Kẻ Hư Đốn Mắt Xanh (Blue-Eyed Devil)

Chương 11




“Nick?” Tôi cảm thấy như máu tôi đông đặc lại thành những tinh thể pha lê lạnh buốt trong huyết quản. "Làm sao anh có số của tôi? Anh muốn gì?”

“Anh chỉ muốn biết em có ổn không thôi mà.”

Giọng anh ta quá quen thuộc. Âm thanh của nó đã biến khỏi đầu óc tôi những tháng qua cứ như tất cả chỉ là một giấc mơ. Nhưng bây giờ nếu tôi nhắm mắt lại, tôi có thể gần như tin rằng tôi đã quay về căn hộ ở Dallas và anh ta sẽ đi làm về ngay thôi.

Vậy nên tôi giữ cho mắt mình mở to, như thể chỉ một cái chớp mắt sẽ mang lại kết quả là cái chết. Tôi nhìn chòng chọc vào mặt vải dệt của tấm phủ sofa màu kem cho tới khi phân biệt được rõ ràng từng sợi vải. “Tôi rất ổn,” tôi nói. “Còn anh sao rồi?”

“Không ổn chút nào hết.” Một quãng lặng thật lâu. “Vẫn đang cố làm cho mình tin rằng mọi việc thật sự đã hết. Anh nhớ em, Marie.”

Anh ta có vẻ trầm tư. Một cái gì đó trong giọng anh ta moi ra được một cảm giác tội lỗi đen tối ri rỉ ra từ tim tôi.

“Tên tôi là Haven,” tôi nói. “Tôi sẽ không trả lời nếu bị gọi là Marie nữa đâu.”

Tôi nghĩ điều đó sẽ chọc tức anh ta, nhưng anh ta làm tôi sững lại khi nói, “Được thôi, Haven.”

“Tại sao anh gọi điện?” Tôi cộc lốc hỏi. “Anh muốn gì?”

“Chỉ nói chuyện một phút thôi mà.” Nick có vẻ cam chịu và hơi thất vọng. “Chúng ta vẫn được phép nói chuyện chứ?”

“Tôi đoán vậy.”

“Anh đã có nhiều thời gian để suy nghĩ. Anh muốn em hiểu một điều…Anh không bao giờ có ý định để cho mọi việc tuột khỏi tầm tay như chúng ta đã làm.”

Tôi nắm điện thoại quá mạnh đến nỗi tôi hơi ngạc nhiên khi nó không vỡ. Tôi tin anh ta. Tôi chưa bao giờ nghĩ Nick đã muốn hay lên kế hoạch làm những điều theo cách anh ta đã làm. Có nhiều thứ trong nền tảng giáo dục, trong thời thơ ấu của anh ta, những thứ đã làm anh ta gây thương tổn cho người khác. Anh ta là một nạn nhân, giống như tôi.

Nhưng điều đó không có nghĩa anh ta vô trách nhiệm trong những thiệt hại mà anh ta đã gây ra cho tôi.

Tôi tràn ngập nuối tiếc cho những thứ mà chúng tôi đã đánh mất…và những thứ mà chúng tôi chưa bao giờ có. Tôi cảm thấy buồn nôn và kiệt sức.

“Em có căm thù anh không, Haven?” Nick dịu dàng hỏi.

“Không, tôi căm thù cái việc anh làm.”

“Anh cũng căm thù cái việc anh làm.” Anh ta thở dài. “Anh vẫn nghĩ…nếu chúng ta có nhiều thời gian bên nhau hơn, nếu chúng ta có thể được phép giải quyết vấn đề của chúng ta thay vì bị anh trai em xông vào và thúc đẩy vụ ly dị xảy ra quá nhanh …”

“Anh đã làm tổn thương tôi, Nick,” là tất cả những gì tôi có thể nói.

“Em cũng làm anh tổn thương. Em nói dối anh suốt thời gian đó, về những việc nhỏ nhặt, những việc quan trọng…em đã luôn bỏ qua anh.”

“Tôi không biết cách nào khác để cư xử với anh. Sự thật làm anh giận dữ.”

“Anh biết. Nhưng nó làm cho hai người có một cuộc hôn nhân tốt đẹp. Và anh có nhiều vấn đề phải đương đầu__ việc không được gia đình em chấp nhận, và phải làm việc như một con chó để chu cấp cho em__và em luôn đổ lỗi cho anh là không có khả năng giải quyết vấn đề của em.”

“Không phải,” tôi phản đối. “Có thể là anh tự đổ lỗi cho mình thôi, chứ tôi chưa bao giờ cảm thấy thế.”

“Em không bao giờ thực sự cùng anh. Thậm chí ngay cả khi chúng ta ngủ với nhau. Anh có thể nói chưa bao giờ em thực sự đặt hết mình vào đó. Dù cho anh có làm cái gì, em cũng không bao giờ đáp ứng với anh theo cách những người phụ nữ khác làm. Anh vẫn không ngừng mong em sẽ trở nên khá hơn.”

Mẹ kiếp, Nick biết cách làm thế nào để điều khiển tôi, làm thế nào để đánh thức lại cảm xúc không xứng đáng mà tôi đã đấu tranh hết sức để khắc phục. Nick biết nhiều điều về tôi mà không ai khác biết được. Chúng tôi sẽ luôn bị ràng buộc với nhau bởi lầm lỗi chúng tôi từng chia sẻ__nó là một phần của tính cách cá nhân riêng biệt của chúng tôi. Nó có thể sẽ không bao giờ phai mờ.

“Hồi này em có hẹn hò ai không?” Tôi nghe anh ta hỏi.

“Tôi không cảm thấy thoải mái khi thảo luận việc đó với anh.”

“Nghĩa là có. Anh ta là ai vậy?”

“Tôi chẳng hẹn hò ai hết,” tôi nói. “Tôi không ngủ với ai hết. Anh không phải tin điều này, nhưng nó là sự thật.” Ngay tức khắc tôi tự cảm thấy hối hận vì đã nói thế, và vì cảm giác rằng tôi vẫn có trách nhiệm phải giải thích với anh ta.

“Anh tin em,” Nick nói. “Em sẽ hỏi lại anh phải không?”

“Không. Tôi không quan tâm nếu anh có hẹn hò ai đó. Đấy không phải việc của tôi.”

Anh ta im lặng trong chốc lát. “Anh mừng vì em vẫn ổn, Haven. Anh vẫn yêu em.”

Điều đó làm nước mắt dâng đầy mi tôi. Tôi rất mừng vì anh ta không thể nhìn thấy chúng. “Tôi rất mong anh không gọi lại tôi nữa, Nick.”

“Anh vẫn yêu em,” anh ta nhắc lại, và treo máy.

Chậm chạp tôi đặt lại điện thoại lên giá, và cố tình chùi nước mắt bằng cách chúi mặt vào sofa. Tôi nằm mãi ở tư thế đó cho tới khi tôi bắt đầu ngạt thở, và rồi ngẩng đầu lên và hít vào một hơi dài.

“Tôi đã nghĩ tôi yêu anh,” tôi nói to, mặc dù Nick không thể nghe tiếng tôi.

Nhưng tôi đã không biết tình yêu là gì.Và tôi tự hỏi làm sao bạn có thể khẳng định được, khi bạn nghĩ bạn yêu ai đó, nếu như bạn thật sự biết yêu là gì.

Ngày hôm sau, trời mưa.

Trong những lần hạn hán không thường xuyên, Houston trở nên quá khô đến nỗi, như một câu nói đùa lan truyền trong vùng, “cây cối cũng phải xu nịnh cậu ông trời.” Nhưng khi nó mưa, thì cũng mưa thật sự. Và như mọi thành phố đồng bằng được xây dựng trên sông lạch, Houston cũng có vấn đề lớn trong việc thoát nước. Trong thời gian mưa lớn trút xuống, nước mưa đọng lại trên các ngõ phố rồi mới chảy vào mương, cống, và kênh rạch đổ thẳng ra vịnh Mexico. Trong quá khứ, không thể đếm được số người đã bị chết bởi những cơn lũ đột ngột, xe của họ bị lật hay bị cuốn đi khi họ cố gắng cắt ngang dòng nước xiết. Thỉnh thoảng dòng chảy lại làm vỡ ống dẫn nhiên liệu, đường cống, làm gãy cầu, và làm cô lập những tuyến phố chính.

Một dự báo lũ lụt đã được thông báo sau giờ ăn trưa, và sau đó nó đã đổi thành một cảnh báo có thật. Mọi người chấp nhận nó một cách dễ dàng, vì những cư dân Houston đã quá quen thuộc với những cơn lũ đột ngột và hầu hết đều biết những phố nào phải tránh trong thời gian đi lại buổi tối.

Gần cuối ngày, tôi có một buổi họp ở Cao ốc Buffalo để thảo luận về một hệ thống yêu cầu bảo dưỡng trực tuyến mới. Đầu tiên Vanessa đã lên kế hoạch tham gia buổi họp, nhưng chị ta đã đổi ý vào phút cuối cùng và cử tôi đi thay. Chị ta nói với tôi đó là gần như là một buổi họp để cung cấp thêm yêu cầu chi tiết, và chị ta có nhiều việc quan trọng để làm hơn là nói chuyện về phần mềm. “Tìm hiểu kỹ mọi thứ về hệ thống đó,” chị ta bảo tôi. “và chị sẽ có vài điều để hỏi em sáng mai đấy.” Tôi khá chắc chắn địa ngục sẽ chờ đón tôi nếu Vanessa có một câu hỏi nào đó mà tôi không trả lời được. Vậy nên tôi thu xếp để tìm hiểu đến chi tiết cuối cùng về chương trình phần mềm, ghi chép vắn tắt tất cả những gì cần thiết.

Tôi cảm thấy nhẹ nhõm nhưng vẫn thắc mắc không hiểu vì sao Vanessa không đề cập một từ nào đến việc gặp tôi ở nhà hát Harrisburg đêm hôm trước. Và chị ta cũng không hỏi han gì về Hardy. Tôi cố luận giải thái độ của chị ta, nhưng việc đó giống như cố thử dự báo thời tiết vậy, một nhiệm vụ không chắc chắn ngay cả khi đã làm hết sức. Tôi chỉ còn hy vọng chị ta đã quyết định coi chủ đề đó như một thứ không đáng quan tâm.

Mặc dù Cao ốc Buffalo chỉ cách 1800 Main vài khối nhà, tôi vẫn lái xe tới đó vì mưa đổ xuống như trút nước. Toà nhà là một trong những toà nhà chọc trời cũ, một kiến trúc có đầu hồi bằng đá granit màu đỏ nhắc tôi nhớ tới những toà nhà kiểu những năm 1920.

Sau khi đỗ xe ở một trong những tầng thấp của ga ra ngầm, tôi kiểm tra tin nhắn trên di động. Tôi nhìn thấy Hardy đã gọi, và dạ dày tôi co thắt. Tôi nhấn một phím để nghe tin nhắn của anh.

“Chào.” Giọng anh cộc lốc. “Chúng ta cần nói chuyện về đêm hôm qua. Gọi cho anh khi nào em xong việc nhé.”

Tất cả chỉ có thế. Tôi nghe lại tin nhắn lần nữa, và tôi mong tôi có thể huỷ buổi họp và tới với anh ngay lúc này. Nhưng nó sẽ không kéo dài lâu__tôi sẽ chạy chương trình thật nhanh, và rồi tôi sẽ gọi anh.

Lúc chuyên gia cố vấn phần mềm, Kelly Reinhart, và tôi kết thúc, thì đã hơn sáu giờ một chút. Nó có thể còn kéo dài lâu hơn nữa, nếu không có một cú điện thoại từ phòng bảo vệ báo với chúng tôi rằng nước đã bắt đầu dâng lên ở tầng thấp nhất của ga ra. Ở đó gần như trống rỗng, vì hầu hết mọi người đã lấy xe ra về hết rồi, nhưng vẫn còn một hoặc hai xe đang đỗ ở đó, và chúng có thể bị chuyển đi.

“Chết rồi, một trong số đó là của tôi,” tôi nói với Kelly, đóng laptop và cất vào trong cặp. “Tốt hơn tôi nên xuống xem xe của tôi ra sao. Có phiền không nếu ngày mai tôi gọi lại chị để thảo luận nốt vài điểm mà chúng ta chưa đề cập tới?”

“Không có gì phiền phức đâu.” Kelly nói.

“Thế còn chị thì sao?...chị cũng xuống ga ra chứ?”

“Hôm nay tôi không đi xe, nó đang ở trong xưởng. Chồng tôi sẽ đón tôi lúc sáu rưỡi. Nhưng tôi sẽ xuống thang máy cùng chị nếu chị cần người đi cùng__”

“Thôi, thôi ạ…” Tôi mỉm cười và cầm cặp lên. “Tôi tự đi được.”

“Tốt thôi. được rồi. Gọi lên đây hay tới ngay phòng bảo vệ ở tiền sảnh nếu gặp khó khăn nhé.” Kelly ra vẻ nhăn nhó. “Rò nước như cái toà nhà cũ nát này, có khi xe của chị đã bị ngập dưới nước rồi chưa biết chừng.”

Tôi phá lên cười “Chúc tôi may mắn đi. Xe tôi là xe mới đó.”

Hầu hết những người làm việc ban ngày đều đã đi về, toà nhà thật yên lặng và hơi đáng sợ, những cánh cửa đã khoá và cửa sổ tối đen. Sấm ì ùng bên ngoài, làm tôi rùng mình trong bộ áo công sở. Tôi rất vui sướng được trở về nhà. Một chiếc giày của tôi hơi chật lúc này lại càng bó chặt lấy chân, và cái móc của khoá kéo bên hông quần đâm vào da tôi, và tôi đang đói. Hơn tất thảy, tôi đang nóng lòng khắc khoải muốn gặp Hardy và nói với anh tôi hối hận biết bao về đêm hôm qua. Và tôi sẽ phải giải thích…gì đó.

Tôi vào thang máy và bấm nút xuống tầng thấp nhất của ga ra. Cánh cửa đóng lại, và thang máy đi xuống êm ả. Nhưng khi tôi chạm mặt đất, mặt sàn dưới chân tôi tự nhiên chao đảo lạ lùng, và tôi nghe tiếng nổ lốp bốp và lách tách, và rồi mọi thứ chết lặng. Ánh sáng, chuyển động, mọi thứ đều ngừng bặt. Tôi bật kêu lên sửng sốt khi tôi bị bỏ lại trong bóng tối dày đặc. Tồi tệ hơn, tôi nghe thấy tiếng nước róc rách không ngừng, giống như ai đó đã vặn vòi bên trong thang máy.

Lo âu nhưng không sợ hãi, tôi lần tìm bảng điện cạnh cửa, bấm vài nút, chẳng có gì xảy ra.

“Điện thoại,” tôi nói to lên, cố gắng trấn tĩnh mình bằng âm thanh của chính giọng tôi. “Luôn có điện thoại trong thang máy.” Những ngón tay mò mẫm của tôi tìm thấy một cái điện thoại khẩn cấp của thang máy với một nút bấm, tất cả đám được gắn trên tường. Tôi bấm nút, giữ nguyên đó, nhưng chẳng có tín hiệu đáp lại.

Tôi tự coi mình là người may mắn vì tôi không nằm trong số những người mắc chứng sợ thang máy. Tôi vẫn đang giữ được bình tĩnh. Cẩn thận tôi lục lọi trong cặp để tìm điện thoại di động của tôi. Một cái gì đó lạnh buốt quét qua bàn chân tôi. Đầu tiên tôi nghĩ đó là nước thấm từ ngoài vào, nhưng chỉ một giây sau tôi cảm thấy cái lạnh ướt át trong giầy tôi, và tôi nhận ra nước đã dâng cao khoảng 5 centimet trong buồng thang máy.

Cẩn thận tôi lấy điện thoại di động ra và trượt mở máy. Tôi dùng tạm nó để thay cho đèn pin, dùng màn hình nhỏ xíu chiếu xung quanh tôi để xem xem nước từ đâu vào.

Nước sóng sánh như dầu phun vọt qua khe hở giữa hai cánh cửa buồng thang. Quá đủ tồi tệ. Nhưng khi tôi chiếu điện thoại di động lên phía trên, tôi nhìn thây nó không chỉ tràn vào từ dưới sàn. Nó còn đang chảy xuống từ trên nóc.

Cứ như cả buồng thang máy đã bị nhận chìm.

Không thể như thế được. Chẳng có cách nào mà khoang thang lại bị chìm trong hai hay ba mét nước được…nó không có nghĩa tầng trệt của ga ra đã bị ngập nước gần hết chứ? Điều này không thể xảy ra đúng lúc tôi ở trong toà nhà. Nhưng cứt… một khoang thang đầy nước giải thích tại sao tất cả hệ thống điện có vẻ như bị đoản mạch hết.

“Thật là điên,” tôi nói thầm, nhịp tim tôi đập nhanh khắc khoải khi tôi bấm số điện thoại tổng của toà nhà. Nó kêu hai lần, và rồi phát lại lời nhắn được ghi âm liệt kê tất cả các số lẻ của tổng đài. Ngay khi tôi nghe được ba con số của phòng an ninh, tôi bấm máy kết nối. Hai tiếng chuông nữa…và rồi chỉ còn tín hiệu máy bận.

Khẽ chửi thề, tôi bấm lại số máy tổng đài và cố kết nối với số máy lẻ của Kelly. Và máy tự động trả lời. “Xin chào, đây là Kelly Reinhart. Tôi không ở trong văn phòng, nhưng nếu bạn để lại tin nhắn, tôi sẽ gọi lại ngay khi có thể.”

Tôi nhắn lại, cố gắng tỏ ra chuyên nghiệp nhưng khẩn thiết. “Kelly, Haven đây. Tôi bị mắc kẹt trong một thang máy ở tầng ga ra ngầm, và nước đang tràn vào. Làm ơn giúp tôi báo cho bộ phận an ninh biết tôi đang ở đây.”

Nước vẫn tiếp tục đổ vào, xoáy mạnh quanh mắt cá chân tôi.

Khi tôi kết thúc cuộc gọi, tôi nhìn thấy tín hiệu hết pin trên máy tôi nhấp nháy. Với một chút điện còn lại trong máy, tôi sẽ không bỏ lỡ cơ hội của mình. Tôi gọi 911, dõi theo ngón tay mình như thể nó là của một ai đó khác. Và tôi lắng nghe, không tin vào tai mình, khi cuộc gọi được nối thẳng tới máy trả lời tự động. “Hiện nay các đưòng dây đều bận. Làm ơn giữ máy cho tới khi có một nhân viên điều hành sẵn sàng nghe bạn.” Tôi giữ máy, chờ trong một phút mà tưởng chừng như cả một cuộc đời, và ngắt máy khi rõ ràng sẽ chẳng có gì xảy ra. Tôi gọi lại lần nữa với sự thận trọng đau đớn…9-1-1…và lần này tôi chẳng nghe được gì ngoài tín hiệu báo bận.

Điện thoại của tôi kêu bíp cho tôi biết pin đã gần như hết hẳn.

Với mực nước đã lên tới giữa cẳng chân tôi và tiếp tục đổ xuống không ngừng, tôi không còn giả vờ rằng mình vẫn còn giữ đựơc bình tĩnh nữa. Bằng cách nào đó tôi hiển thị được danh sách cuộc gọi vừa nhận trên màn hình. Tôi ấn vào để gọi lại cuộc gọi cuối cùng của Hardy.

Chuông kêu. Một lần…hai lần… tôi thở hổn hển vì khuây khoả khi tôi nghe được giọng của anh.

“Cates.”

“Hardy,” tôi nấc lên, không thể nói đủ nhanh. “Em đây. Em cần anh, Em cần giúp đỡ.”

Anh không bỏ lỡ một nhịp nào. “Em ở đâu?”

“Cao ốc Buffalo. Thang máy. Em ở trong một cái thang máy mắc kẹt dưới ga ra và nước đang tràn vào. Nhiều nước lắm__” Điện thoại lại kêu bíp nữa. “Hardy, anh có nghe thấy em không?”

“Nói lại đi.”

“Một cái thang máy ở Cao ốc Buffalo__Em mắc kẹt dưới ga ra, trong thang máy, và nước ngập, và em cần__” Điẹn thoại bíp và tắt hẳn. Tôi lại bị bỏ rơi trong bóng tối một lần nữa. “Không,” Tôi gần như gào lên vì sợ hãi. “Mẹ kiếp. Hardy? Hardy?”

Chẳng có gì ngoài im lặng. Và nước phun trào, vỗ ì ọp.

Tôi cảm thấy cơn kích động dâng trào, và tôi trên thực tế đã cân nhắc xem có nên để nó bùng nổ hay không. Nhưng vì làm thế cũng chẳng mang lại lợi lộc gì, và tôi khá chắc chắn rằng nó cũng sẽ không làm cho tôi cảm thấy khá hơn, nên tôi nén nó xuống và hít thở sâu.

“Con người ta không thể chết đuối trong thang máy đựơc,” tôi nói lớn.

Nước đã chạm tới đầu gối tôi, và nó lạnh buốt nhức nhối. Nó cũng có mùi rất khó ngửi, giống như mùi dầu, mùi hoá chất và mùi nước thải. Tôi lôi máy tính ra khỏi cặp, bật lên, và cố gắng vô ích để kết nối Internet. Ít nhất với màn hình sáng, bóng tối không còn đặc sệt xung quanh tôi nữa. Tôi nhìn lên trần, nơi được phủ bằng những tấm gỗ và những ngọn đèn mắt trâu, tất cả đều tắt. Có phải đó được cho là lối thoát hiểm không? Có thể nó đã bị gỗ che. Tôi không thể nghĩ ra cách nào để với tới đó mà tìm kiếm lối thoát.

Tôi khó nhọc lần mò bên cạnh cửa và thử dùng lại điện thoại của thang máy lần nữa, cũng như thử bấm lại hết các nút thang và vẫn chẳng có gì xảy ra. Cầm một chiếc giầy gót nhọn của mình, tôi dùng gót giầy đập thình thình lên tường và kêu gọi giúp đỡ trong vài phút.

Vào lúc tôi đã chán nản với việc gõ đập rồi, thì tôi đã bị ngập tới thắt lưng. Tôi quá lạnh đến nỗi răng tôi va vào nhau lập cập và xương khớp trên chân tôi đau nhức. Ngoại trừ tiếng nước chảy vào, xung quanh tôi im ắng. Mọi nơi đều êm ả ngoại trừ trong đầu tôi.

Tôi nhận thức được mình đang ở trong một cái quan tài. Tôi thực tế sẽ chết trong một cái hòm kim loại.

Tôi đã từng được nghe nói đây không phải là cách tồi tệ để chết, chết đuối ấy. Còn những cách chết chán hơn nhiều. Nhưng thật quá bất công__tôi chưa làm được một điều gì trong đời mình đáng để được kể lể trong điếu văn cả. Tôi vẫn chưa hoàn thành xong những mục tiêu mà tôi đặt ra từ thời trung học. Tôi chưa bao giờ làm lành với bố tôi, chưa bao giờ thực lòng. Tôi chưa bao giờ giúp đỡ những người thiếu may mắn.Tôi thậm chí chưa bao giờ có quan hệ tình dục mỹ mãn.

Tôi chắc chắn rằng những người phải đối mặt với cái chết nên bận rộn với những ý nghĩ cao quý, nhưng thay vì thế tôi lại thấy bản thân mình chỉ toàn nghĩ tới những giây phút ở trong cầu thang bộ với Hardy. Nếu tôi đã tận dụng trọn vẹn lần đó, thì ít nhất tôi cũng có một lần quan hệ tình dục tuyệt vời trong đời. Nhưng tôi đã bỏ lỡ nó. Tôi ham muốn anh. Tôi quá ham muốn. Chẳng có gì kết thúc trọn vẹn trong đời tôi hết. Tôi đứng đó, chờ đợi sự kết thúc cuối cùng không phải bằng sự cam chịu nhẫn nhục mà là bằng cơn giận sôi sục.

Khi nước đã chạm tới gọng áo ngực tôi, tôi đã mệt mỏi với việc phải giơ cao cái máy tính , nên tôi thả cho nó chìm luôn. Nó bị ngập dần và bập bềnh chạm vào sàn thang máy trong làn nước quá bẩn đến nỗi bạn gần như không thể nhìn thấy màn hình sáng trước khi nó bị tắt phụt và chìm vào bóng tối. Mất phương hưóng, bóng tối lạnh lẽo bao phủ quanh tôi. Rúm người vào một góc, tôi dựa đầu vào tường và hít thở, và chờ đợi. Tôi tự hỏi sẽ cảm thấy như thế nào nếu không còn không khí và tôi phải hít nước nào trong phổi.

Âm thanh của một tiếng đập mạnh lên trần là nguyên nhân gây ra một cái giật bắn thẳng vào người tôi như một viên đạn. Tôi quay đầu từ bên này sang bên kia, không nhìn thấy gì và sợ hãi. Bang. Những tiếng ồn của va đập, của dụng cụ đập vào kim loại. Trần thang cọt kẹt, và toàn bộ thang máy tròng trành như ở trên thuyền.

“Có ai ở đấy không?” Tôi kêu to, mạch tôi đập như trống trận,

Tôi nghe tiếng nghèn nghẹt, xa xa của giọng một con người.

Khích động, tôi nện vào tường thang máy bằng nắm tay. “Giúp với! Tôi bị kẹt ở dưới này!”

Có tiếng trả lời nhưng tôi không thể nghe rõ. Bất kỳ ai đó đang tiếp tục làm việc trên nóc thang, giật mạnh và cậy cho tới khi một tiếng kim loại loảng xoảng đập vào tai tôi. Một phần của tấm trần gỗ bị kéo toạc lên. Tôi dán người vào tường khi tôi nghe tiếng nứt và đổ vỡ, những mảnh vụn rơi xuống nước. Và rồi một tia sáng của đèn pin xuyên qua bóng tối của buống thang, nhảy múa trên mặt nước.

“Tôi ở đây,” Tôi nói trong tiếng nức nở, bì bõm bước lên phía trước. “Tôi ở dưới này. Các anh có cách nào đưa tôi ra khỏi đây được không?”

Một người đàn ông cúi đầu ngó xuống buồng thang máy cho tới khi tôi có thể nhìn thấy mặt và vai anh được chiếu sáng bởi ánh đèn phản chiếu.

“Em có lẽ nên bước lên phía trước,” Hardy nói, mở rộng khe hở với một tiếng hự vì cố sức, “Anh tính giá đắt lắm cho việc cứu hộ thang máy đấy.”