Không Gia Đình (Sans Famille)

Chương 4: Người bạn đầu tiên của tôi




Mẹ Arthur là người Anh, tên là bà Milligan.

Bà góa chồng và ngay sau đó tôi được biết bà còn một cậu con trai lớn nữa nhưng đã mất tích trong hoàn cảnh rất bí mật, đúng vào lúc ông Milligan hấp hối, bà thì đang ốm nặng. Khi bà hồi phục thì chồng đã chết, con mất tích. Cuộc tìm kiếm được ông James Milligan, em trai ông Milligan điều hành. Nhưng ông James Milligan lại có quyền lợi ngược với bà chị dâu. Thực vậy, nếu ông Milligan chết không con cái ông ta sẽ trở thành người thừa kế của anh mình.

Tuy nhiên ông James Milligan không thừa kế được, vì bảy tháng sau cái chết của ông Milligan, bà Milligan sinh hạ cậu bé Arthur.

Nhưng các bác sĩ tuyên bố đứa bé ốm yếu này không sống được. Đã hai chục lần tưởng nó chết nhưng rồi hai chục lần nó lại được cứu sống..Thời gian gần đây người ta phát hiện ở nó một bệnh quái ác gọi là lao khớp háng. Để điều trị chứng này bác sĩ ra lệnh chữa bằng nước có lưu huỳnh cho nên bà Milligan mới đến vùng núi Pyrénées. Nhưng sau khi chữa bằng nước lưu huỳnh không ăn thua, người ta thử một cách điều trị khác: bệnh nhân phải nằm không được đứng dậy.

Lúc đó bà Milligan mới đặt đóng một chiếc tàu ở Bordeaux, chiếc tàu mà tôi đã đặt chân lên.

Bà không thể nghĩ tới chuyện để con nằm như thế trong nhà, nó sẽ chết vì buồn chán. Người ta biến con tàu thành một căn nhà nổi, có phòng ngủ, bếp, phòng khách và hiên. Tùy theo thời tiết mà Arthur nằm ở phòng khách hay cái hiên này, có mẹ bên cạnh. Chỉ cần mở mắt ra là nó nhìn thấy cảnh vật diễu qua.

Ngày xuống tàu tôi chỉ biết có mỗi phòng ngủ của tôi trên tàu Thiên Nga này. Mặc dù nó bé xíu, đây là cái ca-bin đẹp nhất mà trí tưởng tượng thơ ngây của tôi có thể ước mơ.

Cửa sổ khoét vào vỏ tàu, có thể đóng lại bằng một cửa kính tròn, vừa chiếu sáng vừa làm thoáng căn phòng. Chưa bao giờ tôi nhìn thấy một căn phòng xinh xẻo sạch sẽ đến thế, tường được lát bằng gỗ lãnh sam đánh véc-ni, trên sàn trải tấm bạt đánh xi kẻ ô đen trắng.

Nhưng không phải chỉ cặp mắt là thích thú.

Khi nằm trên giường tôi có một cảm giác thoải mái hoàn toàn mới lạ, lần đầu tiên những chiếc khăn trải giường xoa dịu da tôi chứ không phải cào vào người tôi.

Tuy ngủ rất ngon trong chiếc giường ấm cúng ấy, ngay từ sáng sớm tôi đã trở dậy vì lo lắng không hiểu các kịch sĩ của tôi qua đêm ra sao.

Tôi thấy tất cả nằm đúng vào vị trí mà đêm qua tôi đặt chúng vào, chúng đang ngủ say sưa như đã từ nhiều tháng nay sống trên con tàu này rồi. Khi tôi lại gần, lũ chó tỉnh dậy, vui vẻ đến bên tôi để được tôi vuốt ve buổi sáng. Joli -Coeur, bằng một động tác kịch câm, giải thích là nó sẵn sàng lên mặt đất.

Ông thủy thủ đường sông hôm qua đứng gần bánh lái cũng đã dậy và lo việc cọ rửa cầu tàu.

Ông bắc tấm ván lên bờ và thế là tôi và cả đoàn kịch nghệ của tôi đi lên bãi cỏ trên mặt đất.

Đùa nghịch với lũ chó và Joli - Coeur, nào chạy, nào trèo cây, thời gian trôi thật nhanh. Khi.chúng tôi trở lại, ngựa đã được móc vào tàu và buộc vào một cây dương trên con đường kéo tàu:

chúng chờ tiếng còi để ra đi.

Tôi xuống tàu, vài phút sau người ta thả dây buộc tàu vào bờ ra, người thủy thủ đứng vào sau tay lái, người kéo tàu cưỡi lên ngựa, chiếc ròng rọc dây kéo luồn qua đó kêu lên kèn kẹt; chúng tôi lên đường.

Sung sướng biết bao được đi chơi trên tàu!

Ngựa phi nước kiệu trên bờ không hề cảm thấy động đậy gì thế mà chúng tôi cứ lướt nhẹ trên mặt nước, hai bên bờ có rừng cây lùi lại sau chúng tôi, chẳng còn nghe thấy gì hết ngoài tiếng nước xoáy vào lòng tàu, tiếng nước vỗ hòa lẫn với tiếng leng keng của chiếc nhạc buộc vào cổ ngựa.

Tôi đang chăm chú chiêm ngưỡng cảnh vật thì có tiếng gọi đằng sau. Đó là Arthur, người ta đã mang nó ra ngoài cùng với tấm ván, mẹ nó ở bên cạnh.

- Anh ngủ có ngon không? - Arthur hỏi tôi.

Tôi đến gần, tìm lời lễ phép nói với bà mẹ và cả cậu bé.

Bà Milligan đặt con vào nơi không có ánh nắng chiếu vào và ngồi xuống cạnh nó.

- Cháu ra chỗ khác nhé, chúng tôi sắp học đây.

Tôi làm theo yêu cầu và đi ra mũi tàu.

Tôi thấy Arthur học thuộc lòng một bài học mà mẹ nó đọc từ trong sách ra. Nằm dài trên ván, không cử động, nó lặp lại hay nói đúng hơn, cố gắng lặp lại, vì nó ngắc ngứ kinh khủng và khó lòng nói trôi chảy được lấy ba từ, thường thường là nhầm. Mẹ nó bắt nó học lại từ đầu, rất dịu dàng nhưng cũng rất cương quyết.

- Con không thuộc bài ngụ ngôn rồi. - Bà nói. - Hôm nay con vấp nhiều lỗi hơn hôm qua.

- Con đã cố học... Con ốm mà...

- Mẹ không bằng lòng con không học hành gì cả, lấy lý do ốm con sẽ lớn lên trong ngu dốt.

Bà Milligan có vẻ rất nghiêm khắc tuy vậy bà nói mà không giận dữ, giọng rất dịu dàng.

- Con không học được mẹ ạ, con đoán chắc như vậy.

Và Arthur bật khóc..Nhưng bà Milligan không bị những giọt nước mắt làm lung lay mặc dầu bà tỏ ra xúc động.

- Con chỉ được chơi sau khi đã học thuộc bài.

Nói xong bà đưa quyển sách cho Arthur rồi đi vào trong tàu. Ngay lập tức Arthur bắt đầu đọc câu chuyện ngụ ngôn, từ chỗ tôi, tôi thấy môi nó động đậy. Rõ ràng là nó đang chuyên tâm vào học. Nhưng sự chuyên tâm này kéo dài chẳng được bao lâu, nó ngước mắt lên khỏi quyển sách, môi chỉ mấp máy chầm chậm. Rồi nó không đọc cũng chẳng nhắc lại nữa. Đôi mắt nó lang thang đây đó, gặp mắt tôi. Tôi ra hiệu bảo nó học đi. Nó cười với tôi, mắt lại nhìn vào quyển sách. Nhưng chẳng mấy chốc mắt nó lại ngước lên nhìn từ bờ nọ sang bờ kia sông.

Tôi lại gần.

- Em không học được, nó nói, mặc dầu em muốn lắm.

- Bài ngụ ngôn này có gì là khó đâu.

- ồ, ngược lại là khác, nó rất khó.

- Anh thấy nó rất dễ chỉ nghe mẹ em đọc anh đã hầu như thuộc rồi.

Nó cười nghi ngờ.

- Để anh đọc cho em xem.

Tôi cầm lấy quyển sách bắt đầu đọc thuộc lòng mà chỉ phải nhìn vào sách ba bốn lần.

- ồ, anh thuộc ư? - Nó kêu lên. - Anh làm thế nào vậy?

- Anh nghe mẹ em đọc nhưng vừa nghe vừa chú ý không nhìn những cái gì diễn ra xung quanh anh.

Nó đỏ mặt quay đi và sau một lát hổ thẹn, nó nói:

- Em hiểu, em cũng đã cố nghe như anh, nhưng làm sao để nhớ lại tất cả mọi từ?

- Truyện ngụ ngôn này nói về cái gì nào?

Tôi nói. - Về một con cừu chứ gì. Anh nghĩ đến những con cừu. Sau đó anh nghĩ đến chúng làm gì. "Những con cừu sống yên ổn trong bãi quây của chúng". Anh nhìn thấy chúng đang nằm và ngủ trong bãi quây và thế là anh không quên nữa.

- Phải đấy, nó nói, em cũng nhìn thấy chúng:

cừu trắng có cừu đen có, cả những con cừu cái, cừu con. Em nhìn thấy cả cái bãi quây nữa, có rào chung quanh.

- Thế thì em không quên nữa chứ?.- ồ! Không.

- Bình thường con gì giữ cừu nào?

- Những con chó.

- Thế khi cừu được an toàn thì chó làm gì nào?

- Chẳng làm gì cả.

- Chúng có thể ngủ. Ta nói "Những con chó ngủ".

- Đúng vậy, dễ thật.

- Phải không nào? Bây giờ ta nghĩ đến chuyện khác. Cùng với lũ chó còn có ai giữ cừu nữa không?

- Người chăn cừu.

- Nếu những con cừu đang an toàn người chăn cừu không có việc gì phải làm thì anh ta dùng thời gian làm gì?

- Thổi sáo - Em có nhìn thấy không?

- Có. Anh ta ngồi dưới bóng mát một cây du non, cùng với những người chăn cừu khác.

- Vậy thì, nếu em trông thấy cừu, thấy bãi quây, những con chó, người chăn cừu rồi, em có thể đọc thuộc lòng bài ngụ ngôn từ đầu mà không lỗi không?

- Có lẽ có thể.

- Thử xem nào.

Sau vài phút lưỡng lự, nó bắt đầu đọc:

- Những con cừu nằm an toàn trong bãi quây, lũ chó ngủ, và người chăn cừu, dưới bóng mát một cây du non, đang thổi sáo với những người chăn cừu láng giềng.

Thế là nó vỗ hai tay vào nhau, kêu lên:

- Tôi thuộc rồi!

- Thế em có muốn học phần cuối của bài ngụ ngôn theo như cách đó không?

- Có. Mẹ em sẽ hài lòng.

Thế là chưa đến mười lăm phút nó đã thuộc lòng bài ngụ ngôn và đang đọc làu làu không hề ngắc ngứ thì vừa lúc mẹ nó chợt tới sau chúng tôi. Lúc đầu mẹ nó tưởng chúng tôi gần nhau để chơi, nhưng Arthur không để cho bà nói đến hai câu.

- Con thuộc bài rồi, nó kêu lên, chính anh ấy dạy con học.

Bà Milligan nhìn tôi rất ngạc nhiên khi Arthur lên tiếng đọc thuộc bài Chó sói và con cừu non.

Nó đọc với một vẻ thắng lợi và vui mừng, không hề ngập ngừng..Tôi nhìn bà Milligan. Khuôn mặt bà rạng rỡ lên với một nụ cười rồi hình như mắt bà ươn ướt nhưng lúc này bà cúi xuống hôn con trai một cách trìu mến.

- Những từ, Arthur nói, chẳng nghĩa lý gì, nhưng người ta nhìn thấy mọi thứ và Rémi đã làm con nhìn thấy người chăn cừu với ống sáo, con nghe thấy cả điệu nhạc mà anh ta thổi sáo nữa.

Bà Milligan khóc, khi bà đứng lên tôi thấy trên má con trai có nước mắt của bà. Bà lại gần tôi, cầm lấy tay tôi và siết tay tôi một cách dịu dàng đến nỗi tôi vô cùng cảm động.

- Cháu là cậu con trai tốt quá đi mất. - Bà nói.

Sở dĩ tôi kể lại sự kiện này là để mọi người hiểu được sự thay đổi của vị trí tôi kể từ ngày hôm đó. Tối hôm qua người ta còn coi tôi là một người làm trò với chó để mua vui cho đứa con đau ốm nhưng bài học vừa rồi đã tách tôi ra khỏi lũ vật và tôi bỗng trở thành một người bạn, gần như một người bạn thân của gia đình.

Lúc này khi tôi nhớ lại những ngày trôi qua bên cạnh bà Milligan và Arthur, tôi thấy đó là những ngày đẹp nhất trong cả thời thơ ấu của tôi.

Arthur kết bạn với tôi vô cùng nhiệt tình, về phía tôi tôi cứ để buông trôi như thế và do ảnh hưởng của thiện cảm tôi coi nó như một đứa em, chúng tôi không bao giờ cãi nhau, nó không bao giờ tỏ ra trịch thượng do vị trí xã hội của mình còn tôi tôi cũng không bao giờ tỏ ra lúng túng dù chỉ là một chút xíu.

Tất cả những điều này là do tuổi tôi và sự ngu dốt của tôi đối với cuộc đời và cũng nhờ sự tế nhị và lòng tốt, bà Milligan thường nói với tôi như với một đứa con.

Cuộc du hành thật tuyệt diệu đối với tôi, không một phút mệt mỏi hay chán nản, suốt từ sáng đến chiều giờ nào cũng có việc.

Nếu quang cảnh hay hay thì cả ngày chúng tôi chỉ đi được vài dặm, nếu quang cảnh đơn điệu chúng tôi đi nhanh hơn.

Vào giờ nhất định cơm được dọn ra ngoài hiên và vừa ăn chúng tôi vừa yên lặng theo dõi cảnh quan di động hai bên bờ.

Khi mặt trời lặn, chúng tôi dừng lại.

Không lúc nào chúng tôi biết đến những giờ ăn không ngồi rồi lúc chiều tối, những giờ mà.người du hành luôn cảm thấy dài dặc và buồn bã. Những giờ này, ngược lại, đối với chúng tôi lại quá ngắn ngủi, giờ đi ngủ đến bất chợt vào đúng lúc chúng tôi chẳng nghĩ đến ngủ chút nào.

Tàu dừng lại mà trời lạnh thì chúng tôi giam mình trong phòng khách, sau khi đốt một ngọn lửa nhỏ cho đỡ ẩm thấp và đỡ sương mù, người ta mang đèn đến, đặt Arthur trước bàn, tôi ngồi bên cạnh nó, bà Milligan cho chúng tôi xem những sách tranh hay những bức ảnh. Bà cũng kể cho chúng tôi nghe các truyện truyền thuyết, các sự kiện lịch sử liên quan đến đất nước mà chúng tôi đang đi qua.

Phần tôi, buổi tối nào đẹp trời, tôi ôm chiếc đàn lên bờ đứng hơi xa xa sau một cái cây, hát tất cả những bài hát mà tôi biết, chơi tất cả những khúc nhạc mà tôi thuộc. Đối với Arthur được nghe nhạc trong đêm khuya tĩnh lặng không nhìn thấy người chơi đàn là một niềm vui lớn.

Thật là một cuộc đời êm dịu và sung sướng đối với một đứa trẻ chỉ vừa dời mái nhà tranh của má Barberin để đi theo những con đường lớn của xi-nho Vitalis.

Đã hai lần tôi tưởng như những sợi dây ràng buộc tôi với những người thân yêu nhất phải tan vỡ, phải kết thúc: lần đầu khi tôi bị rứt ra khỏi má Barberin, lần thứ hai phải xa cách cụ Vitalis, cả hai lần tôi đều thấy mình trơ trọi trên cõi đời này, không nơi nương tựa, không người nâng đỡ chỉ có lũ vật làm bạn.

ấy thế mà trong cảnh cô đơn tuyệt vọng tôi lại tìm thấy một người tỏ ra trìu mến tôi, mà tôi không được phép yêu: một người đàn bà xinh đẹp, dịu dàng, âu yếm; một đứa bé đối xử với tôi như em đối với anh. Thật vui sướng, thật hạnh phúc đối với một trái tim luôn khao khát yêu thương không biết bao nhiêu mà kể như tim tôi.

Tôi phải sung sướng chứ, mà thực tế tôi sung sướng thật. Thời gian trôi đi rất mau, đã tới lúc chủ tôi ra tù. Tôi vừa vui mừng đồng thời vừa bối rối.

Càng xa Toulouse bao nhiêu ý nghĩ này càng giày vò tôi bấy nhiêu. Đi thuyền như thế này thì thích thật nhưng lại phải đi bộ quay về suốt chặng đường đã trôi qua trên mặt nước. Nhất là phải xa bà Milligan và Arthur, từ bỏ lòng thương mến của họ, mất họ nữa. ý nghĩ này là bóng mây duy nhất trong những ngày xán lạn này.

Một hôm tôi quyết định báo cho bà Milligan biết và hỏi bà theo bà thì mất bao nhiêu ngày.để chúng tôi trở về Toulouse vì tôi muốn có mặt ở cổng nhà tù đúng lúc chủ tôi bước ra.

Nghe nói đến ra đi Arthur kêu lớn:

- Tôi không muốn Rémi đi!

Tôi trả lời là tôi không được tự do, tôi thuộc về chủ tôi và tôi phải trở về làm việc với cụ.

- Mẹ ơi, phải giữ Rémi lại. - Arthur nói tiếp.

- Mẹ thì mẹ rất sung sướng được giữ Rémi, bà Milligan nói, con đã kết bạn với anh ấy rồi mà, mẹ cũng rất mến anh ấy, nhưng muốn giữ anh ấy lại cần hai điều kiện: Việc đầu tiên là Rémi phải muốn ở cùng chúng ta đã...

- à! Rémi thì muốn lắm chứ. - Arthur ngắt lời.

- Việc thứ hai, bà Milligan nói tiếp không đợi tôi trả lời, là chủ anh ấy từ bỏ quyền giữ anh ấy.

Dĩ nhiên cụ Vitalis là một người chủ tốt đối với tôi rồi và tôi biết ơn sự săn sóc cũng như những bài học của cụ, nhưng không thể so sánh cuộc đời sống bên cụ với cuộc đời mà bà Milligan đề nghị với tôi.

- Trước khi trả lời, bà Milligan nói tiếp, Rémi phải suy nghĩ đã. Mẹ không đề nghị một cuộc sống chỉ vui, chỉ đi chơi mà là một cuộc sống lao động. Phải học, phải theo Arthur trong học hành, phải cân nhắc lợi hại so với cuộc sống tự do trên những con đường lớn.

- Thưa bà, tôi nói, có gì mà phải cân nhắc, cháu đảm bảo với bà như vậy, cháu thấy ngay giá trị lời đề nghị của bà là thế nào.

- Đấy mẹ xem! - Arthur reo lên. - Rémi muốn mà.

- Bây giờ, bà Milligan nói tiếp, ta cần phải có được sự thỏa thuận của chủ anh ấy, vì vậy mẹ sẽ viết thư cho cụ để cụ gặp chúng ta ở Cette vì chúng ta không thể quay lại Toulouse được. Mẹ sẽ gửi tiền tàu xe và giải thích cho cụ tại sao chúng ta không thể đi tàu hỏa. Mẹ mong cụ sẽ tới theo lời mời của chúng ta. Nếu cụ chấp nhận những đề nghị của mẹ, mẹ vẫn còn phải thỏa thuận với cha mẹ Rémi nữa, họ phải được hỏi ý kiến.

Mấy lời sau cùng này làm tôi cay đắng trở lại thực tế đau buồn từ giấc mơ mà tôi đang bay bổng.

Sự thật thế là bùng nổ. Tôi rụng rời. Bà Milligan nhìn tôi ngạc nhiên muốn tôi nói ra nhưng tôi không dám trả lời những câu hỏi của.bà. Bà lại tưởng tôi lo lắng về việc chủ tôi sắp tới nên không gặng hỏi nữa.

May thay đã sắp đến giờ đi ngủ tôi có thể vào buồng suy nghĩ và sợ hãi. Và sau khi đã nghĩ đi nghĩ lại hàng trăm lần cùng một ý nghĩ, sau khi đã chấp nhận biết bao cách giải quyết mâu thuẫn lẫn nhau, tôi dừng lại ở cách thuận tiện nhất: để mặc nó đến đâu thì đến, cái gì đến với tôi tôi đành chấp nhận.

Ba ngày sau khi gửi thư đi bà Milligan nhận được trả lời. Cụ Vitalis viết vài dòng nói là rất hân hạnh được đến theo lời mời của bà, thứ bảy sau cụ sẽ đến trên chuyến tàu hai giờ chiều.

Tôi xin phép bà Milligan ra ga, đem theo lũ chó và Joli - Coeur. Chúng tôi đợi tàu đến.

Bọn chó đứng ngồi không yên, chúng cảm thấy có cái gì đó, còn tôi, tôi vô cùng xúc động.

Trong tâm hồn dốt nát của tôi bao đấu tranh mâu thuẫn với nhau đang diễn ra.

Chính lũ chó báo cho tôi biết tàu đã đến và đánh hơi thấy chủ tôi. Bỗng nhiên tôi thấy mình bị kéo đi và vì không chuẩn bị, chúng thoát khỏi tay tôi. Chúng chạy và sủa lên mừng rỡ, ngay lập tức tôi thấy chúng nhảy quanh cụ Vitalis vừa xuất hiện trong trang phục mọi khi. Nhanh hơn các bạn, Capi lao vào vòng tay chủ tôi trong khi Zerbino và Dolce bám riết vào chân cụ. Đến lượt tôi tiến tới, cụ Vitalis đặt Capi xuống đất ôm siết lấy tôi trong hai cánh tay và lần đầu tiên vừa ôm hôn tôi vừa nhắc đi nhắc lại:

- Tội nghiệp, con yêu dấu tội nghiệp của ta.

Chủ tôi vốn không phải người khắc nghiệt nhưng cũng không bao giờ thích vuốt ve mơn trớn, tôi không quen với những thể hiện tình cảm yêu thương trìu mến như thế nên cảm động quá, mắt tôi ngập lệ.

Tôi thấy cụ già đi trong nhà tù, lưng còng xuống, mặt xanh xao.

- Con thấy ông thay đổi, đúng không? Nhưng bây giờ thì sẽ khá lên thôi.

Rồi cụ đổi đề tài:

- Bà mà viết thư cho ông đó, con biết bà ta trong hoàn cảnh nào?

Tôi kể lại cụ nghe chuyện gặp gỡ của chúng tôi. Tôi kể thật dài vì sợ đến hồi kết thúc phải đề cập tới vấn đề làm tôi đang hết hồn vì từ lúc này không bao giờ tôi có thể nói với chủ tôi là tôi muốn ở lại với bà Milligan nữa. Nhưng tôi chưa phải thú nhận chuyện này, kể chưa xong thì chúng tôi đã tới khách sạn bà Milligan ở. Hơn nữa cụ Vitalis cũng không nói gì với tôi về bức thư của bà Milligan, cũng không nói tới những lời đề nghị mà bà sẽ phải nói với cụ.

- Cho ông biết số buồng của bà ấy còn con ở lại đây với lũ chó và Joli - Coeur.

Tại sao cụ Vitalis không muốn tôi tham dự cuộc nói chuyện với bà Milligan? Chưa tìm được câu trả lời thì tôi đã thấy cụ quay về.

- Con đến tạm biệt bà đi, cụ bảo tôi, mười phút nữa ta sẽ đi.

Tôi ngần ngừ, mặc dầu cảm giác về quyết định đó làm tôi ngã ngửa.

- Thế ra con chưa hiểu sao? - Cụ nói.

Chưa bao giờ cụ có thói quen nói xẵng với tôi. Tôi đứng dậy.

- Cụ nói là... - tôi hỏi.

- Là con có ích đối với ông, ông cũng có ích với con, và ông không muốn bỏ con.

Vào buồng bà Milligan tôi thấy Arthur đang khóc còn mẹ nó đang cúi xuống an ủi nó.

- Rémi, có phải anh không đi không? - Arthur kêu lên.

Bà Milligan trả lời thay tôi, giải thích là tôi phải vâng lời.

- Chủ cháu thực sự yêu thương cháu Rémi ạ, cháu giúp ích được cho cụ nhiều. Hơn nữa lời cụ nói là lời của một con người lương thiện. Cụ nói như thế này để cắt nghĩa lời từ chối của mình: "Tôi yêu thằng bé này, nó cũng yêu tôi, bài học khắc nghiệt của trường đời học được ở bên tôi đối với nó sẽ có ích hơn tình trạng đầy tớ giả danh mà bà dành cho nó dù bà không muốn. Bà sẽ đem lại cho nó học vấn, giáo dục, tạo nên trí tuệ nó nhưng không tạo được tính cách cho nó. Nó không thể là con trai bà. Nó sẽ là con tôi. Tôi, tôi cũng sẽ dạy dỗ cháu." - Con không muốn Rémi đi! - Arthur kêu lên.

- Nhưng anh ấy phải đi. - Mẹ nó trả lời.

Tôi bèn lại gần Arthur, ôm nó trong tay và hôn nó nhiều lần, đặt trong những cái hôn đó tất cả tình cảm của tôi đối với nó. Rồi, rứt ra khỏi cái siết chặt của nó tôi tới chỗ bà Milligan, cầm lấy bàn tay bà mà hôn..Bà hôn tôi trên trán. Thế là tôi đứng ngay lên và chạy ra cửa:

- Arthur, anh sẽ yêu em mãi mãi! - Tôi vừa nói vừa thổn thức làm giọng tôi bị ngắt quãng.

- Còn bà, thưa bà, cháu sẽ không bao giờ quên bà!

- Rémi! Rémi! - Arthur kêu.

Nhưng tôi không nghe thêm nữa, tôi đã chạy ra ngoài.

Một phút sau tôi ở bên chủ tôi.

- Lên đường! - Chủ tôi nói.