Hồng Nhan Loạn

Chương 61: Lững lờ nước lặng trôi xuôi(1) – 1




(1) Nguyên văn: “Dương chi thủy” - nước trôi lững lờ, lấy ý từ chương “Dương chi thủy” thuộc Hứng trong “Kinh Thi” - Khổng Tử.

Rèm mi như rẻ quạt nhẹ nhàng rung động, chầm chậm mở ra, lấp lánh trong bóng đêm, Quy Vãn đứng dậy, nhấc lấy quần áo vắt bên giường, chậm rãi mặc đồ, vén rèm trướng lên, bước khỏi giường. “Cạch” một tiếng đẩy cửa sổ, trăng chênh chếch rót bóng, quầng sáng chói lòa xuyên thẳng vào phòng, nương theo bóng trăng sáng bạc, nàng soi gương trang điểm, một tay nhấc dải tơ lụa, tùy tiện vấn thành một búi tóc nam nhi, dùng tơ lụa cố định búi tóc, sửa sang một chút, rồi đẩy cửa tiến ra.

Ý thu mỗi lúc một sâu, cảm giác lạnh lẽo hòa cùng bóng trăng thấm vào tận đáy lòng, nàng men theo con đường mòn trong hoa viên mà bước, ánh mắt mải miết hướng về ngọn đèn lập lòe trong phòng nghị sự phía trước, nổi bật giữa bóng đêm trùng trùng, lòng thấy rầu rĩ, càng không dừng bước tiến thẳng vào trước sân. Vừa bước vào, lập tức thấy tám thị vệ nghiêm trang canh giữ trước viện, đang đứng uy nghi, mặt mày không đổi sắc. Đối phương cũng đồng thời thấy Quy Vãn, hai người đứng đầu thoáng ngạc nhiên, ngơ ngác không biết phản ứng sao cho phải. Quy Vãn lạnh lùng liếc mắt quét qua bọn họ vài lần, đáy mắt lạnh lẽo như nước sông, mấy người này vốn là thị vệ Tướng phủ, lập tức nín lặng không dám ho he lên tiếng, để mặc Quy Vãn một mình đi thẳng vào trọng địa Tướng phủ.

Phòng nghị sự dẫu rằng đèn đuốc sáng rực, nhưng giờ phút này lại vắng lặng tịch mịch không một tiếng động, ánh sáng từ trong sảnh hắt ra con đường nho nhỏ âm u phía sân bên ngoài, nhuốm thêm vài phần quỷ dị. Miên man nghĩ ngợi, Quy Vãn đã vòng qua con đường nhỏ, đến trước cửa phòng nghị sự, tâm tư cuộn giấu vài phần đắn đo bất định, nàng đẩy nhẹ cửa, không ngờ cửa động khẽ rồi bật mở, lộ ra một khe hở. Quy Vãn kinh ngạc, không thể tin được nơi bàn bạc cơ yếu lại canh phòng sơ sài đến thế, nhưng nghĩ đi rồi nghĩ lại, nhớ ra nội viện này chẳng biết ẩn giấu bao nhiêu thị vệ, nguyên một việc đóng cửa cũng thật vô vị, cửa khép hờ như thế có vẻ rất quang minh chính đại, không mảy may chút ý đồ tăm tối.

Khe khẽ tiến vào trong sảnh, phòng ngoài không một bóng người, đèn đuốc sáng rực gay gắt rọi thẳng vào mắt, đối với một người vừa bước ra khỏi con đường âm u như Quy Vãn mà nói, quả thực có mấy phần chói lóa. Nàng ngoảnh mặt nhìn bốn bề, chậm rãi tiến đến cửa dẫn vào nội sảnh, tận đến khi tiến sát cửa, mới mơ hồ nghe được tiếng trò chuyện. Giọng nói nhẹ nhàng trong trẻo là của Lâu Triệt, âm thanh không nén được cuồng ngạo kia hẳn là Đoan vương, còn một chất giọng trầm trầm kiên định rắn rỏi... Lẽ nào là Nam Quận vương?

Ba người bàn bạc, tựa như đang nghị luận về những chuyện đại sự diễn ra trong triều mấy ngày gần đây, rất nhiều quan viên bị điều chuyển, rất nhiều đường lối cải chế được thực thi... Ba người chân thành luận bàn, tựa như hảo hữu bao năm trời mới gặp lại, Quy Vãn rõ ràng nhất, chỉ một năm trước thôi, Lâu Triệt và Đoan vương vẫn còn là đối thủ, giờ phút này đã có thể ngồi chung một phòng cùng nhau đàm đạo, một phần vì tình cảnh bắt buộc, phần nữa vì liên kết lợi ích. Xem ra giữa chốn quan trường này không có bạn bè vĩnh viễn, cũng chẳng có kẻ thù muôn thưở, những lời này thật không sai khác lắm.

Bờ môi chầm chậm treo ra một nụ cười, chợt nghe thấy một tràng cười sang sảng của Đoan vương, cách cả một cánh cửa vẫn có thể tưởng tượng ra tư thái cuồng ngạo của y. Tai nghe không sót một lời của y: “Lâu Tướng gia, môn sinh đắc ý của ngài đúng là có được mấy phần chân truyền đấy, thủ đoạn tác phong cũng chẳng thua kém ngài bao nhiêu. Hiện tại đúng là con chó trung thành của Hoàng thượng, chẳng những gian xảo cắn ta một miếng, đến giờ còn tính cắn cả ân sư là ngài nữa.”

Sự kiện Phong Sơn một năm trước kia, chính Quản Tu Văn đứng ra tố cáo Đoan vương vốn có thể thoát tội, hại y mất tước vị, xét nhà cửa; khi ấy chỉ có thể nín nhịn nuốt một bụng lửa hận, không ngờ được bao nhiêu năm ngang dọc giữa quan trường lại có thể bại trong tay một tên nhãi ranh vắt mũi chưa sạch. Còn sau sự kiện ấy, Quản Tu Văn trở thành cận thần bên phe Hoàng đế, lại thêm hắn tâm ngoan thủ lạt, không nể tình, thủ đoạn nào cũng có thể dùng tới, khắp trong ngoài triều không ai dám động đến, chẳng ai tin nổi cậu thiếu niên Trạng nguyên thanh thuần năm ấy lại có thể trở nên đáng sợ như vậy.

Quan viên trong triều thường xuyên so sánh hắn với Lâu Triệt, thủ đoạn của Lâu Triệt cũng xem như tàn nhẫn, nhưng thường đem sức mình nắn người; còn Quản Tu Văn thì ngược lại, phàm là có kẻ chắn đường hắn, nhất định đều bị hủy diệt, không phân biệt địch hay bạn, thậm chí có thể coi là đê tiện. Trong triều nhất thời khó có thể phân biệt được quan hệ giữa hai kẻ có danh phận thầy trò này, đều ngần ngại không dám nhiều lời, càng khiến Quản Tu Văn xuống tay lạnh lùng không e sợ.

“Đoan vương quá khiêm nhường rồi, nên nhớ trước kia chính ngài là người nhiệt tình tiến cử hắn, mới dẫn đến kết cục ngày nay.” Lâu Triệt miệng tươi cười, nhưng lời lại có chút mỉa mai.

Quy Vãn đứng ngoài cửa, nghe vậy lòng liền nhói lên, cứ theo giọng điệu hai người, Lâu Triệt và Đoan vương vốn là đồng minh, nhưng vẫn lời qua tiếng lại, hàm ý châm chọc mỉa mai lẫn nhau, thực sự có chút kì quái. Nhưng đầu óc nàng linh mẫn đến cực điểm, lập tức suy tính cặn kẽ, nhanh chóng nhận ra huyền cơ ẩn giấu trong đó. Mối ràng buộc lớn nhất giữa Đoan vương và Lâu Triệt lúc ấy không gì khác chính là Diêu Huỳnh. Cái gọi là thành cũng bởi nàng, bại cũng vì nàng chính là như thế. Lúc này đây hai người đàn ông cùng chung một chiếc thuyền, cùng chia một chiến tuyến, nhưng Đoan vương tất nhiên vẫn mãi lấn cấn chuyện trái tim Diêu Huỳnh gửi về chốn nào, thế nên mới lâu lâu lại kiếm cách đối chọi gay gắt với Lâu Triệt.

Cũng may hôm nay còn có Nam Quận vương, thỉnh thoảng buông lời xen ngang mới cắt được một màn dông dài ấy, ba người lại tập trung vào nghị sự chuyện triều chính, nhắc đến chuyện Hoàng thượng âm thầm sai Lâm Thụy Ân điều binh tiến xuống kinh thành, đằng sau nhất định có ý đồ. Tất thảy đều ngừng đùa bỡn, nghiêm túc đối diện, không khí trong phòng tức thời trở nên căng thẳng nặng nề.

Quy Vãn đứng bên cửa cảm nhận được thời gian quá đỗi chậm chạp, một thoáng ngưng nghỉ cũng mang tới cảm giác áp bức đến ngạt thở. Nghe ba người luận bàn, mới hay Hoàng thượng đã có ý phái binh về triều, lòng lo lắng không yên, Hoàng thượng và phe cánh Lâu Triệt rốt cuộc còn muốn tranh đấu đến lúc nào? Lâu Triệt trước sau không chịu buông bỏ chấp niệm, Hoàng thượng không cam chịu cô độc, hai người tranh đoạt, lẽ nào muốn đến tận khi phân rõ thắng bại ư?

Cảm giác mông lung mơ hồ dâng ngập cõi lòng, Quy Vãn ngẩn ra giữa đương trường, nhớ tới ván cược giang sơn với Hoàng thượng, nhớ tới cuộc trò chuyện trong Lâm phủ, lại nhớ đến những ngày gần đây ở bên Lâu Triệt... Nhất thời ngây ngốc, nàng chẳng phải kẻ để lộ tình cảm ra ngoài, vô vàn mối thâm tình chất chứa sâu trong đáy lòng. Dẫu có lòng hận trời thương dân nhưng cũng không thể phó mặc hành động, chỉ riêng chuyện tranh quyền đoạt thế này đã dần thành mối tâm bệnh của nàng. Lâm Thụy Ân giảng giải đạo lý an định thiên hạ, nàng hiểu, thân thế Lâu Triệt, nàng cũng hiểu. Quẻ “Đế Vương Yến” trước khi thành thân cùng vô vàn mối tương ngộ sau này đều trở thành mối gút mắc trong lòng nàng, nhắc đến vương quyền luôn cảm thấy có phần kiêng dè... Nàng có tư thái tiêu sái vân đạm phong khinh, nhưng cũng vương vấn niềm hạnh phúc xúc cảm của kẻ phàm tục, trong một chữ tình, nàng rất khó tránh khỏi mù quáng. Tất cả những điều đó dây dưa trong lòng nàng, thực một chữ “loạn” không thể nói hết muôn vàn mối vướng bận này.

Những muốn đem nhu tình mài mòn dã tâm hừng hực của Lâu Triệt, hiệu quả chẳng đáng là bao. Mắt thấy tranh đấu trong triều ngày một kịch liệt, lòng nàng nhói mãi lên không sao buông xuống được. Nàng hiểu rất rõ, tranh giành với vương quyền, kết quả cuối cùng nhất định vô cùng bi thảm. Lâu Triệt, Nam Quận vương, Đoan vương liên minh rốt cuộc có thể kéo dài được bao lâu chưa biết, chỉ biết tiếp tục như vậy không phải kế lâu dài. Rốt cuộc có thể đấu đá triền miên được bao lâu? Một năm? Năm năm? Mười năm? Hay là lâu hơn?

Nàng không phải vì nước, cũng chẳng vì dân, chỉ đau lòng mà thôi, sợ Lâu Triệt phen này hao tâm tổn kế cuối cùng vẫn chỉ là bóng trăng ánh nước, lấp loáng lung linh qua rồi, kết cục như vậy, khiến người ta khó lòng chấp nhận... Phu quân à phu quân, tất cả chuyện này... rốt cuộc làm sao mới kết thúc đây?

Lòng như sóng triều, mấp mô không nguôi, thoáng giật mình, nghe thấy ba người trong phòng đã bắt đầu thương lượng đối sách, bàn tới bàn lui, tựa hồ đang tính toán điều quân đội Nam Quận về kinh, để không đánh động Hoàng thượng, còn muốn xé lẻ quan đội thành nhóm nhỏ. Trong kinh kì, điều động binh mã chút ít là chuyện bình thường, nếu phân tán Nam quân âm thầm rời đi, thứ nhất có thể tránh được tai mắt người đời, thứ hai cũng tránh được cảnh đánh rắn động cỏ.

Nghe ba người họ bàn bạc kỹ lưỡng, lập ra kế sách hoàn mĩ không nước cờ nào thiếu hậu chước, công thủ đủ đầy, Quy Vãn thầm cảm thấy bội phục, chợt cảm thấy phía sau có một âm thanh kì lạ. Nàng cả kinh, quay lại trông, chỉ thấy một nha hoàn tay bưng khay, trên đó còn ba chén sứ thanh hoa hỏa diễm, có lẽ là một loại canh tẩm bổ nào đó. Nha hoàn có lẽ cũng không ngờ nơi đây vẫn còn có người, há hốc miệng, giật mình khi nhận ra Quy Vãn.

Quy Vãn áp chế nỗi kích động trào lên trong lòng, đặt ngón tay ngang miệng, nha hoàn này cũng nhanh nhẹn thông minh, lập tức hiểu ý nín lặng đứng sát bên cạnh nàng. Lúc này trong phòng chìm trong lặng yên, tựa hồ đang thảo luận tới cục diện bế tắc, một mảnh lặng câm mang theo loang loáng đao quang kiếm ảnh, sát khí trùng trùng.

“Lòng vòng như vậy, rốt cuộc định đến khi nào, chi bằng kéo hết Nam quận về kinh thành cho xong, chiếm được kinh thành rồi, lo gì không tuân theo... Đến lúc đó, có danh có phận, đoạt lấy...”

Lời ấy truyền đến bên tai, tựa như sấm sét giáng giữa đất bằng, Quy Vãn đổ mồ hôi lạnh, không nghĩ ngợi thêm nữa, ráng sức đẩy mạnh cửa, “cạch” một tiếng, cắt đứt những lời đàm đạo đại nghịch bất đạo trong kia. Ba người trong phòng đều kinh ngạc, sát khí ngùn ngụt quay nhìn cửa chính, nhưng vừa nhìn rõ bóng người đứng đó, một cả kinh, một nghi hoặc, một ngạc nhiên.

Cuối thu sương dày, hơi lạnh ngấm thân, từng đợt lạnh giá theo cánh cửa mở toang ùa vào phòng nghị sự, ba người cao sang quyền quý không hẹn cùng nhìn ra ngoài, Quy Vãn đã đón lấy khay từ tay nha hoàn, bước vào sảnh, dịu dàng mỉm cười, ánh mắt loang loáng, cẩn trọng đánh giá tất cả một lượt.

Đã từng có duyên gặp qua Đoan vương, còn người đàn ông ngồi bên trái của Đoan vương, tuổi chừng tứ tuần, dáng vẻ đường bệ, hàng ria đen mượt ngay ngắn trên môi, mang tới cho y một thứ mị lực của tuổi trưởng thành, dáng vóc cường tráng vạm vỡ, mắt sắc như ưng, vẻ trầm ổn pha lẫn khí khái anh hùng, dẫu không nói một lời vẫn mang khí thế của kẻ thủ lĩnh.

“Đêm nay cũng thật náo nhiệt, sao Lâu phu nhân vẫn chưa đi nghỉ vậy?” Đoan vương liếc theo Quy Vãn vừa bước qua cửa.

Lần lượt đặt từng chén canh bổ tới bên Nam Quận vương, Đoan vương và Lâu Triệt, Quy Vãn quay lại, liếc mắt nhìn Đoan vương: “Vương gia vất vả như vậy, Quy Vãn tận tâm một chút, dâng đồ ăn đêm.”

Tiếng cười sang sảng bật khỏi miệng Nam Quận vương: “Lâu phu nhân quả là bậc hiền thục...” Một câu này cũng chẳng rõ đang khen ngợi hay đang mỉa mai, Quy Vãn mỉm cười hành lễ cảm tạ.

Từ lúc qua khỏi cửa, Nam Quận vương liền nhìn nàng chằm chằm, thấy nàng phiêu diêu tự tại, má lúm đồng tiền chúm chím như đóa hoa anh đào.

Lần lượt đặt từng chén canh bổ tới bên cạnh Nam Quận vương , Đoan vương và Lâu Triệt, Quy Vãn quay lại, liếc mắt nhìn Đoan vương: “Vương gia vất vả như vậy, Quy Vãn tận tâm một chút, dâng đồ ăn đêm.”

Tiếng cười sang sảng bật khỏi miệng Nam Quận vương: “Lâu phu nhân quả là bậc hiền thục…” Một câu này cũng chẳng rõ đang ngợi khen hay đang mỉa mai, Quy Vãn mỉm cười hành lễ cảm tạ.

Tư lúc qua khỏi cửa, Nam Quận vương liền nhìn nàng chằm chằm, thấy nàng phiêu diêu tự tại, má lúm đồng tiền chúm chím như đóa anh đào đương xuân, hệt như lời đồn đại, đúng là tuyệt thế giai nhân vạn người có một, càng hiếm có là ở nàng mang một dáng vẻ tôn quý tự nhiên khó nói thành lời. Y cứ mải miết nhìn theo nàng, đến tận khi thoáng thấy thái độ không vui vẻ, vầng trán tỏ rõ sự giận dữ của Lâu Triệt. Thầm nghẹn ngào, y lại liếc nhìn Quy Vãn thật kỹ thêm lần nữa, quả nhiên sắc mặt Lâu Triệt càng trầm xuống, Nam Quận vương vội vã dời tầm mắt, cúi đầu nhấp một ngụm canh còn ấm trong chén, lòng cười thầm. Ai mà ngờ được Lâu Triệt lại thể hiện cảm xúc lộ liễu đến vậy, kì thực tuổi y cũng gấp đôi Lâu phu nhân, huống chi trong nhà đã có ái thê.

Lâu Triệt vươn tay nắm lấy tay Quy Vãn, cảm thấy bàn tay hơi lạnh, nửa trách cứ nửa lại xót xa mà nhìn nàng, Quy Vãn mỉm cười an ủi: “Nhân lúc canh còn nóng mau uống đi.”

Căn phòng vốn ngập tràn những âm mưu ám muội, thế nhưng một tô canh tỏa hơi ấm nồng nàn, một cái nhăn mày liếc mắt ân cần, tất cả đều tiêu tan. Ngay cả Đoan vương vốn trùng trùng sát khí cũng cúi đầu, nhấp ngụm canh nóng hổi, ánh mắt chốc chốc lại xoay chuyển giữa Quy Vãn và Lâu Triệt.

Căn phòng chìm trong lặng câm, Quy Vãn nhìn ba người đang chú tâm vào chén canh, từng cuộn khói mơ màng vươn lên trong không khí, lại như ai nấy đều mang tâm tư. Đôi mắt đẹp đẽ liếc qua, lên tiếng: “Nhân lúc nhàn hạ, thiếp kể cho mọi người một câu chuyện giải khuây”.

Lâu Triệt hơi lấy làm lạ lùng, Nam Quận vương và Đoan vương lại có vẻ hào hứng. Nữ nhi trong tiệc nghị luận vốn là điều không hợp quy củ, trừ một số nữ nhân đặc biệt tôn quý, nhưng những cô gái này một khi lên tiếng đều hết sức cẩn trọng. Thế nhưng lúc này đây, Quy Vãn thản nhiên chuyện trò, thái độ hết sức thoải mái, khiến ba người đều im lặng, đợi chờ nàng nói tiếp.

“Trang Tử(2) một đời nghèo khó chán nản, Sở vương ngưỡng mộ tài năng đức độ của ông, mới phái sứ thần đem bạc vàng vời ông tới ban cho tước vị. Thế nhưng Trang Tử từ chối, chỉ cười với Sở sứ mà rằng: “Ta chỉ chơi đùa trong nơi ngòi vũng để tự vui, không để cho kẻ có quyền thế trói buộc, trọn đời không ra làm quan để thỏa chí ta tự do vẫy vùng.(3)”

(2) Trang Tử ( 365-290 trước Công Nguyên) là một triết gia và tác gia Đạo giáo. Tên thật là Trang Chu ( Châu), còn có các tên khác như Mông Lại, Mông Trang hay Mông Tẩu. Ông sống vào thời Chiến Quốc, thời kỳ đinh cao của các tư tưởng triết học Trung Hoa với Bách Gia Chư Tử. Tác phẩm lớn và có giá trị nhất của ông còn lại là Nam Hoa kinh – giàu giá trị triết học và nghệ thuật, được Kim Thánh Thán liệt vào hạng nhất trong lục tài tử thư của Trung Quốc.

(3) Mượn ý từ trích đoạn viết về Trang Tử trong “Sử ký” của Tư Mã Thiên.

Trang Tử có một người bằng hữu rất tốt là Huệ Thi, người này không chống được sức hấp dẫn của phú quý, trở thành Tể tướng nước Ngụy. Một lần Trang Tử nhớ bạn, muốn tới thăm, có người đơm đặt với Huệ Thi rằng:“Trang Tử muốn đến tranh chức Tể tướng của ngài.” Huệ Thi vô cùng hốt hoảng, cho người lục soát ba ngày ba đêm tìm cho được Trang Tử. Trang Tử biết chuyện, mới nói với Huệ Thi: “Phương Nam có một giống chim tên gọi Phượng hoàng, Phượng hoàng bay từ Nam hải đến Bắc hải, không gặp cây ngô đồng không đậu, không gặp cây trúc xanh không ăn, không phải nước suối ngọt lành không uống. Chim cú đang rỉa xác một con chuột chết, thấy Phượng hoàng bay qua, tưởng nó muốn tranh với mình, liền kêu lớn một tiếng muốn dọa nó’(4).”

(4) Mượn ý từ chương “Thu Thủy” – một chương trong phần Ngoại thiên thuộc “Nam Hoa kinh” tương truyền là của Trang Tử.

Thanh âm du dương uyển chuyển như tiếng ngọc lanh canh, chuyện xưa vốn đã quen thuộc giờ đây nghe lại thấy một thứ tư vị khác biệt. Quy Vãn mỉm cười nhìn ba người, thầm ám chỉ, thứ quyền thế các người trăm phương ngàn kế tranh đoạt, rốt cuộc là vàng? Là bạc? Là trân bảo? Có lẽ trong mắt kẻ khác, chẳng qua chỉ là xác một con chuột chết mà thôi…

Nghe xong câu chuyện, sắc mặt Đoan vương trầm xuống, mắt nhìn chằm chằm vào Quy Vãn, Nam Quận vương cũng sa vào trầm tư, mọi người trong phòng đều nhận ra hàm ý trong lời nói của nàng, nhất thời trầm ngâm, tựa như xúc động, lại tựa như bị người khác nói toạc tâm tình chôn giấu trong lòng.

“Phu nhân cũng thật tiêu sái, lấy con chuột chết đánh đồng với quyền thế…” Đoan vương gượng cười, trầm giọng nói.

Quy Vãn không lạm bàn, đến lượt Nam Quận vương tươi cười lên tiếng: “Trang Tử cố nhiên thoát tục hơn người, phu nhân tích xưa kể lại càng sâu sắc động lòng người, bổn vương thụ giáo.”

Thấy thái độ chân thành của y, rõ ràng là ngẫm nghĩ kĩ càng mới lên tiếng, Quy Vãn chau mày, không ngờ được so với Đoan vương, Nam Quận vương càng là một nhân vật đáng nể. Nàng “phì” một tiếng, bật ra nụ cười thanh lệ: “Chẳng qua là chút tích xưa mà thôi, làm gì có thật chứ.”

Bầu không khí lặng câm tan biến nhờ tiếng cười của nàng, Đoan vương và Nam Quận vương cũng bật cười theo, lòng họ thoáng lạnh giá, mơ hồ đoán ra Quy Vãn đã nghe được toàn bộ câu chuyện của mình, song nàng nói cười thật tự nhiên, lời nói dẫu tỏ vẻ như vô tình nhưng ngấm ngầm ảnh hưởng tới không khí xung quanh.

Tâm tư ai nấy đều lay chuyển, Lâu Triệt trước sau không nói một lời, nắm tay Quy Vãn thật chặt quyết không buông lơi. Quy Vãn đứng lên, nhìn quanh một lượt: “Quy Vãn không quấy rầy chư vị nữa, thứ lỗi không thể bồi tiếp thêm.” Nàng quay đầu lại liếc mắt nhìn Lâu Triệt chờ chàng buông tay mình ra, nàng mỉm cười nhàn nhạt, dời gót sen, rời khỏi phòng nghị sự.

Mới ra đến cửa, hơi lạnh tràn đến tấp thẳng vào mặt, hoàn toàn không còn vương vấn chút ấm áp trong phòng, Quy Vãn ngẩng đầu nhìn vầng trăng trong trơ trọi lơ lửng giữa thiên không. Rất lâu sau vẫn không động tĩnh, chỉ thấy sau lưng vang lên tiếng bước chân, nàng quay đầu, thấy Lâu Triệt đã gần ngay trước mặt.

Tay lại bị chàng nắm chặt lần nữa, trăng sáng vằng vặc, nhưng mắt chàng còn sáng hơn trăng: “Quy Vãn, không thể…”

“Không thể?”

Lâu Triệt vòng tay ôm lấy eo thon của nàng, chặt chẽ không một kẽ hở, chẳng nén được kích động: “Không thể quên ta, với nàng, ta sẽ không bao giờ buông tay, nàng biết không?” Chuyện xưa kể lại, là Quy Vãn nói chàng, sao chàng không hiểu ra thâm ý trong đó, nhớ lại lời nàng nói lúc trước, chàng lại thấy chút hoảng hốt pha lẫn buồn bực.

Quy Vãn dựa vào lòng chàng, túm lấy vạt áo, nhẹ giọng nói: “Dân gian có câu cách ngôn.”

“Sao?”

“Thuyền theo lái, gái theo chồng.”

“Ồ?”

Quy Vãn khẽ mỉm cười nằm trong lòng chàng, về trách nhiệm, nàng đã hết lời khuyên nhủ, biết rõ chàng sẽ chẳng bao giờ thay đổi chủ ý, nàng cũng chẳng biết làm sao. Về tình cảm, nàng chỉ biết có phúc cùng hưởng có họa cùng chia, không rời không bỏ. Từ nay về sau, dẫu cho phong ba bão táp, thế cục thiên hạ có ra sao, nàng đã làm hết sức có thể rồi, rốt cuộc không còn gì đè nặng trong lòng nữa.

“Quy Vãn…”

“Sao vậy?”

“… Nàng xem kìa, trăng sáng lắm…”

Quy Vãn ngẩng đầu kinh ngạc, phát hiện ánh mắt Lâu Triệt sáng rực, dáng vẻ thật cao hứng, dường như có chút ngại ngùng, nhịn không được, nàng bật cười thành tiếng…

Người đàn ông quyền thế át vua vượt dân thảng hoặc lộ ra vẻ thanh thuần này… là phu quân của nàng…

* * *

Nửa năm sau.

Tướng phủ náo nhiệt phi thường, ngựa xe như nước, người chen chúc nhau đông đúc như nêm, dòng người tấp nập đổ xô vào, rước lấy bao nhiêu cái nhìn tò mò của dân chúng kinh thành, từng chậu từng chậu hoa cỏ tươi tốt chuyển vào trong phủ. Khi ấy đang lúc cuối xuân đầu hè, anh đào sắp hết mùa, vườn hoa bắt đầu thưa thớt bóng đua chen, chỉ còn duy nhất thược dược đơm bông rực rỡ, bây giờ hoa khắp nơi nô nức chuyển đến trước sau chỉ có một loài, thược dược(5). Đúng là từng bừng nở rộ, tươi đẹp yêu kiều, hoa liền hoa, lá liền lá, có hoa như chiếc mũ, có hoa như cái bát, có hoa như tú cầu, một loài hoa mà muôn hình vạn trạng đủ mùi hương.

(5) Ở đây chỉ loài Thược dược Trung Quốc, hay còn gọi là hoa tiên (danh pháp khoa học: Paeonia lactiflora) là một loài thực vật trong chi Mẫu đơn Trung Quốc (danh pháp Paeonia). Đây là loài thân thảo, sống lâu năm, cao khoảng 60-100cm, hoa nụ tròn, bung nở thành bông lớn, có màu trắng, hồng hoặc đỏ sẫm, thường hay bị nhầm với hoa mẫu đơn, nhưng lá xanh sẫm và bóng hơn. Loài này phân bố khắp miền Đông Tây Tạng, phía Bắc Trung Quốc và miền Đông Siberia, được dùng trong Đông Y như một dược thảo với tên gọi là “thược dược”, hoàn toàn khác với giống cúc thược dược (danh pháp Dahlia), nguồn gốc Mexico.

Quy Vãn đi giữa vườn hoa, thấy muôn hồng ngàn tía rợp tầm mắt, thầm than cảnh sắc tươi đẹp, đúng là tiên cảnh, ánh mắt liếc qua, thấy trước cổng chuyển vào một chậu hoa đang nở rộ, nhìn kỹ, đúng là mẫu đơn(6). Nàng ngây người, tiến lại phía ấy, thợ trồng hoa liền ngừng tay, bẽn lẽn nhìn Quy Vãn.

(6) Mẫu đơn Trung Quốc (danh pháp: Paeniaceae), nguồn gốc ở Châu Á, miền nam châu Âu và miền Tây Bắc Mỹ, có hoa lớn, hương thơm, màu đỏ, trắng, hồng hoặc vàng, thường nở hoa vào cuối mùa xuân hay đầu hè. Đây là một loài hoa được sử dụng lâu đời bậc nhất trong các họa tiết trang trí Trung Hoa cổ và là một trong các biểu trưng quốc gia của đất nước này. Suốt dọc bề dày lịch sử Trung Hoa, mẫu đơn luôn được coi là “Vua của các loài hoa”, xưa kia các đô thị Trung Hoa cổ thường mở các cuộc triển lãm hoa mẫu đơn thu hút hàng ngàn chậu hoa rực rỡ, mà nổi danh nhất trong đó là mẫu đơn thành Lạc Dương.

Nhìn đi nhìn lại, càng chắc chắn đích thị là một chậu mẫu đơn, Quy Vãn trầm ngâm không nói. Thược dược và mẫu đơn cùng được xưng tụng là “tuyệt sắc trong giới hoa”, người xưa nói: “Mẫu đơn là hoa vương, thược dược là hoa tướng”. Năm nay quan viên nơi nơi đều dâng tặng thược dược, rõ ràng có ý định nịnh hót Lâu Triệt “dưới một người, trên vạn người”. Mà lúc này đây, lại có người tặng một chậu mẫu đơn vua của các loài hoa, ý định thật khả nghi, nàng hỏi: “Ai tặng cây này vậy?”

Thợ làm vườn đã sớm hoảng hốt, vội đáp: “Là một lão gia đi xe ngựa tặng.” Gã lắp bắp, vâng vâng dạ dạ mà lòng kinh hãi vô cùng, cúi lom khom, chỉ sợ đã phạm phải sai lầm nào đó rước họa vào thân.

“Người tặng hoa giờ ở đâu?”

Thợ làm vườn ngẩng đầu, nét mặt sợ sệt, chỉ phía bên phải cổng lớn: “Chiếc xe ngựa rẽ vào con đường nhỏ bên cạnh.”

“Dẫn đường, ta muốn xem gấp.” Quy Vãn ôn nhu nói, đưa mắt nhìn quanh, thấy cả ba nha hoàn Linh Lung, Như Minh, Như Tình ở trong sân sắp xếp mọi thứ đâu vào đó, lòng bình tĩnh lại ít nhiều, siết chặt tay áo, theo gã làm vườn đi ra ngoài.

Cổng chính bị người chen chặt như nêm, đám gia nhân thấy phu nhân đang đến liền đặc biệt mở cổng phụ bên phải, để hai người đi qua. Gã làm vườn vòng qua phía bên phải, bóng người thưa thớt, tiếng xôn xao vơi bớt mấy phần, Quy Vãn ngưng trọng nhìn kỹ con đường nhỏ, giật mình phát hiện đây chính là nơi nàng lần đầu tiên gặp tên Vương tử Nỗ tộc Gia Lịch. Chốn này nằm ngay trung tâm kinh thành, lại gần rất nhiều phủ đệ của các vị quan lại quyền quý, vì thế đặc biệt yên tĩnh. Vừa bước vào con đường ấy, liền thoáng thấy một cỗ xe ngựa màu đen đứng sát lề đường, giản dị vô cùng, nhưng tuấn mã kéo xe lông trắng như tuyết, thân mình cao lớn vạm vỡ, đúng là bảo mã hiếm thấy.

Lòng đột nhiên dấy lên một cảm giác bất an, Quy Vãn dừng bước, đứng ở đầu hẻm, nói với gã làm vườn đi trước mấy bước: “Được rồi, về thôi.” Lời vừa mới dứt, nàng liền xoay người, đột nhiên thấy hoa mắt, gã làm vườn đã đứng chắn trước mặt.

Vừa rồi còn run rẩy như cầy sấy, gã làm vườn bộ dạng hèn mọn giờ đây sắc mặt đã như thường, còn lộ ra mấy phần nghiêm nghị, mở miệng: “Phu nhân, mời lại gần xem thử chút đi.” Giọng nói cứng rắn, đâu còn dáng vẻ lắp bắp vừa rồi.

Thầm giận trong lòng, nghi vấn đột nhiên trỗi dậy, Quy Vãn quát khẽ: “Càn rỡ!” Hạ nhân trong Tướng phủ nào dám to gan lớn mật như vậy, ngày thường việc sắp xếp người trong phủ đều giao cho Linh Lung xử lý gọn ghẽ, trừ kẻ hầu người hạ bên mình, nàng không biết rõ lắm đám nô tài trong nhà, hôm nay người ra vào tấp nập, lẽ nào gã đột nhập vào phủ? Đang bận nghĩ ngợi, Quy Vãn liếc về phía đầu đường, phát hiện ra bóng đen mờ mờ, đầu đường tựa hồ có người canh gác. Quả nhiên bản thân sơ suất, những muốn truy tìm thân phận kẻ tặng hoa, lại quên không xem xét hạ nhân trong Tướng phủ, cứ theo hoàn cảnh này, kẻ ngồi trên xe ngựa kia hẳn thân phận tôn quý vô cùng. Lòng không kìm đươc, lại liên tưởng tới một người, có điều người đó giờ hẳn phải cao cao trong điện Ngự Càn, chứ không chui rúc trong con hẻm nhỏ phía sau Tướng phủ…

“Phu nhân, chủ nhân muốn mời người qua một chuyến, xin phu nhân chớ gây khó dễ cho tiểu nhân.” Gã làm vườn cúi đầu, lại ra dáng tiểu nhân cung kính khiêm nhường.

Tình thế trước mắt không cho phép nàng cự tuyệt. Cổng Tướng phủ người ra vào tấp nập, dẫu có cao giọng lớn tiếng hô hoán cũng chẳng có tác dụng, mà nếu người trong xe ngựa đúng như dự đoán của nàng, khó tránh khỏi một trận đất bằng sinh sóng gió, thực sự là chuyện lớn. Cân nhắc như vậy, Quy Vãn vuốt hai lọn tóc mai, một lần nữa tiến về phía xe ngựa.

Còn cách xe ngựa hai bước, hoàn toàn không thấy chút động tĩnh nào, Quy Vãn thấy hơi do dự, quay đầu nhìn lại, gã làm vườn đã biến mất từ bao giờ, trong hẻm nhỏ vắng vẻ chỉ còn mình nàng và chiếc xe ngựa. Gió không ngừng lùa qua con hẻm nhỏ, giữa tháng Năm, ánh dương rực rỡ, không gian đượm hương hoa thoang thoảng, thế nhưng trong cảnh sắc tĩnh lặng ấy lại ẩn chứa biến cố không thể lường trước, nàng suy tư mãi không dứt, tiến thêm nửa bước, đưa tay định vén rèm.

Tay còn cách rèm chưa tới một tấc, rèm đen tuyền thoáng lay động rồi mở ra, bị ai đó vén lên từ phía trong, Quy Vãn kì quái nhìn vào trong xe.

Trong xe đột nhiên sáng bừng lên, Trịnh Lưu một thân thường phục, áo bào dài màu đen thêu hoa văn, mũ ngọc tóc búi, tay cầm quạt giấy, trên dưới đều là dáng cách ăn mặc của nho sĩ. Khóe miệng y nhếch lên thành một vòng cung, ánh mắt tăm tối như hồ sâu mang theo ý cười, nhìn qua Quy Vãn một chút, bờ môi mỏng mới mở: “Thế nào? Phu nhân không quen trẫm ư?”