[Đạo Mộ Bút Ký] Lão Cửu Môn

Chương 6: Cầm thanh la




Trương Khải Sơn nhìn Tề Thiết Chủy, đúng như người ta vẫn nói đúng người đúng việc, có những người bề ngoài có vẻ yếu đuối khiếp nhược, nhưng đến khi gặp đúng lĩnh vực họ nắm rõ thì cứ như biến thành một người khác, nhìn mà trong lòng yêu thích. Cười mà không nói, muốn xem xem Tề Thiết Chủy có kiến giải gì.

Viên sĩ quan phụ tá họ Trương lúc này hơi bất an, cứ nhìn Trương Khải Sơn như muốn nói rồi lại thôi, Trương Khải Sơn không hiểu, hỏi: “Cậu căng thẳng cái gì?”

“Phật Gia, tôi tuổi Tỵ.” Viên sĩ quan nhỏ giọng nói. Trương Khải Sơn suýt thì phì cười, bèn lập tức cười nhạt nói: “Người Trương gia bát tự không cứng đều đã chết hết ở Đông Bắc rồi, đứng yên đấy cho ta, cậu còn chưa bị ta khắc chết, còn ai khắc chết nổi cậu nữa.”

“Phật Gia!” Viên sĩ quan lập tức đứng nghiêm chào, như thể dù có bị khắc chết, anh ta cũng cam lòng chịu vậy. Tề Thiết Chủy nhìn mà lắc đầu, ngồi xổm xuống bên cạnh, mân mê cây đinh dưới đất.

Những chiếc đinh này không phải là loại đinh sắt thông thường, ở đầu đinh được chạm khắc đủ các loại ký tự kỳ quái, đinh ghim thành những ba lớp dưới sàn xung quanh quan tài. Đinh ghim rất sâu vào trong thớ gỗ, Tề Thiết Chủy sờ vào một lượt, thấy tay đầy bột mực đen sì. Xem ra những chiếc đinh vốn được ngâm trong mực nước.

Người xưa khi nhập liệm không dùng đinh, mà dùng dây da buộc chặt quan tài lại, ba sợi dài, hai sợi ngắn, đan nhau thành hình chữ thập buộc chặt quan tài lại, bởi vậy mới có câu “ba dài hai ngắn” để nói khi gặp phải chuyện gì bất trắc. Về sau, đến thời đồ sắt, quan tài mới dùng đinh đóng thay cho dây da, còn được gọi là trấn đinh, hoặc là tôn tử đinh, tổng cộng có 7 cây – số 7 cát lành.

Ở vùng Quảng Đông Quảng Tây có một tập tục cũ, người chết nhập liệm, khoảng mười năm hai mươi năm sau thì bốc mộ nhặt xương, rút đinh quan tài ra, mở nắp quan, nhặt nhạnh xương cốt chuyển sang hòm áo quan mới, lại nhập liệm một lần nữa. Đinh quan tài được bảo quản cực tốt, thu nhặt lấy, rồi đánh thành vòng tay.

Loại vòng tay được làm từ đinh quan tài của tổ tiên có tác dụng trừ tà. Mà đối với những thầy phong thủy ở Quảng Đông, loại đinh quan tài này còn có nhiều tác dụng hơn nữa. Thu nhặt những thứ này, vào lúc nguy khốn có thể định phong khốn thủy, dùng để cứu mạng.

Ba tầng đinh khốn thủy ở đây đã vây khốn sát khí của quan tài vào giữa, kích cỡ những cây đinh này không đồng nhất, số đinh này chắc chắn là do vị cao nhân mấy chục năm trước kia có được bằng cách nào đó, hoặc là do tổ tiên ông ta truyền lại. Lần này là đã xài hết vốn gốc luôn rồi. Tề Thiết Chủy không biết người đó có để lại ẩn ý gì bên trong những cây đinh này hay không nữa. Ngày xưa, trước khi sử dụng đinh quan tài, phải dùng đinh đâm chết tươi mấy con gà trống, rồi đóng đinh xác gà vào xung quanh quan tài. Thế nhưng bây giờ nhìn quanh quan tài không có dấu vết của gà, không biết là trước kia đã đóng đinh thứ gì xuống mặt sàn gỗ nữa.

Một ý nghĩ mờ nhạt dần dần hiện lên trong đầu Tề Thiết Chủy, một chiếc xe lửa cũ nát tiến vào Trường Sa giữa đêm khuya khoắt, toa tàu thì bị hàn sắt tây kín mít, trên đầu tàu lại có treo một chiếc gương đồng, quan tài bị phong kín bằng sắt, căn phòng quách đóng đầy đinh quan tài.

Tề Thiết Chủy quay sang nhìn Trương Khải Sơn: “Vị cao nhân này là nhắm vào tôi với ngài rồi, Phật Gia.”

“Vì sao lại nói vậy.” Trương Khải Sơn cũng ngồi xổm xuống, nói.

“Gương đồng là truyền thống nhà họ Tề, người nhà họ Tề chu du khắp thiên hạ, hiểu biết rất rộng, mà ngài, danh tiếng Trương Đại Phật Gia ở Trường Sa, khắp vùng này ai mà không biết, song chỉ thám động của nhà họ Trương là tuyệt kỹ Bắc phái, năm xưa quy cách xử lý Tiêu tử quan cũng chính là do tổ tiên Trương gia định ra vậy. Cỗ Tiêu tử quan này nằm trong căn phòng quách bị sắt tây hàn kín, xung quanh đóng đinh những mấy mươi cây đinh quan tài, thứ đồ bên trong hiển nhiên không phải dạng thường. Vị cao nhân này tỏa khí phong quan, đưa cỗ quan tài này đến Trường Sa, chính là bởi biết ở Trường Sa có ngài. Chiếc gương đồng này, đó là để con cháu Tề gia là tôi đây báo cho ngài biết tính nghiêm trọng của sự việc này.”

Trương Khải Sơn nhìn cỗ quan tài to tướng, hỏi: “Vì sao con cháu nhà họ Tề không tự mình đến.”

Tề Thiết Chủy trong lòng đau buồn không nguôi, thầm nghĩ lúc trước khi nhìn thấy chiếc xe lửa đã phải sớm nghĩ đến điều này rồi. Tề gia gia huấn, thầy phong thủy thân đầy tuyệt kỹ cũng đã bằng nửa thần tiên, bọn họ ở giữa núi rừng mà nhìn thấy mộ hoang đất hung, tất phải phong núi mà san đất, là để nhân dân ở vùng đó tránh khỏi hoạn nạn. Vật phẩm trong mộ huyệt đó bị lấy ra để phong huyệt, thường không nỡ đem vứt, bèn đem ra chợ đổi lấy phí đi đường, thế là các ngón nghề đổ đấu đãi cát, cứ thế mà dần dần hình thành. Rất nhiều người là tổ tiên Tề gia chết ngoài vùng hoang sơn dã lĩnh, bị coi là giặc trộm mộ, thi cốt chẳng còn. Cho nên, nhà họ Tề không giống với những nhà khác trong Cửu Môn, ngoại trừ Ngũ Gia trẻ tuổi không biết trời cao rộng, còn lại những gia tộc khác đều gánh những mối thù hằn sâu sắc, nói chuyện phiếm hay đi ăn cơm với bọn họ đều cảm thấy rất áp lực.

Mà Tề gia ít có mấy đời truyền xuống, bọn họ đều bằng lòng với số mệnh của gia tộc mình, bởi thầy phong thủy nắm được thiên cơ, không phải chịu những mỏi mệt của người phàm, tự biết phúc báo, không sợ đột tử. Chỉ là cái dáng vẻ rụt rè nhát cáy của mình lúc trước khiến hắn cảm thấy mình đang bôi tro trát trấu vào mặt Tề gia.

Hắn nhìn Trương Khải Sơn, nghiêm nghị nói: “Cỗ quan tài này không thể coi thường, con cháu Tề gia không dám đến, nếu tôi đoán không lầm, cái người con cháu Tề gia này, đã chết ở đầu tàu rồi.”

Trương Khải Sơn sắc mặt thay đổi, nhíu mày, Tề Thiết Chủy tiếp tục nói: “Giờ đang là lúc chuẩn bị cho chiến tranh, tàu quân đội thường xuyên lui tới, không thể cứ để cỗ quan tài này ở đây được. Mà cỗ Tiêu tử quan này, trước khi làm nó câm hẳn, thì tuyệt đối không thể di chuyển. Phật Gia, đến lúc phải dùng đến tuyệt kỹ Trương Gia của ngài rồi.”

Những trải nghiệm từ nhỏ đến lớn của Trương Khải Sơn không giống đa số mọi người, từ khi tòng quân đến nay đã nhìn thấy quá nhiều cái chết, kỳ thực đã quá quen với sống chết rồi. Nếu là thổ phu tử không chính quy thì sẽ nói, cỗ quan tài này chẳng biết có vật gì bên trong, nhưng cứ ném một quả lựu đạn vào, bên trong dù là người hay ma thì cũng kết cục cũng như nhau cả thôi. Thế nhưng, Trương Khải Sơn biết, lúc này không đơn giản như thế.

Viên phụ tá ghé vào bên thì thầm bên tai ông ta, nhắc nhở rằng đây là cái bẫy của người Nhật Bản, tạo ra một cục diện như vậy, bên trong quan tài trang bị đầy thuốc nổ, thò tay vào trong, kích khởi ngòi nổ, loáng cái cả cái trạm xe lửa này sẽ bị nổ bay luôn, đây chính là một cái bẫy quan tài để dồn ta vào chỗ chết.

Trương Khải Sơn xua tay, cái gọi là song chỉ tham động, chính là ngón nghề chuyên phát các loại cơ quan bẫy rập thiết kế tinh vi, cho dù là bom mìn, với khả năng của người Trương gia cũng có thể dùng hai ngón tay mà phá luôn được, số thuốc nổ còn lại cứ cho thẳng ra tiền tuyến lúc nào khai chiến đi. Theo lý mà nói, Tiêu tử quan nếu như thực sự hung hiểm thì ta đã bị nướng chín ngay tại chỗ luôn rồi, sở dĩ Tiêu tử quan nguy hiểm, chủ yếu vì con người hám lợi riêng mà thôi. Người Tề gia đã đặc biệt gửi một cái đến tận Trường Sa, còn muốn đích thân ông ta ra tay, chỉ e mối kỳ hoặc đằng sau đấy không đơn giản như vậy.

Ra khỏi căn phòng sắt, cả ba người tháo mặt nạ phòng độc ra. Trương Khải Sơn nhìn trời, vẫn còn sớm so với bữa trưa, bèn thở dài nói với viên phụ tá: “Nhà ta đã bao lâu chưa động vào cây kéo đó rồi?”

“Ba năm lẻ bốn tháng rồi, Phật Gia.” Viên sĩ quan phụ tá đáp. Rồi lập tức khẽ giọng nói: “Buổi chiều có bốn chuyến tàu quân dụng vào ga, chiếc xe lửa này nhất định phải chuyển đi thôi.”

“Vậy đừng chờ nữa.” Trương Khải Sơn liếc nhìn Tề Thiết Chủy. “Lão thầy bói, ông tới giúp ta cầm thanh la.”