Không Có Ngày Mai

Chương 23




CĂN PHÒNG LÀ KHÔNG GIAN DỰ PHÒNG trống trải hầu như không có thứ đồ nội thất nào. Ba người đàn ông chính là ba nhân viên điều tra liên bang từng tới Đồn Cảnh sát Khu vực 14 ở thành phố New York. Họ không có vẻ gì hài lòng khi gặp tôi một lần nữa. Thoạt tiên họ không nói gì cả. Thay vào đó, tay cầm đầu lấy ra khỏi túi một vật nhỏ bằng bạc. Một máy ghi âm. Máy kỹ thuật số. Loại dùng trong văn phòng, hiệu Olympus. Ông ta bấm một nút, có một khoảng lặng ngắn và tôi nghe thấy giọng ông ta hỏi, “Cô ta có bảo gì ông không?” những từ này eo éo không rõ và đùng đục tiếng vang, nhưng tôi vẫn nhận ra. Trích từ cuộc thẩm vấn, vào lúc năm giờ sáng hôm đó, khi tôi ngồi trên ghế, trong trạng thái buồn ngủ, họ tỉnh táo và đứng, mùi của mồ hôi, lo lắng và cà phê cháy trong không khí.

Tôi nghe chính mình đáp lời, “Không gì cụ thể.”

Tay cầm đầu bấm một nút khác và các âm thanh được ghi lại tan biến. Ông ta đút chiếc máy vào lại trong túi áo và lôi từ trong túi còn lại ra một tờ giấy gập. Tôi nhận ra nó. Đó là một mảnh giấy ghi đặc biệt của Quốc hội mà nhân viên an ninh đã đưa cho tôi ở cửa tòa nhà Cannon. Tay này mở ra đọc to, “Sáng sớm nay tôi thấy một phụ nữ chết với cái tên của ông trên môi.”

Ông ta chìa tấm giấy về phía tôi để tôi có thể trông thấy nét chữ của chính mình.

Ông ta nói, “Cô ta đã nói cho ông một điều cụ thể. Ông đã nói dối với nhân viên điều tra liên bang. Người ta phải đi tù vì việc ấy đấy.”

“Nhưng không phải tôi,” tôi nói.

“Ông nghĩ thế hả? Điều gì khiến ông đặc biệt?”

“Chẳng gì khiến tôi đặc biệt. Nhưng điều gì khiến các ông trở thành nhân viên điều tra liên bang?”

Tay này không trả lời.

Tôi nói, “Các ông không thể chơi trò hai mặt được đâu. Các ông muốn chơi trò bí mật và không chịu trưng giấy tờ tùy thân, thế thì làm thế nào tôi biết các ông là ai? Có thể các ông là nhân viên hồ sơ của NYPD đến làm việc sớm, tìm cách giết thời gian. Và chẳng có luật nào về việc nói dối người dân. Nếu không sếp của các ông đã vào tù cả lũ rồi.”

“Chúng tôi đã nói với ông chúng tôi là ai.”

“Người ta tự nhận mình là đủ mọi thứ.”

“Chúng tôi trông có giống các nhân viên hồ sơ không?”

“Rất giống. Và dù gì đi nữa, có lẽ tôi đã không nói dối các ông. Có lẽ tôi đã nói dối Sansom.”

“Vậy đúng ra là gì?”

“Đó là việc của tôi. Tôi vẫn chưa trông thấy giấy tờ tùy thân.”

“Chính xác thì ông đang làm gì ở Washington? Với Sansom?”

“Đó cũng là việc của tôi.”

“Ông muốn hỏi ông ta một số câu hỏi à?”

“Các ông có luật cấm người ta đặt các câu hỏi sao?”

“Ông đã là một nhân chứng. Bây giờ ông đang điều tra hả?”

“Đất nước tự do,” tôi đáp.

“Sansom không thể nói cho ông bất cứ điều gì.”

“Có thể thế,” tôi nói. “Có thể không thế.”

Tay cầm đầu ngừng một chút rồi nói, “Ông có thích tennis không?”

Tôi đáp, “Không.”

“Ông có nghe nói về Jimmy Connors không? Bjorn Borg? John McEnroe?”

Tôi nói, “Các tay vợt tennis, từ thời trước.”

“Chuyện gì sẽ diễn ra nếu họ dự giải Mỹ mở rộng năm tới?”

“Tôi không biết.”

“Họ sẽ bị đá đít khắp sân. Họ sẽ bị cắt đầu đưa lên đĩa. Thậm chí các tay vợt nữ cũng sẽ đánh bại họ. Là những tay vô địch vĩ đại trong thời của họ, nhưng giờ họ đã là các ông già và họ xuất phát từ một thời đại hoàn toàn khác. Thời gian vẫn trôi. Cuộc chơi đã thay đổi. Ông hiểu điều tôi đang nói với ông chứ?”

Tôi đáp, “Không.”

“Chúng tôi đã xem hồ sơ của ông. Thời tiền sử thì ông là ngôi sao. Nhưng bây giờ đây là thế giới mới. Ông đã hết thời rồi.”

Tôi ngoái lại và liếc ra cửa. “Browning vẫn ở ngoài đó chứ? Hay ông ta bán đứng tôi rồi?”

“Browning là ai?”

“Tay đã đưa tôi tới đây. Người của Sansom ấy.”

“Ông ta đi rồi. Mà tên ông ta không phải Browning. Ông là con bé giữa rừng già đấy.”

Tôi chẳng nói gì. Chỉ nghe tới từ con bé là nghĩ về Jacob Mark cùng đứa cháu trai Peter của anh. Một cô gái gặp ở quán bar. Một con bé hết sức ngon lành. Peter đã rời quán cùng nó.

Một trong hai tay còn lại trong phòng nói, “Chúng tôi cần ông quên hoàn toàn chuyện làm một điều tra viên, được chứ? Chúng tôi cần ông cứ hãy là một nhân chứng. Chúng tôi cần biết làm thế nào mà tên của Sansom có liên hệ tới người phụ nữ đã chết. Ông sẽ không rời khỏi căn phòng này chừng nào chúng tôi chưa tìm ra.”

Tôi nói, “Tôi sẽ rời khỏi phòng này đúng lúc nào tôi quyết định làm thế. Phải cần nhiều hơn ba nhân viên hồ sơ để giữ tôi ở nơi nào đó mà tôi không muốn ở.”

“Mạnh miệng đấy.”

Tôi nói, “Dù sao tên của Sansom cũng được nhắc tới ngoài kia rồi. Tôi đã nghe thấy cái tên ấy từ miệng bốn tay điều tra thuê ở thành phố New York.”

“Bọn họ là ai?”

“Bốn gã mặc com lê cùng một tấm danh thiếp giả.”

“Ông có thể làm tốt nhất là từng đó hay sao? Đó là một câu chuyện quá nghèo nàn. Tôi nghĩ ông đã nghe cái tên ấy từ chính Susan Mark kia.”

“Tại sao các ông thậm chí cũng quan tâm? Một nhân viên HRC có thể biết điều gì sẽ gây hại cho một người như Sansom chứ?”

Không ai nói gì, song sự im lặng hết sức kỳ lạ. Dường như nó mang theo một câu trả lời không thành tiếng đang điên cuồng xoắn xít và phồng to lên trên, phồng cả bên ngoài, kiểu như: Không chỉ Sansom làm chúng tôi lo ngại mà là cả quân đội, cả quân sự, cả quá khứ, cả tương lai, cả đất nước, cả chính phủ, cả toàn bộ thế giới rộng lớn, cả vũ trụ chết tiệt này.

Tôi hỏi, “Các ông là ai?”

Không có câu trả lời.

Tôi nói, “Hồi ấy Sansom đã làm cái quái gì thế?”

“Hồi nào?”

“Trong suốt mười bảy năm quân ngũ của ông ta.”

“Ông nghĩ ông ấy đã làm gì?”

“Bốn phi vụ bí mật.”

Căn phòng trở nên yên lặng.

Tay cầm đầu hỏi, “Làm thế nào ông biết về các phi vụ của Sansom?”

Tôi nói, “Tôi đã đọc cuốn sách của ông ta.”

“Chúng không có trong sách của ông ấy.”

“Nhưng các huy chương và những lần thăng cấp của ông ta thì có. Mà không có lời giải thích rõ ràng nào về nguồn gốc khác của chúng.”

Chẳng ai nói gì.

Tôi nói, “Susan Mark không biết gì cả. Cô ta không thể biết. Chỉ là không thể. Có thể cô ta đã lục tung cả HRC lên suốt cả năm để tìm mà không thấy nhắc tới chuyện ấy dù chỉ chút xíu.”

“Nhưng kẻ nào đó đã hỏi cô ta.”

“Thế thì sao? Không tai hại, không tội lỗi.”

“Chúng tôi muốn biết kẻ đó là ai, chỉ thế thôi. Chúng tôi muốn theo dõi những việc như vậy.”

“Tôi không biết đó là ai.”

“Nhưng rõ ràng ông muốn biết. Nếu không tại sao ông có mặt ở đây?”

“Tôi đã thấy cô ta tự sát. Không dễ chịu gì.”

“Chẳng bao giờ dễ chịu. Nhưng chẳng có lý do gì để xúc động cả. Hoặc để gặp rắc rối.”

“Các ông lo lắng cho tôi à?”

Chẳng ai trả lời.

“Hay các ông lo lắng rằng tôi sẽ phát hiện ra điều gì đó?”

Tay thứ ba nói, “Điều gì khiến ông nghĩ rằng hai mối lo đó là khác nhau? Có thể chúng cùng là một. Ông phát hiện ra gì đó, ông sẽ bị gông cổ đến hết đời. Hoặc bị vướng một viên đạn lạc.”

Tôi không nói gì. Căn phòng lại chìm trong im lặng.

Tay cầm đầu nói, “Cơ hội cuối cùng. Chỉ làm một nhân chứng. Cô kia có nhắc tới tên Sansom hay không?”

“Không,” tôi nói. “Cô ta không nhắc.”

“Nhưng dù sao ngoài kia cũng đã nhắc tới tên ông ấy.”

“Đúng,” tôi nói. “Đúng như vậy.”

“Và ông không biết rằng ai đang hỏi.”

“Không,” tôi nói. “Tôi không biết.”

“Được rồi,” tay này nói. “Giờ thì hãy quên tất cả những gì về chúng tôi mà tiếp tục sống đi. Chúng tôi chẳng hề muốn gây phức tạp cho cuộc sống của ông.”

“Nhưng sao?”

“Chúng tôi sẽ làm thế nếu buộc phải vậy. Nhớ chuyện rắc rối ông có thể gây ra cho nhân dân hồi ở đơn vị điều tra tinh nhuệ 10 chứ? Giờ thì đã tồi tệ hơn nhiều. Tồi tệ gấp trăm lần. Thế nên hãy hành động khôn ngoan. Nếu ông muốn chơi, hãy đi mà chơi bóng chày. Tránh xa chuyện này. Cuộc chơi đã thay đổi rồi.”

Họ để cho tôi đi. Tôi theo thang máy xuống, đi qua tay ngồi ở cửa và đứng trên một khu lát gạch rộng rãi nhìn dòng sông đang lững lờ chảy. Những ánh đèn phản chiếu đang chảy cùng với dòng nước. Tôi nghĩ về Elspeth Sansom. Cô ta đã khiến tôi thấy ấn tượng. Đừng đến mà ăn mặc như thế, nếu không ông sẽ chẳng vào được đâu. Chỉ dẫn sai một cách hoàn hảo. Cô ta đã hoàn toàn lừa được tôi. Tôi đã mua một chiếc sơ mi mà tôi không cần hay muốn có.

Không mềm yếu.

Chắc chắn là thế chứ còn gì nữa.

Trời đêm ấm áp. Bầu không khí nặng nề và nồng nặc mùi mà dòng nước mang lại. Tôi quay trở lại phía Vòng xoay Dupont. Tôi nghĩ là chừng 1,25 dặm. Đi bộ mất hai mươi phút, có thể ít hơn.