khi gã đàn ông kịp lấy lại sức, Coop chộp lấy khẩu súng từ trong áo gã và chờ cảnh sát đến. Tim anh vẫn đập rất nhanh, kêu ầm ầm trong tai khi tiếng còi tầm báo cho anh biết cảnh sát đã đến và họ nhanh chóng giúp đỡ anh. Trong khi một viên cảnh sát thụi cho tên trộm một quả và lôi hắn vào trong xe thì người còn lại lấy lời khai của Coop.

Khi anh tường thuật lại những sự kiện trong đầu, Coop thực sự rất vui, cú đấm rách cơ xoay đã bắt buộc anh phải từ bỏ học viện cảnh sát và anh có một lòng kính trọng mới đối với cha và anh trai mình, cả hai đều làm nghề cảnh sát. Họ sẽ không phá lên cười khi nghe về những thành tích chói lọi của anh chứ? Họ sẽ trêu ghẹo anh nhưng thật tốt khi cố gắng làm công việc của họ.

“Này, Mac, anh đã tra khảo tôi xong chưa vậy?” Từ những năm làm công việc đưa tin tội phạm, anh đã có mối quan hệ thân thiện với rất nhiều thám tử và cảnh sát.

Người đàn ông kia gật đầu. “Chúng tôi biết phải tìm anh ở đâu rồi. Về nhà và nghỉ ngơi đi. Anh đã có một ngày vất vả rồi.”

Coop lắc đầu. “Tôi ổn. Tôi sẽ ở văn phòng nếu anh cần tôi.” Ít nhất anh có thể chắc chắn rằng câu chuyện này có sự xoay vòng đúng đắn.

Anh định quay người bỏ đi khi hai người phụ nữ từ cửa tiệm trang sức chạy đến. “Đợi đã,” người phụ nữ lớn tuổi hơn gọi. “Tôi muốn cảm ơn anh!”

Coop bước về phía người phụ nữ nhỏ nhắn với tóc nâu, một người không phải là đối thủ của tên cướp, dù tên đó có súng hay không có súng.

“Tôi rất cám ơn anh. Bình thường cha tôi sẽ ở cửa hàng với tôi, nhưng ông đang nghỉ cuối tuần ở Florida. Gã đàn ông đó đã nhét đầy những món đồ đắt tiền vào cái áo thể thao của hắn. Anh đã giúp chúng tôi giữ được một tài sản lớn!”

Coop đổi từ chân nọ sang chân kia, cảm thấy không thoải mái với lòng biết ơn của người phụ nữ ấy. “Tôi chỉ có mặt đúng nơi đúng lúc thôi mà.”

Người phụ nữ lắc đầu. “Đừng khiêm tốn như thế! Hầu hết mọi người sẽ chỉ bỏ đi. Tôi đang ở cửa hàng với con gái mười lăm tuổi của tôi, nên đã giao nộp các món đồ trang sức vì tôi không muốn con bé bị thương. Anh phải vào trong đã. Tôi nhất định phải tặng anh một phần quà vì hành động nghĩa hiệp của anh. Tôi vừa mới tới ngân hàng, nên tôi sẽ phải tặng anh đồ trang sức để thay thế.”

Anh lắc đầu một lần nữa. “Không cần thiết phải tặng quà đâu.”

“Phần thưởng ư?” Một nữ phóng viên truyền hình mà Sam vừa nhận ra đã đưa micrô vào giữa Sam và cô con gái người chủ cửa hàng. “Cứ nhận đi! Tôi rất muốn được độc quyền sự kiện này cho bản tin năm giờ tối nay!”

“Ý cô là cô sẽ nhắc tới tên cửa hàng của chúng tôi à?” Đôi mắt bà chủ cửa hiệu sáng lên với ý tưởng đó.

Cô phóng viên gật đầu. “Chúng tôi thậm chí có thể quay cảnh bà trao tặng phần quà cho vị cứu tinh của bà bên trong cửa hàng.”

Coop rên rỉ. Anh nhận ra sự việc đã nằm ngoài tầm kiểm soát và phải đấu tranh để tránh khỏi một điều chắc chắn sẽ xảy ra. “Tôi không thể nhận phần thưởng. Giống như tôi đã nói với bà ấy, tôi chỉ vô tình có mặt đúng nơi đúng lúc mà thôi.”

Người phóng viên vuốt lại tóc, đứng thẳng vai và ra hiệu cho đội quay phim. “Ghi hình,” cô ta nói và phớt lờ anh.

“Đây là Caroline Martinez, tường thuật từ hiện trường một vụ cướp ở khu phố trung tâm Manhattan, với một vị anh hùng bất đắc dĩ, phóng viên chuyên viết về tội phạm Sam Cooper, và bà chủ cửa hàng rất biết ơn và định tặng anh một phần quà thưởng.” Cô ta liếc nhìn đội ghi hình và hô, “Cắt!” trước khi quay lại phía bà chủ cửa hàng vẫn đang còn kinh ngạc. “Đây là chương trình của bà đấy. Bà định tặng anh ấy cái gì vậy?” Caroline hỏi.

Coop thấy mình bị cô con gái của chủ cửa hàng và cô phóng viên khăng khăng lôi vào trong cửa hàng, theo sau là đội quay phim. Anh muốn rời khỏi chỗ này thật nhanh, nhưng người phụ nữ mà anh nghe thấy tên là Anna Burnett đã đặt một khay đồ trang sức cổ trước mặt anh. Trong khi đó, Caroline và đội quay phim của mình ghi lại mọi việc, làm Coop không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc làm theo lời thỉnh cầu của Anna là chọn một món đồ cho sự vất vả của anh.

Coop nhìn nhanh qua chiếc khay, tìm một cái gì đó trông có vẻ là không đắt tiền lắm và anh có thể lấy nó mà không cảm thấy có lỗi.

“Chiếc đồng hồ này thì thế nào?”

Anna cầm chiếc đồng hồ nam được rèn bằng vàng lên, không đưa xiên về chỗ Coop mà xiên về phía camera.

Coop lắc đầu. “Tôi không thể lấy. Trông nó quá đắt và bên cạnh đó tôi cũng không đeo đồ trang sức.”

“Vậy một chiếc vòng cổ hay chiếc nhẫn cho vợ anh thì sao?” Bà ấy cầm lên một thứ mà trông giống một chiếc vòng cổ bằng ngọc lục bảo, khoe nó trước máy thu hình với nụ cười thật tươi.

“Tôi chưa kết hôn.” Hiện tại. Anh cố gượng cười.

“Vậy thì một thứ gì đó cho bạn gái anh nhé!”

Trước khi bà ấy có thể với tay lấy thứ gì đó nữa thì Coop đã chọn một thứ xấu xí nhất, một chiếc nhẫn lòe loẹt nhất trong đống đó, hi vọng nó cũng là cái rẻ tiền nhất. “Tôi sẽ lấy cái này.”

“Tôi rất vui khi anh đồng ý nhận một món quà kỉ niệm cho việc đã cứu cửa hàng yêu quý của chúng tôi khỏi vụ cướp. Cái nhẫn thật đẹp và có rất nhiều món đồ đáng yêu khác ở cửa hàng nữ trang cổ Vintage Jewelers, nằm ở Đường 47 và Đại lộ Park.” Cô ấy vung tay khắp bên trong cửa hàng, phô trương nó giống như thể cô ấy đang tận dụng cơ hội để quảng bá miễn phí.

Coop ước gì anh có thể kìm nén được tiếng cười khúc khích, bởi vì mấy cái máy quay chết tiệt kia vẫn còn đang quay. Anh chờ đợi Caroline hô to, “Cắt!”

Sau đó Coop bỏ chiếc nhẫn vào túi, cảm ơn Anna và Caroline, và bước thật nhanh ra khỏi cửa hàng trước khi cô phóng viên dũng cảm quyết định muốn phỏng vấn anh, mà điều đó chẳng khác gì làm nhục anh trước toàn thành phố.

Cả ngày làm một nhà báo và là một nhà tiểu thuyết đầy khao khát trong khoảng thời gian riêng tư của mình, Coop thậm chí cũng không thể viết được bất cứ một kịch bản nào giống như ngày hôm nay.

Khi Coop bước vào phòng tin tức, một tràng pháo tay hoan hô chào đón anh và các đồng nghiệp của anh đứng hẳn dậy.

Coop nhăn mặt, gạt bỏ những tiếng huýt sáo và những lời bình luận của họ, đi thẳng tới bàn làm việc của mình. Anh ngồi xuống ghế và dựa ra đằng sau, lần đầu tiên trong cả một ngày được thư giãn. Anh lôi chiếc nhẫn từ trong túi ra và đưa món đồ lòe loẹt lên để kiểm tra nó kỹ lưỡng hơn.

“Anh sẽ không nhìn thấy gì nhiều trong ánh sáng mờ mịt này đâu.” Amanda Nicoles, biên tập viên chuyên mục ở tờ báo, tựa hông lên bàn anh. Cô nghiêng người vào để nhìn rõ hơn cái nhẫn của anh và mái tóc vàng dài của cô rủ xuống thành từng lọn xoăn quanh vai.

Coop thích Amanda. Họ đã có khoảnh khắc của mình, một cuộc tình chớp nhoáng xảy ra sau cuộc li hôn của Coop, nhưng chẳng có gì nghiêm túc đối với cả hai người họ.

Thật may mắn, cô ấy là một người phụ nữ hiếm thấy, có thể tách rời tình dục với tình bạn và suốt từ khi đó tới giờ họ vẫn có thể duy trì mối quan hệ tốt với nhau.

“Nó xấu kinh khủng phải không?” anh hỏi.

“Để em xem nào.” Amanda chìa tay ra và anh đặt cái nhẫn vào lòng bàn tay cô.

Liên quan đến sự lộng lẫy, sức quyến rũ và mua sắm, cô thích những thứ thuộc về vật chất. Quần áo, đồ trang sức, bạn đọc tên nó ra - cô biết được lịch sử của nó.

Cô nheo mắt và nhìn thật kĩ bên trong chiếc nhẫn. “Theo tiêu chẩn ngày nay thì là xấu, nhưng theo những tiêu chuẩn cũ thì đây là một niềm mơ ước của một nhà sưu tầm đấy. Nó là Trifari. Anh hãy nhìn vào cái dấu hiệu mà xem.” Cô thu hút sự chú ý của anh vào bên trong cái nhẫn, dùng những cái móng tay dài được sơn vẽ chỉ cho anh xem. “Anh đã tự chọn mình là người chiến thắng rồi đấy,” cô nói và trả lại món đồ phần thưởng cho anh.

“Anh chẳng muốn thứ gì đáng giá cả. Anh muốn một cái gì đó mà anh sẽ không cảm thấy có lỗi khi lấy nó,” anh nói trong sự thất vọng.

Amanda nhún vai. “Từ những gì mà em nghe được thì anh đã cứu bà chủ cửa hàng không bị mất cả một gia tài. Đừng cảm thấy tồi tệ. Anh có thể tặng nó cho một người phụ nữ đặc biệt trong cuộc đời của anh.” Cô ngước lên nhìn thẳng vào mắt anh một cách không quá tinh tế.

Coop nghếch một bên đầu lên và hỏi. “Đó có phải là cách em hỏi xem liệu là anh có đang gặp gỡ ai không phải không?”

Cô cười toe toét. “Đúng là như vậy đấy. Anh làm việc quá vất vả. Anh lúc nào cũng đập ầm ầm vào cái máy tính của mình.”

Bởi vì anh thường tranh thủ làm những công việc khác khi chưa đến hạn phải nộp bài. Viết tiểu thuyết là tình yêu thực sự của anh, anh không chia sẻ thông tin đó với nhiều người. Tuy nhiên gần đây, những tinh hoa sáng tạo đã cạn kiệt hết, khiến anh nhiều giờ nhìn chằm chằm vào cái màn hình trống trơn, cả ở đây và ở nhà.

“Anh chẳng đang gặp gỡ ai cả,” anh nói, và hi vọng cô sẽ dừng lại ở đó. “Em thấy lo cho anh đấy. Một người bạn gái sẽ thêm một chút sự cân bằng cho cuộc sống của anh.”

Quá nhiều để cô ấy ngừng cái chủ đề đó lại.

Coop đảo mắt. “Anh có đủ sự cân bằng và chẳng có gì phải lo lắng cả. Anh ổn. Bây giờ liệu chúng ta có thể tiếp tục theo dấu vết được không?” Anh nhìn cô gượng gạo và đặt cái nhẫn lên bàn. “Vì nó đáng giá gì đó nên anh chắc sẽ cất nó ở một nơi an toàn.”

“Ok, nhưng nếu anh biết họ nói gì về chuyện lúc nào cũng công việc và không chơi...”

“Anh chơi đủ rồi,” anh nói dối.

“Nếu anh nói vậy.” Cô “ghim chặt” anh với một ánh mắt như nói với anh rằng cô đang đi guốc trong bụng anh. Anh có thể nói gì đây? Gần đây, chẳng có người phụ nữ nào thu hút được chú ý của anh cả. Nhưng nếu anh thừa nhận như thế với Amanda thì cô sẽ bắt đầu giới thiệu cho anh những người bạn của cô, và anh rùng mình với suy nghĩ đó. Những lần “xem mặt” đã đủ tồi tệ lắm rồi. Những người bạn có thiện chí cố gắng mai mối thậm chí còn tồi tệ hơn. Coop có một người vợ cũ và một sự lưu tâm dễ nhận thấy về việc thận trọng hơn với những người phụ nữ mà anh lựa chọn. Chắc chắn anh không thiếu “đối tác trên giường”, nếu đó là tất cả những gì anh cần.

“Đúng anh nói như vậy đấy. Bây giờ anh cần quay lại công việc.”

Cô lắc đầu và thở dài. “Thôi được. Gặp anh sau vậy, người anh hùng.” Cô nháy mắt và bỏ đi, hông cô lắc lư theo bước chân cô.

Coop quay lại máy tính.

Mở trang Google lên tìm kiếm từ Trifari, anh dành một khoảng thời gian đáng kể để nghiên cứu cho tới khi cuối cùng anh tìm thấy một bức ảnh về một thứ trông giống với cái nhẫn hiện anh đang có quyền sở hữu. Trước sự ngạc nhiên của anh, cái nhẫn đó là một phần trong bộ trang sức bao gồm một cái vòng tay và một cái vòng cổ. Trở lại những năm 1950 những món đồ nữ trang đó vốn thuộc về một gia đình giàu có ở Manhattan cho tới khi chúng bị đánh cắp trong một vụ trộm táo bạo trong khoảng thời gian diễn ra bữa tiệc tối tại tư gia. Những tên tội phạm vẫn chưa bị bắt và bộ trang sức theo như người ta nói chưa bao giờ tìm lại được.

Coop liếc nhìn chiếc nhẫn trên bàn anh. Anh đang sở hữu cái quái quỉ gì vậy? Ngay cả cửa hàng bán đồ trang sức có biết giá trị của cái nhẫn hay không? Kể từ khi vụ trộm xảy ra cách đây hơn 50 năm trước thì cái nhẫn đã được qua tay bao nhiêu lần rồi? Tâm trí nhà báo của anh băn khoăn về lịch sử của những món đồ trang sức và anh biết mình cần tiến hành thêm một vài nghiên cứu nữa.

Nhưng tinh thần của một nhà tiểu thuyết trong anh bắt đầu hoạt động với những lợi ích phụ và những khả năng hư cấu. Một tội ác bí ẩn xảy ra vào những năm 1950. Một bữa tiệc tối hoành tráng, những người giao thiệp rộng rãi giàu có, những vấn đề đang còn tồn tại giữa những người được cho là bạn thân thiết và những cộng sự làm ăn kinh doanh, và một vụ án mạng vì tình. Một vụ giết người và vụ trộm những món đồ trang sức gia đình yêu quý.

Hoặc là... Anh chợt nảy ra ý nghĩ. Anh muốn chuyển từ thể loại hư cấu sang tội phạm thực được không? Khi anh nghiên cứu sâu hơn nữa vào vụ án mở này, anh có lẽ sẽ tìm được một kho thông tin quý báu để tiến hành.

Dù bằng cách nào, thì Coop biết anh đang chạm tới một cái gì đó. Sau nhiều tháng bế tắc của nhà văn, adrenaline của anh đang trào lên theo một cách mà thậm chí là vượt qua hẳn sự phấn khích của việc ngăn chặn vụ cướp ngày hôm nay. Cuối cùng anh cũng có được mầm mống của một ý tưởng cho cuốn sách sắp tới của mình, với nhiều nhân vật và nhiều tình tiết hơn cuốn sách mà anh từng viết trước đó. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của anh, được xuất bản bởi một nhà xuất bản nhỏ, đã có một số lượng bản in tủn mủn và số lượng bán được chỉ vừa đủ để mua cho anh một bữa ăn tối. Nhưng câu chuyện lần này có tiềm năng rõ ràng.

Cảm giác sâu thẳm bên trong anh, vốn chưa bao giờ chỉ dẫn anh sai lầm trong sự nghiệp toàn thời gian của anh, đã nói với anh rằng cuối cùng anh cũng nhìn thấy được một cuốn sách có thể giúp anh nhận ra giấc mơ riêng tư cả đời anh là trở thành tiểu thuyết gia có sách bán chạy nhất.

Lexie David quanh quẩn bên bà cô, mùi hương của những bông hoa violet ngấm vào cô mỗi lần cô hít vào.

“Nào để bà chắc chắn là bà hiểu cháu nhé,” Charlotte Davis nói. “Bà nhấp chuột vào cái trông giống như la bàn và nó mở ra internet. Sau đó bà đặt chuột-”

“Con trỏ-” Lexie sửa lại cho bà nội. Đặt tay lên bàn tay đã chai sạn vì nắng gió và ấm áp, cô di chuyển chuột, hướng dẫn con trỏ trên màn hình.

Người phụ nữ lớn tuổi thở dài, âm thanh nghe có vẻ như bị bắt nạt. “Bà đặt con trỏ ở đây, nhấp chuột, và sau đó bà có thể Giggle bất cứ điều gì bà muốn biết. Phải không?”

“Google, không phải Giggle!” Lexie lắc đầu và cố gắng không cười cái lỗi ngây thơ của bà cô.

Những bài học về máy vi tính thậm chí khó khăn hơn là cô nghĩ. Cũng đáng thời gian và nỗ lực của cô vì điều đó có nghĩa Lexie có thể duy trì liên lạc thường xuyên với người bà mà cô rất yêu quý, nhưng tuy nhiên cũng thật là vất vả. Lexie tính toán bà của cô có khoảng thời gian chú ý tối đa là ba mươi phút. Nãy giờ họ mới chỉ qua được một nửa thời gian đó. Máy tính của bà cô tự nhiên ngừng hoạt động và Lexie, một nhà thiết kế trang web và say mê Mac đã làm bà ngạc nhiên với một chiếc máy tính mới. Khi làn sóng thích du lịch tiếp theo tới và Lexie cảm thấy bắt buộc phải thu xếp đồ và đi du lịch, thì cô sẽ không phải lo lắng cái máy tính của bà cô bị hỏng nữa, và không để cho Lexie tự hỏi liệu là cô không thể kết nối với người phụ nữ đang ngày càng lớn tuổi này là bởi vì chiếc máy vi tính đã bị hỏng - hay bởi vì bà cô đã...

Một cái liếc nhìn bà Charlotte đã trấn an Lexie. Thậm chí là với ngày sinh nhật sắp tới của bà, bà của cô cũng già đi nhiều. Bà vẫn khỏe mạnh cả về tinh thần và thể chất. Một người thật khỏe mạnh, nếu Lexie không kể đến mái tóc đỏ tự nhuộm của người phụ nữ lớn tuổi này và chiếc áo mặc ở nhà đã hàng chục năm được trang trí bởi những món đồ trang sức cổ mà bà Charlotte luôn luôn đeo ở tai và quanh cổ. Hi vọng, bà Charlotte không sớm rời khỏi thế giới này.

“Ồ nhìn này, năm giờ rồi. Đến giờ có chương trình Bản tin Nhân chứng rồi!” Bà Charlotte với tay lấy chiếc điều khiển tivi và bật tivi lên.

“Bà không thể đợi thêm mười lăm phút nữa sao? Chúng ta sắp hoàn thành những phần cơ bản của lướt web rồi mà.”

“Tin tức có thể trở nên cũ rích mất. Cháu biết bà thích theo kịp các sự kiện địa phương mà.”

Lexie gật đầu. Cô biết. Nếu các câu chuyện của bà Charlotte David là đáng tin thì người bà lập dị của Lexie đã có một cuộc sống đầy màu sắc và quen biết thật nhiều người nổi tiếng. Ở độ tuổi bảy mươi chín và 330 ngày - bà Charlotte tính hết những ô vuông nhỏ trên tờ lịch treo tường Derek Jexter của bà - bà xem tivi và đọc báo để xem bà sẽ sống lâu hơn ai trong tuần này. Lexie từ lâu đã ngừng nhắc nhở bà rằng những tin tức truyền hình chỉ phát sóng những ca tử vong giật gân nhiều hơn. Mối quan tâm thật sự của bà cô trên kênh tin tức 7 đó là...

“Bill Evans!” Bà Charlotte kêu lên, chỉ tay về phía anh chàng dẫn chương trình dự báo thời tiết điển trai.

Lexie cắn bên trong má của cô khi cô nhìn thấy hi vọng có thêm thời gian học đang trôi qua. “Bà ơi, chú ý nào.”

“Sau đoạn này đã. Nhìn cái lúm đồng tiền trên má anh chàng này nè.”

Một cái liếc nhìn vào màn hình đã nói cho Lexie biết rằng bà của cô đã không còn đề cập tới người dẫn chương trình dự báo thời tiết nữa. “Tất nhiên anh ta thua xa Bill Evans, nhưng anh ta vẫn thật nóng bỏng.”

Bà Charlotte chỉ bàn tay nhăn nheo vào màn hình tivi to tướng ở góc phòng.

Dòng chữ Phóng Viên Chuyên Viết Về Tội Phạm Chặn Đứng Một Vụ Cướp thu hút sự chú ý tinh thần của Lexie. Mái tóc đen, dài qua cổ, anh ta có nước da rám nắng, đôi má lúm đồng tiền và gợi cảm. Cô không thể rời mắt khỏi anh. Đôi mắt xanh của anh cho thấy rõ ràng sự khó chịu của anh khi bà chủ cửa hàng, chủ nhân của những món đồ trang sức đã được anh cứu, cố gắng trao phần quà cho sự cố gắng của anh.

“Cháu nhìn thấy không? Anh ta thật đáng khâm phục để nhận phần thưởng đó!” Bà Charlotte nói.

“Một quý ông đích thực,” Lexie nói, cô bị ấn tượng bởi hành động của người đàn ông cũng như gương mặt điển trai và thân hình săn chắc của anh.

Một âm thanh bực tức thốt ra từ cổ họng của bà cô. “Một kẻ ngốc nghếch thì đúng hơn. Hãy lấy những món đồ đó đi chứ!” người phụ nữ lớn tuổi hét vào cái màn hình.

Lexie cười lớn.

Người đàn ông, mà có tên chạy trên màn hình là Sam Cooper, đã từ chối chiếc đồng hồ và chiếc vòng cổ trước khi bà chủ cửa hàng biết ơn đẩy một khay nhẫn trước mặt anh. “Chưa kết hôn,” anh ấy nói với một giọng thật trầm rất phù hợp với vẻ bề ngoài vạm vỡ ưa nhìn của anh. “Tôi sẽ lấy cái này,” cuối cùng anh nói, và bất đắc dĩ chọn một chiếc nhẫn trong số những cái nhẫn được sắp xếp thành loại trên khay.

Camera quay gần chiếc nhẫn. Một cái nhẫn to, hoa văn lòe loẹt.

“Bà ơi nhìn kìa! Nó trông giống một trong những cái vòng cổ của bà!”

Bà Charlotte đứng dậy khỏi ghế và nhìn kĩ vào màn hình. “Cháu nói đúng! Những cây nấm hương thần thánh!” bà cô kêu lên.

Lexie đảo mắt, “Bà phải ngừng xem những bộ phim Austin Powers đi thôi.”

Charlotte phớt lờ lời bình luận. Thay vào đó tay bà đặt nhanh lên ngực.

Bà nắm chặt lấy chiếc vòng cổ, nhưng không phải là chiếc vòng cổ đang được nói đến mà là chiếc vòng cổ khác trong số những cái gọi là của cải mà bà hứa một ngày nào đó sẽ để lại cho Lexie. Một số thứ trong đó thật quá xấu xí, nhưng trong cái thế giới mà không có bà của cô thì Lexie sẽ cần bất cứ một món đồ nào làm cô nhớ tới bà Charlotte.

“Cháu tự hỏi liệu nó có phải là mảnh ghép chính xác hay không,” Lexie trầm ngâm.

“Bà hi vọng là Sylvia đang xem chương trình này!” Bà cô nói về một người bạn và một người hàng xóm lâu năm, Sylvia Krinksy, người sống ở phòng cuối hành lang.

Ông của Lexie và chồng của bà Sylvia đã mất từ lâu rồi, nhưng tình bạn của hai người phụ nữ đã có từ trước khi họ cưới chồng và vẫn duy trì mạnh mẽ đến ngày nay. Sylvia là người của Charlotte, một người mà luôn ở đó vì bạn trong những lúc vui và buồn. “Sylvia sẽ chôn cất tôi,” bà Charlotte thích nói như vậy trong khi bà Sylvia ngồi bên cạnh người bạn của mình và gật đầu.

Bị kích động một cách đột ngột, bà của cô bắt đầu đi lại trong căn hộ nhỏ, vừa đi vừa lẩm bẩm.

Lexie bước đến bên cạnh bà Charlotte, đặt tay lên tấm lưng mỏng manh của bà. “Điều gì làm bà lo lắng như thế?”

“Không có gì đâu.” Bà cô xua tay, gạt bỏ sự lo lắng của Lexie. “Bà không sao. Nhìn thấy cái nhẫn đó thật là một điều bất ngờ, nó gợi lại nhiều kỉ niệm. Bây giờ thì bà ổn rồi.”

Không cảm thấy thuyết phục, Lexie nheo mắt và chăm chú bà cô. Bà Charlotte trông nhợt nhạt hơn so với lúc nãy, mặc dù điều đó thật khó nói dưới lớp kem nền và phấn hồng dày cộp trên mặt bà.

“Bà ơi? Cái nhẫn đó có phải là một phần trong bộ gốc không ạ?” cô hỏi.

Bà Charlotte nhìn ra chỗ khác. “Tự nhiên bà thấy mệt.” Bà cô thở dài nặng nề, rõ ràng là gượng gạo.

Lexie tự hỏi điều gì trên thế giới đang xảy ra vậy. Có điều gì đó về chiếc nhẫn trên tivi đã làm bà cô lo buồn, nhưng bà cô lại không muốn bàn luận về nó. Thậm chí là với Lexie. Hừm. “Thôi được, chúng ta có thể quay lại bài học của bà vào ngày mai,” Lexie nói. “Sao bà không đi nằm đi ạ?”

“Bà nghĩ là bà sẽ làm như vậy.”

Lexie thu dọn đồ đạc. “Cháu phải ra ngoài và gặp Claudia bàn về người khách hàng mới nhất của chúng cháu,” Lexie nói với bà. “Có lẽ cháu sẽ về muộn, cho nên bà đừng thức đợi. Cháu có chìa khóa rồi.”

Claudia Milne, một thiên tài tự học về máy tính, đã làm hầu hết các đoạn mã cho các website mà Lexie thiết kế. Cô ấy sống, ăn và hít thở HTML, và Lexie cảm ơn những ngôi sao may mắn của cô đã để họ gặp nhau trên chuyến bay từ Israel về New York sau chuyến du lịch đầu tiên tới Trung Đông của Lexie năm năm trước.

Một kẻ lang thang theo bản năng, Lexie có một khả năng đáng ghen tị là có thể làm việc ở mọi nơi. Cô thấy chẳng có lí do gì mà phải thuê một căn hộ giữa các chuyến đi khi mà cô có thể ở trong phòng ngủ còn trống của bà cô bất cứ khi nào cô ở trong thị trấn. Bà Charlotte rất thích Lexie ở bên và Lexie ý thức rằng có thể làm được mọi việc cho bà khi cô ở đây. “Bây giờ cháu đang làm việc cho trang web nào thế?” bà cô hỏi. Bà Charlotte luôn quan tâm tới danh sách khác hàng của Lexie, và thường đề xuất đầu vào cho thiết kế. Hầu hết những lần đó Lexie đều lễ phép bỏ qua.

“Trang web dành riêng cho vận động viên Athlete’s Only ạ. Chị em nhà Jordan và Yank Morgan yêu cầu đại tu lại,” cô nói về cơ quan quyền lực PR và thể thao - và là khách hàng đầu tiên của Lexie khi cô bắt đầu doanh nghiệp thiết kế trang web của riêng mình.

“Bây giờ gặp có muộn không? Có cần bà gọi cho Yank và nói với anh ta rằng họ đang bắt cháu làm việc quá sức không?” bà Charlotte hỏi. Lexie và Yank Morgan là bạn cũ. Họ đã gặp nhau trong quãng thời gian thơ ấu mà cô đã dành hết trên sân trượt băng. Và nhờ tình bạn đó, Lexie đã có được khách hàng lớn đầu tiên đang cần một trang web công nghệ cao và quyền gia nhập vào thế giới thể thao uy tín và có lợi. Kết quả là danh sách vốn đầu tư hiện nay của Lexie bao gồm một loạt các khách hàng theo định hướng thể thao, từ các loại đồ uống thể thao cho tới các đội thể thao - điều này gây ngạc nhiên nhiều cho cha mẹ cô, những người mà có một thời đã cố gắng “nhào nặn” cô trở thành một người trượt băng giỏi hơn người khác.

Trước sự thất vọng mãi mãi của họ, Lexie đã nổi loạn chống đối lại cái thế giới cứng nhắc, đầy cạnh tranh của những lịch trình và phải tuân thủ theo ấy. Điều tốt đẹp duy nhất đến từ những năm tháng đó chính là tình bằng hữu giữa bà cô và Yank. Bà Charlotte và Yank đều yêu thích tính cách khác thường kì dị. Họ cũng hiểu được khái niệm phải sống đúng với bản thân mình, và họ đã cùng nhau thuyết phục cha mẹ Lexie dừng việc đè ép những khát khao của họ lên cô con gái.

Lexie sẽ mãi mãi biết ơn Yank vì điều đó, và vì niềm tin ông dành cho tài năng thiết kế trang web của cô. “Bà ơi, cháu chẳng bao giờ ngại làm việc muộn đâu. Bà không được nói gì đâu đấy.” Những cuộc gặp mặt buổi tối hoàn toàn phù hợp với phong cách sống của Lexie.

Khi thấy bà Charlotte không đáp lại, Lexie quay về phía bà, nhưng người phụ nữ lớn tuổi ấy đã biến mất vào phòng ngủ. Để đi nằm sao? Bà đã bối rối kể từ lúc nhìn thấy chiếc nhẫn trên tivi. Rõ ràng thứ đó đã đánh trúng vào một sợi dây thần kinh tình cảm nào đó.

Khi Lexie thu gọn máy tính xách tay và cái túi lại, cô chợt nhìn thấy tờ lịch treo tường của bà cô - và một ngày được khoanh tròn bằng mực đỏ. Ngày hai mươi tám tháng Tám, ngày sinh nhật tám mươi tuổi của bà Charlotte. Lexie đang nặn óc nghĩ ra một cái gì đó thật khác biệt và riêng tư có thể làm quà tặng cho bà.

Cái nhẫn trùng khớp đó cung cấp một câu trả lời hoàn hảo, và những suy nghĩ của cô ngay lập tức quay sang người đàn ông miễn cưỡng nhưng quyến rũ, người đang sở hữu cái nhẫn ấy. Anh ta rõ ràng là đã ngần ngại khi nhận bất cứ cái gì từ bà chủ cửa hàng. Có lẽ anh ta sẽ vui lòng bán lại cái nhẫn.

Lexie rất hào hứng bởi viễn cảnh có thể tặng một món quà cá nhân như thế này cho bà cô nhân ngày mừng thọ. Bây giờ tất cả những gì cô phải làm là gặp chủ nhân hiện tại và thuyết phục anh trao cho cô tài sản mới của anh.