Khom Lưng

Chương 171: Ngoại truyện 7




Ngày kế tiếp, Thái Hoàng thái hậu và Phì Phì hồi cung.

Ngụy Thiệu được báo tin thì tạm ngừng nghị sự với đại thần, đích thân nghênh đón Thái Hoàng thái hậu ở ngoài cửa Chu Tước, lúc nhìn thấy Thái Hoàng thái hậu, hắn bỗng cảm thấy kích động lạ thường, sau khi đưa bà về cung Gia Đức còn lưu luyến không thôi, lần lừ mãi không đi, bảo muốn ở bên bầu bạn với bà thêm chút nữa.

Lúc đầu Từ phu nhân còn tưởng hắn có chuyện gì đó muốn bàn bạc với mình, cuối cùng mới mỉm cười nói lại: “Hoàng thượng có gì muốn nói với tổ mẫu sao? Sao cứ nói không đâu.”

Ngụy Thiệu sửng sốt một lúc mới nhớ ra vẫn còn một đám đại thần đang chờ hắn nghị sự ở Tuyên Thất, hắn vội vàng lắc đầu căn dặn cung nhân nhớ phải hầu hạ Thái Hoàng thái hậu, lúc này mới xin được cáo lui.

Tiểu Kiều ở bên cũng thấy hơi kì lạ, nhìn hắn cứ như thể đã rất lâu rồi không gặp Từ phu nhân. Đợi đến buổi tối, khi hắn trở về tẩm cung hai người cùng tắm rửa, nàng thuận miệng giễu cợt hắn một câu.

Người nói vô tâm, nhưng trong lòng Ngụy Thiệu lại thấy hơi hồi hộp, hình ảnh đêm qua lại cứ thế hiện ra.

Đêm qua hắn dùng mọi cách lấy lòng Tiểu Kiều trên lòng sàng, Tiểu Kiều cũng uyển chuyển nịnh nọt hắn. Hai người triền miên đến nửa đêm, kiều diễm không có gì sánh được, cuối cùng cũng thấy hơi thấm mệt, hắn ôm lấy nữ tử mình yêu đi ngủ trước, bỗng trong lòng hắn lại vang lên một tiếng thở dài đầy thỏa mãn.

Lúc đó hắn không suy nghĩ nhiều, mệt mỏi ôm Tiểu Kiều ngủ thiếp, vừa nhắm mắt lại đã ngủ luôn.

Bây giờ lại bị nàng nhắc nhở, nhớ tới tiếng thở dài thỏa mãn của mình vào đêm qua, lại nghĩ đến giấc mơ ban ngày mình đã trải qua như sự thật, lòng Ngụy Thiệu lại thấy khá bất an.

Đời như mộng, mộng như đời, chẳng lẽ đến bây giờ mình vẫn còn mơ chưa tỉnh lại?

“Man Man… nàng đánh ta một cái đi, đánh mạnh vào.”

Tiểu Kiều chỉ thuận miệng chế nhạo hắn mà thôi, bây giờ lại thấy hắn nghiêm túc đến vậy, nàng cười xòa hai tay vốc nước bất ngờ tạt vào mặt hắn: “Bệ hạ lại làm sao vậy?”

Ngụy Thiệu bị nàng tạt nước lên trên mặt, bọt nước văng tung tóe, hắn nhắm mặt lại rồi mở ra, thấy nàng vẫn đối diện với mình, trong hơi nóng lờ mờ, nàng hơi nghiêng đầu nhìn hắn, ánh mắt sáng như sao, má lúm đồng tiền rất đỗi dịu dàng, hắn đưa tay lên ôm lấy nàng, hai trán chạm vào nhau, trong lòng cũng an yên hơn hẳn, dường như tất cả những cảm giác hốt hoảng vừa rồi đều biến mất.

“Ta không sao…” Hắn lẩm bẩm thì thầm, cúi đầu hôn lên làn môi đó.

“Man Man, Ngụy Thiệu ta đời này, có nàng thật tốt…”

Hai tháng sau, Hoàng hậu được chẩn là có thai.

Từ phu nhân mừng rỡ, nhóm quan lại cũng hết đỗi hân hoan, tất cả mọi người đều ngóng trông hoàng hậu sinh long tử.

Đầu hạ năm Thái Hòa thứ ba, canh tư một ngày nọ, Tiểu Kiều đang nằm ngủ thì thấy bụng dưới nhói lên đau đớn làm tỉnh giấc, nàng đánh thức Ngụy Thiệu đang ngủ say bên cạnh.

Ngụy Thiệu tỉnh lại thấy nàng đang ôm bụng co người, hắn hoảng hốt ngồi bật dậy lăn thẳng xuống long sàng, giày cũng không kịp mang, chân trần chạy ra ngoài gọi lớn: “Hoàng hậu sắp sinh.”

Một tiếng hét vang trời kinh động toàn bộ hoàng cung.

Ngày sinh của Hoàng hậu tới gần, cả hoàng cung đã chuẩn bị xong xuôi hết, tiếng gào này của Hoàng đế đủ làm điện Quang Hoa thức tỉnh ngay lập tức, đèn đuốc sáng trưng, cung nhân cũng vội vàng chạy tới cung Gia Đức để báo tin.

Từ phu nhân cũng đi tới rất nhanh. Bây giờ mấy bà đỡ đã vào phòng đầy đủ, cửa lớn đóng chặt. Hoàng đế giữ trước cửa phòng sinh, trong thấp thỏm lại có phần hưng phấn.

Lúc trước Tiểu Kiều sinh Phì Phì khi hắn đang đánh trận phía Nam, đợi đến khi hắn về Phì Phì đã mấy tháng tuổi rồi, khi nàng sinh đứa bé đầu tiên hắn không thể ở bên cùng nàng chào đón con ra đời, điều đó vẫn luôn khiến hắn thấy tiếc thay.

Bây giờ rốt cuộc cũng có thể cùng nàng, cho nên hắn vui mừng đến vậy. Thấy Từ phu nhân đã đến, hắn vội tới tự khoe: “Tổ mẫu, Man Man sắp sinh rồi.”

Từ phu nhân nhìn hắn, thấy tôn nhi của mình vui vẻ ra mặt thì cũng mỉm cười gật gật đầu.

Ngụy Thiệu cứ kích động mong chờ như thế mãi, vừa nói chuyện với Từ phu nhân vừa ngồi chờ Tiểu Kiều sinh đứa bé thứ hai của hai người.

Đồng hồ nước nhỏ giọt suốt một canh giờ qua, hắn bắt đầu không cách nào ngồi nổi, ý cười trên mặt cũng từ từ biến mất.

Nỗi đau khi sinh nở Ngụy Thiệu cũng từng nghe trước đó.

Hắn chỉ không ngờ là, Man Man cũng phải chịu đựng một cơn đau như thế. Hắn nghe giọng của nhóm bà đỡ loáng thoáng vang ra từ phòng sinh, tiếng nàng rền rĩ như kìm nén, cả người lại càng căng cứng lại.

Rất nhiều lần, nếu không phải Chung bà bà và Xuân Nương ngăn cản, thiếu chút nữa hắn đã định xông vào.

Lại một tiếng rên đau.

“Rốt cuộc các người có biết đỡ đẻ không thế hả, để Man Man của ta đau đến vậy?”

Cả người hắn bật lên, bờ trán toát đầy mồ hôi lạnh, hắn vọt tới trước cửa phòng, bám vào cạnh cửa lớn giọng la.

Tiếng động bên trong nhất thời như biến mất, có lẽ bà đỡ và sản phụ cũng bị làm cho hoảng.

Chung bà bà và Xuân Nương cùng nhau đi tới, thấp giọng khuyên hắn nên tránh ra chờ đợi.

Ngụy Thiệu sao mà nghe cho được, cứ đi tới đi lui mấy lượt ngay trước cửa.

“Hay là Hoàng thượng cứ đi nghỉ trước đi, chờ sinh hài tử xong Hoàng thượng lại quay về.”

Cuối cùng Từ phu nhân cũng không nhìn nổi nữa, lên tiếng nói.

Dường như Ngụy Thiệu không nghe thấy.

Từ phu nhân thấy thế thì cười khổ lắc đầu.

“A.”

Rốt cuộc đến khi trời tảng sáng, hắn nghe thấy tiếng kêu dài đau đớn của Tiểu Kiều vang ra từ trong cửa. Môi trắng trợt như không còn giọt máu, trái tim nảy lên như trống nổi, hắn lao thẳng tới cửa.

“Man Man.” Đưa tay đẩy cửa ra.

“Ôi ôi, bệ hạ.”

Chung bà bà và Xuân Nương hoảng hốt vội vàng chạy tới đó trái phải kéo hắn ra.

Trong cửa bỗng vang lên tiếng trẻ con oa oa khóc.

“Chúc mừng bệ hạ, chúc mừng Thái Hoàng thái hậu, Hoàng hậu đã thuận lợi sinh long tử, mẹ tròn con vuông.” Tiếp sau đó là giọng nói vui vẻ hân hoan của bà đỡ bên trong.

Ngụy Thiệu như sững lại, một lát sau, hắn thở dài một hơi, nhân lúc Chung bà bà và Xuân Nương đang mải vui mừng mà buông tay hắn ra, hắn đạp cửa xông thẳng vào bên trong.

Bà đỡ đã bọc hoàng tử mới sinh vào trong tã, đưa đến bên cạnh Tiểu Kiều. Thấy Hoàng đế xông thẳng vào như vậy, bà đỡ cũng hoảng hốt quỳ rạp xuống sàn nhà, tươi cười chúc mừng thêm lần nữa.

Ngụy Thiệu đi thẳng đến bên cạnh Tiểu Kiều, cúi đầu nhìn kĩ khuôn mặt tái nhợt mướt mồ hôi, hắn im lặng đưa tay ra nhẹ nhàng nắm chặt lấy tay nàng.

Vừa rồi Tiểu Kiều cũng nghe thấy giọng hắn oang oang bên ngoài cửa, bây giờ lại xông vào như thế nàng cũng không thấy bất ngờ gì.

Mặc dù cả người mệt mỏi không còn sức, nhưng trong lòng lại ấm áp hân hoan. Nàng quay mặt sang đối diện với ánh mắt người kia, khẽ mỉm cười dịu dàng nói với hắn: “Bệ hạ xem này, nhi tử của chúng ta, a đệ của Phì Phì. Con xinh lắm.”

Ánh mắt Ngụy Thiệu tìm đến nhi tử vừa mới sinh của họ lọt thỏm trong lòng nàng.

Mặc dù vừa mới ra đời, nhưng sống mũi của bé đã rất cao, lông mi dài đen kịt, nhẹ nhàng chép miệng trong lòng của mẫu thân, nhìn vô cùng dễ mến.

“Man Man, khổ cho nàng rồi.”

Ngay trước mặt các bà mụ, hắn cúi đầu xuống đặt một nụ hôn lên trán của Hoàng hậu, cảm giác hạnh phúc tràn ngập trong lòng mình.

Hoàng hậu sinh Thái tử, tên là Hồng, khắp nơi vui sướng. Sau ngày sinh ba ngày, Hoàng đế tự mình tế cáo với Thái miếu Phụng thiên điện, lễ quan triều đình tế cáo với xã tắc, văn võ bá quan mặc cát phục mười ngày, đồng thời còn ban chiếu thông báo khắp thiên hạ.

Tháng chín năm nay, đoàn sứ giả Thiền Vu Ô Châu Khuất đi đến thành Lạc Dương, kí hiệp ước giữa triều đình và dân tộc Hung Nô, hai bên lấy sông Tang Kiền làm ranh giới, ước định không xâm phạm lẫn nhau, mở thêm nhiều chợ bên biên giới. Tộc Hung Nô tiến cống ngựa tốt, Đại Yên cho thả mấy vạn tù binh bắt về trong trận Thượng Cốc mấy năm qua.

Ngày tù binh bị trục xuất trở về, chiến sự bao năm khiến cho hai bờ sông Tang Kiền chảy xuôi mấy trăm năm lại càng thêm cô quạnh, đâu đâu cũng có tiếng hô gia gọi nương, người thân gặp nhau rơi nước mắt. Ô Châu Khuất lấy danh nghĩa của mình, dâng một phần hậu lễ cho Thái Hoàng thái hậu, bên trong là một chiếc áo ngoài cẩm bào cộc tay, được may bằng mười sáu tấm da dê có tên là “Cáp mạc.”

Trong tập tục của người Hung Nô, sau khi nam nữ đính hôn, chủ mẫu nhà gái sẽ nhận được từ nhà trai một chiếc áo cộc tay như vậy, để bày tỏ lòng cảm kích đã gả nữ nhi mình cực khổ nuôi nấng mười sáu năm trời.

Sau khi sứ giả dâng lễ vật, trong lòng vẫn thấp thỏm không yên, chỉ sợ Thái Hoàng thái hậu không nhận chiếc áo Cáp mạc này. Mãi đến tận nửa tháng sau trước khi rời khỏi thành, Thái Hoàng thái hậu vẫn không trả lễ về, khi đó hắn mới thở phào nhẹ nhõm.

Thái Hòa năm thứ tư, Hoàng thái tử tròn một tuổi, một hôm nọ Từ phu nhân gọi Đế Hậu tới gặp, bà mỉm cười nói cho họ biết, bà quyết định trở về U Châu, định cư dưỡng lão ở Vô Chung thành.

Cùng năm đó, Thái Hoàng thái hậu gần tròn bảy mươi tuổi, tuy tuổi già sức yếu, nhưng mỗi ngày vẫn ăn đồ thanh đạm, tới bây giờ bà vẫn kiên trì tự mình trồng hoa làm cỏ, tinh thần minh mẫn.

Đế Hậu hết sức kinh ngạc, họ song song quỳ xuống, tự trách mình bất hiếu, khẩn cầu tổ mẫu thu hồi mệnh lệnh đã ban ra.

Từ phu nhân nói, bà muốn trở về không phải vì họ chưa đủ tốt, bà rất vui khi họ đã an ổn thế này, bà có thể yên tâm được rồi.

Ngụy Thiệu đau lòng dập đầu giữ bà lại, Tiểu Kiều nhìn khuôn mặt mỉm cười hiền lành của Từ phu nhân, dần chìm vào suy tư.

Biên thành nhỏ có tên là Vô Chung cũng là nơi tổ phụ của Ngụy Thiệu và bà đã thành hôn, là nơi bà đưa tiễn tổ phụ của Ngụy Thiệu.

Ngoài trượng phu ra, ở đó còn có hồi ức của nhi tử, nữ nhi và tôn bối của bà.

Chuyện cũ nửa đời người, hoặc là còn có một nguyện vọng nào đó đến nay còn chưa dứt, như có chung một nhịp thở với nó, không cách nào dứt bỏ.

Bây giờ bà đã gần bảy mươi, bỗng nhiên đưa ra một quyết định thế này, Tiểu Kiều vẫn khó có thể hiểu được tình cảm trong lòng bà nhưng vẫn sẽ tôn trọng lựa chọn đó.

Nàng dập đầu với Từ phu nhân, nói rằng cháu dâu hiểu. Chờ đến khi đưa tổ mẫu hồi hương an dưỡng tuổi già, mỗi năm nàng sẽ dẫn các con đi tới thăm tổ mẫu, chỉ mong bà an khang trường thọ, đó cũng là phúc phận của tiểu bối các nàng.

Từ phu nhân cười nói với Hoàng đế: “Thiệu Nhi, tổ mẫu vẫn luôn cảm thấy con không nhanh nhạy như vợ mình, đến bây giờ vẫn vậy. Nàng đã hiểu được ta, con đừng ngăn cản nữa.”

Mặc dù Ngụy Thiệu rất không tình nguyện, nhưng Từ phu nhân đã quyết, rốt cuộc hắn vẫn đành đồng ý.

Tháng chín năm nay, mùa hè nóng bức đã qua đi, thu vàng vừa đến, Đế Hậu cùng rời khỏi Lạc Dương, đích thân đưa Từ phu nhân về Bắc thuộc.

Đêm trước hôm lên đường, Tiểu Kiều dẫn Phì Phì và Hồng Nhi tới bầu bạn với Từ phu nhân ở cung Gia Đức.

Màn đêm thăm thẳm, lúc hai người tỷ đệ đã ngủ rồi, Tiểu Kiều đưa Từ phu nhân lên giường, quỳ gối thật lâu bên cạnh bà không đứng dậy.

Từ phu nhân đưa mắt nhìn nàng trong chốc lát, đột nhiên bà nói: “Man Man, ngày mai tổ mẫu đi rồi. Ta biết có lẽ con vẫn luôn thắc mắc, tại sao trước kia tổ mẫu lại đồng ý làm chủ cho Thiệu Nhi cưới một nữ nhi Kiều gia như con, để hai nhà Ngụy Kiều kết thông gia.”

“Nếu không nhờ tổ mẫu giúp đỡ, con đâu thể được gả cho phu quân, cùng chàng kết làm phu thê, tổ mẫu bao dung không tính toán là phúc phận của con.”

Từ phu nhân nở nụ cười thở dài: “Con thông minh như vậy không cần ta nhiều lời, có lẽ cũng biết những điều ta suy nghĩ. Từ trước tới giờ Thiệu Nhi vẫn một lòng báo thù không chịu nghe khuyên bảo, ta chỉ lo nó sẽ bị tâm ma, chấp niệm không rõ ràng, dù có sống cũng chưa chắc đã là điều may mắn. Trong lòng nó có chấp niệm rất lớn, tất cả đều bắt nguồn từ nỗi đau mất cha thời niên thiếu. Vì thế khi ta nghe Kiều gia nhà con muốn lấy hôn nhân để hóa giải thù hận giữa hai nhà, ta cũng đã nghe mỹ danh thục chất của Kiều nữ, thế rồi bỗng nhớ tới chuyện cũ năm xưa.”

Bà dừng lại.

Tiểu Kiều thẳng gối nhìn bà.

Dường như Từ phu nhân đã chìm trong hồi ức, một lát sau bà mới thở dài một tiếng: “Man Man, trước khi tổ phụ của con tạ thế đã từng gửi một phong thư cho ta, sám hối chuyện năm đó mà ông đã gây nên, cam tâm tình nguyện chịu nguyền rủa vạn kiếp nơi địa ngục, sau khi chết ông hi vọng Ngụy gia có thể bỏ qua cho Kiều gia. Tổ mẫu cũng hận tổ phụ con xảo trá, khiến cho tổ mẫu phải chịu nỗi đau mất con mất cháu. Chỉ vì sinh giữa thời loạn lạc, chính nghĩa, vương hầu, tướng lĩnh là gì đây, không có thê tử nào không mất đi trượng phu, nhi tử sinh ra không có phụ thân nuôi dưỡng, đương nhiên ta cũng biết đời vốn chẳng công bằng. Người chết thì không thể sống lại, dù giết hết người Kiều gia đi nữa cũng chỉ thành đau xót, há có thể vì thế mà giảm bớt ưu phiền, nếu có thể mượn cơ hội đó để hóa giải thù hận, khiến cho Thiệu Nhi thoát khỏi tâm ma, xóa đi chấp niệm, quãng đời còn lại không cần chìm đắm trong đau buồn vậy nữa, chẳng có gì mà ta không bỏ được.”

Bà xúc động đến mức khóe mắt như ánh lệ.

Tiểu Kiều nắm chặt lấy tay bà, một bên mặt từ từ áp vào mu bàn tay ấm áp của tổ mẫu.

Từ phu nhân cúi đầu trìu mến vuốt ve mái tóc mềm mại của nàng.

“Man Man, tổ mẫu không tốt như con nghĩ, Lúc trước tổ mẫu có lòng riêng như thế mới làm chủ cho con gả vào đây. Khi đó tổ mẫu nghĩ, nếu Kiều nữ có thể sử dụng trí thông minh của mình hóa giải sự tàn bạo của tôn nhi, kết thành lương duyên, tâm nguyện của ta cũng hoàn thành. Còn nếu vẫn không thể, như thế cũng chỉ hi sinh một nữ nhi của Kiều gia thôi mà. Lúc nãy con nói cảm ơn tổ mẫu, thật ra tổ mẫu phải cảm ơn con mới đúng, bởi vì có con, Ngụy gia mới có sự hưng thịnh hôm nay, ta mới có thể sống mà gặp được tôn bối yêu quý nhất. Ngày mai ta quay về Bắc thuộc, sau này tổ mẫu sẽ giao Thiệu Nhi lại cho con, tổ mẫu cảm thấy rất yên tâm.”

Đôi mắt của Từ phu nhân ánh lên nét vui mừng.

“Tổ mẫu, Man Man không nỡ xa người.” Tiểu Kiều nghẹn ngào, không kìm được nhào vào lòng Từ phu nhân.

Bà mỉm cười ôm chặt lấy nàng, nhẹ nhàng vỗ về phía sau lưng, giống như nàng chỉ là đứa trẻ.

Ở bên ngoài không xa, một góc nơi cửa điện, Ngụy Thiệu vừa mới tới cũng dừng lại ở đó, lẳng lặng nhìn bóng lưng nàng được tổ mẫu ôm vào lòng an ủi, đứng yên không phát ra tiếng động.

Sáng sớm hôm sau, Đế Hậu rời khỏi Lạc Dương, một đường thuận lợi hộ tống Thái Hoàng thái hậu đi đến thành Vô Chung, mới ở lại ba ngày, Từ phu nhân đã giục, rốt cuộc hai người đành từ biệt mà đi.

Đối với quyết định của tổ mẫu, đến bây giờ Ngụy Thiệu vẫn cảm thấy không hiểu. Ra khỏi thành Vô Chung, hắn vẫn còn liên tiếp quay đầu lại, hậm hực không vui.

TIểu Kiều nói, trong lòng tổ mẫu vẫn có điều vướng mắc. Chỉ ở nơi này bà mới gần với vướng mắc đó hơn.

Ngụy Thiệu trầm mặc, rốt cuộc cũng gật đầu, hắn nói là mình hiểu.

Đế Hậu rời khỏi Vô Chung, đầu tiên là đi qua Ngư Dương, ở lại nhà cũ Tiềm Long suốt một đêm.

Rạng sáng ngày hôm sau, Tiểu Kiều phát hiện Ngụy Thiệu luôn không tin quỷ thần lại chạy tới điện Vương Mẫu ở thành Đông, không ngừng thắp hương ở bên trong, còn ra lệnh cho Ngư Dương làm tượng vàng cho Vương Mẫu, mấy tôn sứ giả của bà cũng được dịp thơm lây.

Cuối cùng, hắn còn đi lại vài vòng trước tượng của đại thần Kim Giáp, nhìn chằm chằm đại thần một lúc vẻ mặt đầy phức tạp.

Sau khi ra ngoài, hai người ngồi chung xe, nàng nhớ tới bức tranh trên tường mà hắn từng phá nhiều năm trước, không nhịn được trêu ngươi: “Năm đó chàng phá tường, bây giờ đi sửa điện, sao đột nhiên Hoàng thượng đổi tính thế, chẳng lẽ thần tiên báo mộng nên chàng muốn đi tạ tội sao.”

Ngụy Thiệu nhớ đến hôm nửa đêm bật dậy mà bây giờ vẫn sợ, nhất định phải ôm lấy Hoàng hậu, cảm giác có nàng đang ngủ bên cạnh mình mới có thể yên tâm, dù có đánh chết hắn cũng không thể nói.

Bị nàng chế nhạo, lúc đầu Ngụy Thiệu còn thấy hơi ngượng ngùng, nghĩ tới giấc mộng hoang đường đó, chính hắn cũng không nhịn được cười ha hả, ôm nàng vào lòng, cắn nhẹ vành tai rồi đáp, thiên cơ không thể lộ.

Lần xuất cung này, ngoài việc đưa Từ phu nhân về Bắc thuộc, một mục đích quan trọng khác nữa là đi kiểm tra các công trình trị thủy. Đến cuối tháng mười, Đế Hậu cải trang vi hành, đi tới bến đò Ô Sào năm đó vì Hoàng Hà đóng băng mà cản trở hành trình.

Bến đò Ô Sào không còn đông đúc như năm đó, bởi vì cách thượng nguồn mấy chục dặm đã có một bến đò rất lớn, lui tới thuận tiện hơn và cũng an toàn hơn, nơi này dần dần thưa thớt hẳn, mỗi ngày chỉ mấy chuyến đò ngang. Nhớ năm đó hai người từng ở lại trong một gian khách xá, bây giờ nó vẫn còn sừng sững bên bến đò, phủ đầy bụi bặm và lung lay trong gió, mặc kệ nắng nóng hay gió băng, mặt trời mọc lên rồi lại lặn, như thể nó vẫn luôn tồn tại từ xưa đến bây giờ, thương hải tang điền vẫn đứng nguyên ở đó.

Ban ngày, khách đò cuối cùng cũng đã đi, cả một ngày không có ai vào cửa.

Nữ chủ nhân tựa vào bên quầy cũ nát mà ngủ gật, chợt nghe ngoài cửa có tiếng xe ngựa lộc cộc vang lên, bà đoán người ngồi xe ngựa sẽ không vào trong đây, thế là lại tiếp tục ngủ thêm.

Tiếng lộc cộc dừng lại ngay ngoài cửa. Nữ chủ nhân mở mắt ra, đi ra xem thử thì thấy là một đôi phu thê, nam tử khoảng chừng ba mươi tuổi, khí vũ hiên ngang, hai mắt sáng quắc như ánh sao lấp lánh, nữ tử thì nhỏ hơn rất nhiều, châu huy ngọc lệ, khuôn mặt xinh xắn cùng bước vào song song, nàng đứng cạnh nam tử như một đôi bích nhân, khiến cửa tiệm cũ nát ảm đạm cũng rực rỡ hơn nhiều.

Bên ngoài phụ cận mười mấy dặm có một khu dịch xá, phàm là quý nhân quan lại cần qua đêm không ai là không ở tại đây, bến đò cũ nát này chỉ có những lữ nhân tầm thường mới ghé lại, dừng chân để qua đêm, ngày thường chưa từng có khách nào như thế.

Nữ chủ nhân ngẩn ra, bà định thần lại rồi đi tới chiêu đãi, nghe hai người nói muốn ở lại qua đêm, không ngại chật hẹp thì vội vã gật đầu, dọn một căn phòng sạch sẽ nhất cho họ, lau chùi bàn mấy lượt rồi ân cần chiêu đãi, cuối cùng lúc chuẩn bị ra ngoài, bà không nhịn được quay sang nhìn tiểu phụ nhân xinh đẹp đó.

Tiểu Kiều thấy nữ chủ nhân nhìn mình thì khẽ cười với bà.

Nữ chủ nhân ngẩn ngơ rồi bỗng vỗ đùi a một tiếng: “Có phải nhiều năm trước, phu nhân và lang quân từng dừng lại ở chỗ lão thân một đêm vì bến đò đóng băng không?”

Tiểu phụ nhân này quá xinh đẹp, khiến cho người ta chỉ cần nhìn một lần cũng khó mà quên được, lúc mới vừa nhìn thấy,bà đã có cảm giác hình như mình đã gặp đâu rồi, bây giờ nàng ấy vừa cười lên bà đã nghĩ ra ngay.

Tiểu Kiều thấy bà vẫn còn nhớ được mình thì gật đầu cười nói: “Bà bà có trí nhớ tốt quá, nhiều năm trước đúng là ta và phu quân từng dừng lại ở đây. Hôm nay đi ngang qua bèn trở lại tìm một nơi ngủ trọ.”

Nữ chủ nhân vẫn nhớ thân phận cặp phu thê năm đó cao quý đến mức nào, trước khi đi còn thưởng bà hào phóng, không ngờ sau nhiều năm, đôi phu thế đó lại tới đây ở lại, bà vui vẻ vô cùng, cứ khom người nói cảm ơn nàng mãi, chút khách sáo vừa rồi cũng bay biến mất tăm, vui vẻ nói: “Nhờ có lang quân và phu nhân năm đó ban thưởng hậu hĩnh. Bây giờ bến đò thưa thớt, khách trọ chỗ lão thân cũng ít, không đáng là bao, nhi tử và tức phụ đã đi vào trong thành, dùng số tiền ban thưởng đó để mua nhà mở một tiệm bán lẻ, mặc dù khó khăn nhưng mấy năm nay thiên hạ đã thái bình, không cần phải đánh trận như trước nữa, tháng ngày trôi qua cũng an yên, nhi tử thường xuyên muốn đón lão thân qua đó ở, nhưng lão thân đã ở bến đò hơn nửa đời người, không thể bỏ đi được, mặc dù không mấy ai tới cửa, nhưng nửa đời ở đây cũng quen với mấy khách trọ xưa, nếu lão thân đi rồi chỉ sợ người ta muốn tới tìm chỗ nghỉ cũng không biết phải dừng chân nơi nào, xem như là kết thiện duyên, ngày ngày trông giữ. Không ngờ hôm nay lại được đón quý khách, đúng là phúc của lão thân.”

Ngụy Thiệu và Tiểu Kiều nhìn nhau cười.

Chuyến tuần tra Hoàng Hà đã kết thúc, giờ cũng phải trở về thành Lạc Dương, hai người muốn tới bến Ô Sào năm đó, nhớ lại lúc Tiểu Kiều xuôi nam về nhà mẹ đẻ, Ngụy Thiệu đón nàng thì đón hụt, trên đường trở về, hai người muốn dừng lại tại gian khách xá bên bến đò năm đó, ngoái đầu nhớ lại chuyện ngày xưa, vì thế mới cố tình tới đây.

Trước khi tới, họ cũng nghe quan địa phương đề cập, nói bến đò Ô Sào bây giờ đã cũ nát lắm rồi, gian khách xá cũng bỏ không ở đó. Không ngờ nữ chủ nhân vẫn còn ở nơi này, bà ấy lại còn nhớ được chuyện năm xưa, lòng càng xúc động.

Ngay đêm đó, Ngụy Thiệu và Tiểu Kiều nghỉ lại trong gian khách xá rách nát mà sạch sẽ, trải qua một buổi tối tuyệt vời. Nửa đêm hai người không nỡ ngủ, Ngụy Thiệu ôm lấy Tiểu Kiều sóng vai ngồi bên cửa sổ, thì thầm to nhỏ, hồi ức ngày ấy, lúc hai người vẫn còn đề phòng nghi kị lẫn nhau, bây giờ lại cảm thấy ngọt ngào.

Ngoài cửa sổ ánh trăng như nước, Ngụy Thiệu bỗng nhớ tới gò núi vô danh mà hai người từng băng qua trong tuyết, bỗng nhiên hắn lại thấy hứng thú, thế là kéo Tiểu Kiều đứng dậy, mặc từng cái xiêm y cho nàng, ra khỏi phòng rồi ôm lên lưng ngựa, rong ruổi tìm lại nơi đó theo lối mòn ngày xưa.

Dưới ánh trăng, con ngựa cất vó lọc cọc từng tiếng một, phía sau lưng không xa, nhóm vệ binh âm thầm đi theo không tiếng động.

Rốt cuộc Ngụy Thiệu cũng tìm được gò núi năm đó, hắn nắm tay Tiểu Kiều, lần thứ hai hai người leo lên đỉnh.

Lúc đó, trăng sáng trên đỉnh đầu, dãy núi xa xa trập trùng lên xuống, bình nguyên hoang vu, dưới chân là Hoàng Hà cuồn cuộn, gió núi phất vào y phục, tay áo bồng bềnh bay, dưới ánh trăng, Ngụy Thiệu ôm chặt lấy Tiểu Kiều vào lòng hắn, cảm xúc dâng trào, đột nhiên hắn hét to về phía xa: “Ta muốn cùng khanh bên nhau đến già suốt đời đời kiếp kiếp, như sông lớn dù có ngày khô cạn, lòng ta vẫn mãi chẳng đổi thay.”

Tiểu Kiều bị hắn làm cho hoảng, nàng bật cười nhưng lại sợ tiếng hô của hắn bị thị vệ nghe được, thế là vội vàng che miệng của người kia.

Trong giây phút đó, tay của nàng vừa ngừng lại, nàng ngửa mặt lên bình tĩnh đối diện với đôi mắt hưng phấn nhìn mình dưới ánh trăng, bỗng nhiên lại đánh hắn một cái, thấp giọng quát “đồ ngốc”, hai tay níu chặt cổ người kia, hôn lên môi hắn.

Man Man, nếu không gặp được nàng thì ta bây giờ sẽ như thế nào đây, nam tử nói.

Nhưng chàng đã gặp ta rồi mà, Ngụy Thiệu, nữ tử cười.

Ánh trăng lặng yên không lên tiếng, sao soi ánh nước im lìm nhìn đôi tình nhân trên mỏm núi bên sông.