Lời Nguyền Lỗ Ban

Quyển 5 - Chương 29: Dấu về tây




Mọi người còn đang sửng sốt, thì luồng thi khí lại chuyển động, vùn vụt lao lên, tốc độ cực nhanh.

Lỗ Nhất Khí chỉ kịp bật chốt khẩu pạc-hoọc.

Quỷ Nhãn Tam đang chiếm giữ vị trí thuận lợi, hắn dự định đợi khi thi khí lên tới mặt sàn tầng hai sẽ tập kích. Tuy nhiên vào đúng thời khắc then chốt, khi chiếc xẻng lưỡi cày chuẩn bị chém ngang đi, con mắt Thi Vương bên dưới tấm vải đen đột nhiên đau đớn dữ dội. Cơn đau xộc thẳng lên tận óc, khiến hắn chết điếng, phản ứng đờ đẫn, tay chân không còn kiểm soát nổi.

Một áng mây đỏ rực bay vụt lên. Vào khoảnh khắc áng mây băng qua lan can tầng hai, một đĩa thịt gà lao đánh vút vào giữa mặt Hứa Tiểu Chỉ.

o O o

Trên mặt đất, trời đã quá ngọ, vầng mặt trời vừa leo lên khỏi tầng mây, lập tức thiêu đốt mặt đất vàng vừa thấm no nước sau suốt nửa đêm mưa lớn. Mặt bùn nhão đã không còn trơn trượt nữa, đóng cứng vô số dấu chân. Hơi nước hầm hập bị mặt trời hút bật khỏi mặt đất, bốc lên ngùn ngụt, khiến tầm mắt trở nên mờ mịt mơ hồ ngay giữa buổi sáng trời.

Người phía Lỗ gia đã thoát lui cách xa ba gò đất khoản ba bốn trăm bước, đối đầu với bọn họ vẫn là tay thầy cúng và lũ người mất hồn đờ dại của hắn. Còn đám cao thủ Chu gia đều xúm xít bên cạnh gò đất, đang nát óc nghĩ xem làm thế nào để chui xuống dưới.

Ba gò đất đột nhiên rùng rùng nảy lên liền mấy cái, khiến đám người kia trong lúc bàng hoàng còn ngỡ là mình hoa mắt. Song những cú rung lắc chao đảo liên hồi sau đó đã chứng minh, đó không phải là ngộ nhận, mà là đã xảy ra một sự việc kinh hoàng không thể tin nổi.

Trong chớp mắt, đường hầm đã bị lấp kín, những vết nứt sâu hoắm lập tức chạy ngoằn ngoèo khắp trên bề mặt gò đất. Ba gò đất bỗng chốc lỏng lẻo rời rã, nền đất vàng cuộn lên từng mảng lớn như sóng dậy, rồi mau chóng sạt xuống. Cuối cùng, cả gò đất sụp thẳng xuống thành một cái hố khổng lồ sâu hoắm.

Đám thuộc hạ của Chu gia đang xúm xít bên gò đất phần lớn đã bị cuốn sạch vào trong miệng hố khổng lồ, điên cuồng giãy giụa, quẫy đạp trong đất vàng cuồn cuộn, kêu rú thảm thiết. Những kẻ may mắn thoát thân thì kinh hoàng đến rụng rời hồn phách, chẳng ai dám quay lại trợ giúp đồng bọn, bởi lẽ không biết mối nguy hiểm đã kết thúc hay mới chỉ bắt đầu.

-Rút! Lão Lợi vẫy mạnh cánh tay đầy quyết đoán. Sự biến trước mặt là một ước định, dù những người phía dưới có thành công hay không, có tẩu thoát được hay không, lão đều phải dẫn những người còn lại rời khỏi đây ngay lập tức.

Lão thầy cúng cũng đang chết lặng trước sự việc thình lình ở phía sau lưng. Ba gò đất lừng lững trên mặt đất bằng chỉ nháy mắt đã không còn tăm tích, thay vào đó một hố đất khổng lồ mịt mù đất bụi, khiến lão ngỡ như đang ngủ mê. Song nhìn thấy đám người Lỗ gia rút lui, lão lập tức choàng tỉnh.

Tiếng trống da dê đã vang lên dồn dập dưới tay lão. Đám người thất thần đờ đẫn lập tức biến ngay thành những chiếc binh dũng cảm hạng nhất, múa tít những món binh khí kỳ hình dị dạng, nhất loạt lao tới với tốc độ chóng mặt, vây bủa và tấn công đám lão Lợi.

Người Lỗ gia nghênh định bình tĩnh, phản ứng nhanh nhạy. Đang túm tụm lại một chỗ, bọn họ nhanh chóng kéo giãn thành một hàng dài, lão Lợi và lão mù đoạn hậu vẫn đứng im tại chỗ không hề dịch chuyển. Như vậy, cho dù đám cao thủ Chu gia có xông ra được mà tới, cũng chỉ có thể bủa vây được hai ba người cuối cùng, còn những người không bị bao vây có thể quay đầu phản kích bất cứ lúc nào, hình thành thế trong ngoài hợp kích. Đây chính là chiến thuật “rắn chui trứng” mà các băng mã tặc thường xuyên áp dụng trong khi giao chiến.

Chiến thuật trấn tĩnh và chặt chẽ khiến lão thầy cúng nhận ra rằng, đối thủ trước mặt lão tuyệt đối không phải hạng tầm thường.

Khí đoạn sát! Lão thầy cúng đã lập tức phải sửng sốt và kinh hãi. Vuông nhiễu đỏ buộc cuối chuôi đao đầu quỷ trên tay lão già mặt cười đi sau đoạn hậu đột nhiên bay lên phần phật, cuốn theo một luồng khí đoạn sát cực kỳ trầm trọng. Vuông nhiễu đỏ hẳn đã thấm đẫm máu từ vô số thủ cấp của kẻ vô hồn vô phách. Khí đoạn sát là khắc tinh của đám người mất hồn kia, chúng không sợ sinh tử, không biết đau đớn, song chỉ có cảm giác, chỉ biết khiếp sợ trước khí tướng kia.

Cùng lúc đó, từ dưới rãnh đất bên trái vụt lên một luồng ma khí u ám âm hàn. Lão thầy cúng cảm giác độ nặng nề của luồng ma khí gần giống như Dưỡng Quỷ Nương của Chu gia. Song nếu đúng là Dưỡng Quỷ Nương, đáng lẽ bà ta phải sớm ra tay trợ giúp lão đối phó với người phía Lỗ gia mới phải. Không phải là bà ta, thì chỉ có thể là trợ thủ ẩn phục phía đối phương.

Phía sau khe đất bên phải chiếu ra một luồng kiếm khí sắc bén rợn người, chỉ có bảo kiếm tuyệt thế mới có thể sở hữu làn khí như vậy, cũng chỉ có cao thủ tuyệt thế mới có thể chế ngự được kiếm khí đó. Nhìn vào hiện tượng, thì tay cao thủ đó chắc hẳn cũng là quân chi viện của đối thủ đang ém mình rình sẵn.

Đám người mất hồn đã đuổi tới gần đám người Lỗ gia, bình khí trong tay sẵn sàng chém giết. Song tiếng trống da dê đã lại dồn dập thành hồi. Tiếng trống vừa vang lên, cơn truy sát lập tức dừng ngay lại.

Kẻ nên đi đã đi xa, kẻ nên ở đã ở lại. Có người cảm thấy sự việc đã kết thúc, có người cho rằng sự việc mới bắt đầu.

Những cơn sóng bùn dậy đất đã nhanh chóng lắng xuống, đám tay chân của Chu gia lóp ngóp bới đất chui lên từng tên một, khắp người bê bết đất vàng hệt như một bầy tượng gốm. Không có thương vong gì đáng kể, song đều kinh hoàng cực độ. Tuy nhiên, chúng nhanh chóng ý thức được rằng, cần phải mau chóng hành động để cứu lấy vị môn trưởng đã bị chôn vùi phía dưới.

Chu gia quả nhiên thế lực hùng hậu, chỉ riêng cao thủ đào đất đã có số lượng hết sức khả quan. Người cũ, người mới tới, cộng thêm lực lượng mới được điều động khẩn cấp từ những vùng lân cận, dễ có tới gần hai trăm người, nhanh chóng tập trung lại điên cuồng đào bới.

Diện tích sạt lở rất rộng lớn, song phạm vi của hầm mộ phía dưới còn lớn hơn nữa, muốn đào bới vài con người dưới đó chẳng khác gì mò kim đáy bể. Thế nhưng Chu gia vẫn còn cao thủ khác, một cao thủ có thể tìm ra vị trí người bị chôn vùi.

Lão thầy cúng trải ra một tấm vải bông màu đỏ thẫm, rắc lên trên một lượt đất vàng thật mỏng, rồi châm hương tê, gieo xương vụn, rung tấm vải, niệm thần chú, sau đó nằm rạp xuống đất dí mũi quan sát sự biến đổi của đất vàng trên mặt vải, tìm ra vị trí của linh hồn ở dưới đất.

Phương pháp của lão thầy cúng quả thực phi thường, dù là chết hay sống, chỉ cần hồn phách vẫn chưa tán loạn hay tan rã, vẫn có thể tìm ra. Nhờ sự hướng dẫn của lão thầy cúng, đám cao thủ đào đất tập trung đào thẳng tới trọng tâm. Đầu tiên, chúng moi được hơn chục xác chết trong tầng bùn đất lẫn lộn cát vàng và đất nện màu xám. Đó chính là những kẻ thuộc hai trong số ba ngả đường khác đào vào trong gò đất.

Phải mất hơn nửa ngày trời nữa, chúng mới bới lên được gã quái nhân mắt đỏ chỉ còn thoi thóp trong một gian địa thất nhỏ. Gian địa thất nhỏ hẹp nên sức chống đỡ sẽ lớn hơn, tuy đã sập xuống non nửa, song vẫn chừa lại một khoảng không đủ cho quái nhân mắt đỏ không bị bẹp dí.

Quái nhân mắt đỏ thương thế trầm trọng, hai tay đứt lìa, mất máu khá nhiều khiến tính mạng vô cùng nguy ngập. Đặc biệt là vết thương bên cánh tay phải, da thịt bị róc sạch, gân mạch bị cắt rời, chỉ còn khúc xương trơ trọi. Hơn nữa đao pháp quái dị của gã béo quả thực quái dị, mạch máu bị cắt đứt không thể bịt lại, dù đã được điểm huyệt phong bế kinh mạch huyết quản, vết chém vẫn không ngừng rỉ máu. Cả đám cao thủ đông đảo của Chu gia không tài nào nghĩ ra được phương pháp cầm máu hữu hiệu, không còn cách nào khác, đành phải chém đứt toàn bộ cánh tay đến tận vai mới có thể cầm máu được.

Tiếp đó, bọn chúng tìm được lão cao thủ Chồn Đào đã chết trước đó rất lâu. Nhìn vào sắc mặt tím ngắt của lão, có thể đoán là chết vì tắc thở. Song trong mũi miệng lại rất sạch sẽ, cho thấy lão chết trước khi địa thất đổ sập. Kiểm tra kỹ lưỡng thi thể, không thấy có vết siết, vết bầm nào, thế nhưng khí quản ở yết hầu lại teo rút lại. Có người tinh mắt đã phát hiện ra phía sau bắp chân lão có cắm một chiếc kim bạc dùng trong châm cứu, không biết từ đâu ra.

Cao thủ thuộc băng đảng phía đông của Chu gia đã nhận ra đây là tuyệt chiêu của quái y Thương Châu Dịch Huyệt Mạch. Y đạo điên đảo của Dịch Huyệt Mạch có châm pháp nhổ ngược huyệt, tức là châm vào chỗ hiểm yếu để cứu người, châm vào chỗ không huyệt để giết người, châm bên dưới tác dụng bên trên, châm bên trên tác dụng bên dưới, châm vào máu thịt nhổ ngược đến huyệt mạch ra, dẫn động đến các cơ bắp, khiến huyệt vị tương quan hoạt động. Bởi vậy, tuy lão già bị châm trúng bắp chân vốn không phải là chỗ hiểm, song lại khiến khí quản tại yết hầu bóp chặt. Thế nhưng tay Dịch Huyệt Mạch kia trước nay chỉ nghiên cứu y đạo không màng thế sự, chưa bao giờ ra khỏi địa giới Thương Châu, tại sao lại thình lình xuất hiện trong mộ thất nơi đây?

Vị trí của Chu Chân Mệnh là khó xác định nhất. Ngay cả thi thể và thủ cấp của Nghê Thất cũng đã lần lượt được bới lên, song vẫn không thể tìm ra Chu Chân Mệnh. Thầy cúng bảo với đám người rằng, nếu ngay cả lão cũng không thể tìm ra linh hồn, thì chỉ có ba khả năng: thứ nhất, môn trưởng đã thoát ra, không còn ở dưới đất; thứ hai, sau khi môn trưởng chết đi đã bị người ta dùng thủ đoạn nào đó phong toả linh hồn; thứ ba, môn trưởng chưa chết, linh hồn vẫn ở trong cung Nê Hoàn, chưa từng thoát xác.

Ba khả năng này đã mang lại niềm hy vọng lớn lao cho đám thuộc hạ của Chu gia. Thế là bọn chúng tiếp tục hùng hục đào bới không quản ngày đêm. Tới ngày thứ ba, lão thầy cúng đã bắt được một dấu vết thoáng qua của hu hồn, mau chóng xác định được vị trí của Chu Chân Mệnh.

Cuối cùng, bọn chúng đã tìm thấy Chu Chân Mệnh bên dưới một tấm trần địa thất đổ nghiêng. Đó là một khe hở rất nhỏ hẹp, song lớp đất vàng tơi xốp xung quanh đều đã bị hắn vỗ chặt. Ngoài ra, để dự trữ dưỡng khí, hắn còn nện thành một hốc lõm nối liền với khe hở chật hẹp mà hắn đang bị kẹt bên trong. Khi Chu Chân Mệnh được lôi ra khỏi khe hở, đã không còn cảm nhận được hơi thở của hắn nữa, mạch đập cũng lâu lâu mới đập khẽ một cái. Đây là phương pháp quy tức (cách thở của rùa). Nếu không nhờ vào phép thở này, dù có nện thêm bao nhiêu hốc lõm xung quanh, cũng không đủ cho hắn hít thở trong hai canh giờ.

Không khí từ trên mặt đất ùa xuống phía dưới, khiến Chu Chân Mệnh đang ở trạng thái quy tức lập tức cảm nhận được ngay. Cánh mũi hắn phập phồng hai cái, con ngươi đảo vài vòng bên dưới mí mắt, từ trong họng bật ra một tiếng “khục” khe khẽ. Sau đó, hắn từ từ mở mắt, giống như vừa tỉnh dậy sau một giấc ngủ say.

Vừa mở mắt, Chu Chân Mệnh lập tức ngồi xếp bằng, hít sâu thở chậm, để luồng khí lưu chuyển khắp cơ thể, kinh mạch thông suốt hoàn toàn. Rất lâu sau, hắn đưa ngón tay lên chỉ về một phía:

-Đào chỗ đó lên, lấy thứ kia về cho ta!

Không ai dám hỏi “thứ kia” là thứ gì, chỉ răm rắp tuân lệnh, tiếp tục đào tại chỗ hắn vừa chỉ.

Lại một đêm nữa trôi qua. Trong khoảng thời gian này, Chu Chân Mệnh có ăn có uống, song từ đầu chí cuối không chịu rời khỏi hiện trường nửa bước. Hắn muốn đích thân xác nhận phương hướng và vị trí đào bới.

Trong chỗ đất được đào có vết bò của rết máu xác và rắn dẹt ngũ sắc.

-Xem xem vết bò của “trăm chân” và “rồng dẹt” từ đâu tới? – Chu Chân Mệnh cảm thấy phạm vi đào thế là đã đủ, bây giờ chỉ cần căn cứ vào dấu vết của đám trùng độc để tìm ra vị trí cuối cùng.

-Thưa môn trưởng, “trăm chân” và “rồng dẹt” đều bò cả xuống dưới! – Cao thủ biện nhận dấu tích tới bẩm báo.

Chu Chân Mệnh lập tức chau tít đôi mày. Chính mắt hắn nhìn thấy mảnh vải bọc trùng độc bị đá văng vào trong hố sụt, khi đó cho dù Lỗ Nhất Khí đã bị chôn vùi, cùng lắm cũng chỉ sâu khoảng nửa thước, quãng đường trùng độc luồn lách trong đất không thể quá dài. Mà từ lúc phát hiện thấy vết bò của trùng độc đến lúc này, phạm vi đào đã gần hai trượng. Vốn dĩ hắn cho rằng đó là vết trùng độc bò về, song bây giờ thuộc hạ lại bẩm báo đó là vết bò xuống dưới. Cũng có nghĩa là đám “trăm chân” và “rồng dẹt” đã luồn sâu đến gần hai trượng mà vẫn không đuổi kịp Lỗ Nhất Khí. Lẽ nào tên Lỗ Nhất Khí này biết độn thổ?

Chu Chân Mệnh quay người lại nhìn lão thầy cúng, giận dữ gằn lên hai tiếng:

-Tìm hồn!

Lão thầy cúng lại tất bật bày trò ma quỷ, trải vải tám hướng, rắc mẩu xương vụn, bốc cát bốc đất, ngửi mùi nhận hình. Cuối cùng, lão đã đưa ra một kết quả khiến Chu Chân Mệnh phải hụt hẫng:

-Không hồn!

-Không thể nào! Cho dù hắn chưa chết, cũng không thể luồn đi trong đất mà không để lại một dất vết, tại sao lại không tìm ra được? - Sự tự tin của Chu Chân Mệnh như thể đã bốc hơi cùng với kẻ mà hắn đang tìm kiếm.

-Thưa môn trưởng, ở đây có dấu vết đào bới! - Thủ hạ của Chu gia cuối cùng đã phát hiện ra điểm bất thường.

-Môn trưởng! Phía dưới có đường hầm, đủ cho một người bò qua! – Lại có một tên nữa phát hiện ra sự lạ, cung cúc chạy lại bẩm báo với Chu Chân Mệnh.

Chu Chân Mệnh không ngờ hắn lại bị dính bẫy ở nơi này! Hắn như đột nhiên bừng tỉnh, cơn phẫn hận bỗng chốc bùng phát dữ dội, không nơi giải toả, lập tức giáng thẳng một chưởng vào giữa ngực tên thủ hạ vừa bẩm báo.

Chỉ thấy tên thủ hạ đổ vật xuống đất không một tiếng kêu, cơ thể co rút lại như trái bóng, máu bắn vọt ra từ thất khiếu. Con ngươi lồi hẳn ra ngoài và hai hàm răng nghiến chặt đến vỡ vụn, răng văng lả tả, cho thấy gã đang đau đớn tới cực độ.

-Từ lúc ta xuống đây đến giờ đã mấy ngày rồi? – Chu Chân Mệnh tới lúc này mới hỏi một câu có liên quan tới bản thân.

-Đến khi trời sáng là sang ngày thứ tư! - Một tên thuộc hạ đứng thật xa bẩm lại.

-Vẫn còn kịp! Hắn đã đoạt được bảo bối giết rồng, tất sẽ tới hung huyệt phía tây bắc. Cho bồ câu đưa thư, hạ lệnh cho các đường khẩu phía tây bắc toàn lực xuất quân. Ngày xuất “xe đồng ngựa phi”, đêm xuất “bóng người”, ngăn chặn tận diệt bọn người Lỗ gia. Lại lệnh cho các đường ở gần đó nhất là Bạch Mã đường, Tây Hoa đường, Hồ Khẩu đường tập trung cao thủ gấp rút đuổi về phía tây bắc. Truyền ám kim lệnh trong giang hồ, bất kỳ ai bắt được người trong hình vẽ do Chu gia cung cấp và món đồ mà kẻ đó mang theo, đều thưởng ngân phiếu mười vạn. Không phân sống chết, chỉ cần xác nhận đúng là được.

Sau khi sắp đặt xong xuôi, Chu Chân Mệnh mới kín đáo thở ra một hơi, song trong hơi thở ra, hắn nhận thấy có chút vị tanh tanh ngòn ngọt. Hắn đã bị nội thương! Thở kiểu quy tức liên tục suốt ba ngày ba đêm đã khiếp khí đục lắng đọng không tán, cản trở huyết mạch lưu thông. Sau đó thoắt kinh hãi, thoắt nghi ngờ, thoắt phẫn hận, càng khiến kinh mạch rối loạn, khí Đạo gia và khí sát phạt xung đột lẫn nhau, dục vọng truyền thế và tĩnh định thanh tu đối chọi dữ dội. Vô số cảm xúc và dục vọng đã nén nhịn, đã đào sâu chôn chặt tận đáy lòng đến một lúc nào đó rồi sẽ bùng phát và huỷ diệt, đó chính là tẩu hoả nhập ma. Chu Chân Mệnh dự cảm, thời khắc này đã đến rất gần.

-Thông báo với các đường khẩu ở nước ngoài, mau đưa Ngộ Tâm về đây! Đã đến lượt nó phải đảm đương trong trách! – Lúc này, Chu Chân Mệnh chợt nhớ tới đứa con trai đã bị hắn đuổi ra nước ngoài du học – Chu Ngộ Tâm.

Chu gia đã ba đời độc đinh, song đứa con trai duy nhất của Chu Chân Mệnh lại là một quái thai, thường ngồi đờ đẫn như đá, ba ngày mới thốt được một lời, song toàn là lời ngỗ ngược. Kỳ lạ là lời tuy ngỗ ngược, nhưng thường đã nói là đúng, dường như nhìn thấy được suy nghĩ của người khác. Mẹ của Chu Chân Mệnh nói rằng đứa trẻ này được trời phú cho năng lực dị thường, nên Chu Chân Mệnh bèn phái vài cao thủ kiệt xuất đưa cậu con ra nước ngoài du học, nhằm bồi thưỡng và rèn luyện thêm cho hắn.

Ba gò đất cao lừng lững giờ đã biến thành một bãi lầy la liệt xương khô. Gió thổi bùn loang, bãi lầy mau chóng đã bị đất vàng phủ kín. Những gì từng có ở phía dưới sẽ không bao giờ còn có thể tái hiện chốn nhân gian, chúng đã hoà thành một thể với vùng hoàng thổ mênh mông, mãi mãi là một câu đố không lời giải, một truyền thuyết ly kỳ đến khó tin cho những thế hệ sau.

Trong “Tuỳ tỳ ký sự - Tứ táng” có chép:”...Dương Tố tàn sát khắp bốn phương, nhìn máu tanh xương thối như nhìn cao lương mỹ vị, uy phong lấn át cả hoàng đế. Mắc bệnh đột ngột mà qua đời, Tuỳ Văn Đế sợ Dương Tố tính hung, tin lời thầy cúng, ban quan tài chôn kín, chọn vùng Tây Bắc cách đó hơn ba trăm dặm, đắp thành ba gò, bố trí trong mộ không rõ...”

Trong “Tuỳ đế dã sử” có chép: “...Thường ban táng là nhằm trấn áp hung hồn, ổn định đế khí, chọn nơi hiểm ác hoang vu, cho vào quan tài chì treo lên, đưa vào mộ dưới đất mà không cho gần khí đất. Táng theo cách này có nhiều người như Dương Tố, Đậu Phương Thạch, Lý Dực...”

Đại tướng triều Tuỳ là Dương Tố chinh chiến sát phạt nhiều nơi, bình định vô số cuộc bạo loạn của dị tộc và chiến tranh vùng biên cương, được mệnh danh là hung tướng đệ nhất cổ kim, sau khi chết được hoàng đế nhà Tuỳ ban táng. Thế nhưng mê cung Xương gãy lại do Thiên Canh đạo phủ đời Đường sáng tạo nên, không ăn nhập với quan tài triều Tuỳ, nên giả thiết này lại là một câu đố chưa tìm ra lời giải.

Thổ bảo không còn dấu vết, có lẽ đã thực sự biến thành linh khí một phương, ban phúc trạch cho sinh linh vô số.

Thị trấn Tịch Dương.

Tại giao lộ phía tây của thị trấn có một khối đá đỏ tròn trịa nổi lên, rất giống một vầng dương đang lặn xuống chân trời, bởi vậy thị trấn mới được đặt cho cái tên này.

Thị trấn rất rộng, cửa hiệu san sát, nghề gì thức gì cũng có. Trên phố người qua lại nhộn nhịp như mắc cửi, mức độ phồn vinh không thua kém bất cứ một thị trấn lớn nào ở vùng Quan Nội. Nơi đây là trạm dừng chân quan trọng của đám thương nhân và hành khách qua lại vùng Tây Tạng, bởi vậy cũng là chốn nhộn nhạo xô bồ, đủ thứ rác rưởi tạp nham, hạng người nào cũng có.

Có ba băng đảng kiểm soát thị trấn này. Một là đám thương nhân phá sản tứ xứ lưu lạc tới đây, gọi là băng Hộ Thương, đa phần giỏi dùng súng ống thuốc nổ. Hai là băng mã tặc tới từ Quan Nội, gọi là đội kỵ mã Đại Tước Đầu, phần lớn là đao khách cao thủ. Ba là băng Cao Bao Tử, đa phần là người Tây Tạng. Bang này vô cùng quái đản, không những công phu võ nghệ kỳ quái, mà còn có đủ ngón độc dược, cổ trùng, mê hoặc, thú dữ, nên rất khó nhằn.

Đám Lỗ Nhất Khí chạy thoát khỏi ba gò đất đã được sáu ngày, nhưng vừa mới lộ diện ở thị trấn này, toàn bộ người trong thị trấn đều đã biết rõ.

Song đám Lỗ Nhất Khí lại không hề để tâm đến việc giấu giếm hành tung, mà nghênh ngang bước vào một quán rượu lớn ở trung tâm thị trấn, ăn cơm, uống rượu sôi nổi, chơi tửu lệnh ầm ĩ. Bọn họ bao nguyên gian phòng trên tầng hai quay mặt ra đường phố, nên có thể dễ dàng quan sát ngã tư với đường đông tây rộng, đường nam bắc hẹp trong thị trấn.

Hưng phấn nhất trong đám người chính là lão mù, bởi lẽ từ thị trấn Tịch Dương đi về phía bắc khoảng một trăm dặm sẽ đến nhà lão. Trong khi hành trình tiếp theo của bọn họ chính là ra khỏi cửa tây của thị trấn, đi chếch lên phía bắc. Như vậy, chỉ khoảng một ngày nữa, lão đã có thể gặp lại vợ con. Nửa năm rồi chưa gặp mặt, lão đã nhớ đến thắt gan thắt ruột.

Trầm tĩnh nhất là lão Lợi. Mái tóc tuy bụi đất bám tầng tầng lớp lớp, song vẫn được chải vuốt gọn gàng, không mảy may rối loạn, nụ cười trên mặt vẫn chỉnh chu như cũ. Mỗi lần nâng chén, lão chỉ khẽ nhấp môi một ngụm nhỏ, bộ dạng hết sức nhàn nhã ung dung. Lão vui cũng phải thôi, ngay trên đường tới Lạc Dương, Lỗ Nhất Khí đã dùng cảm giác siêu phàm tìm ra được vài hầm mộ cổ, quật lên vô số món hời cho mọi người chia chác. Lỗ Nhất Khí còn nhường cho lão Lợi cả phần của cậu, và lão đã nhờ tiêu cục gửi toàn bộ số của cải đó về nhà. Lão Lợi biết, từng đấy thứ dư sức cho con gái lão và hai đứa cháu ngoại sống đầy đủ cả đời. Lỗ Nhất Khí hành động như vậy đã giúp lão không còn lo nghĩ, quyết tâm ở lại dốc hết sức lực giúp đỡ cậu.

Còn Hứa Tiểu Chỉ lại tìm đến hiệu đồ cổ đổi toàn bộ những thứ hắn được chia chác thành ngân phiếu. Hắn chỉ có một thân một mình, đi tới đâu cũng chỉ cần bản thân ăn ngon mặc đẹp là được. Hơn nữa, hắn cảm thấy chỉ cần đi theo Lỗ Nhất Khí, đừng nói là ăn ngon mặc đẹp, không chừng còn gom được cả núi bạc, núi vàng cũng nên.

Còn vài người nữa, vốn dĩ Lỗ Nhất Khí không hề quen biết, song bọn họ đều có được một kỹ nghệ nào đó trong Lục công của “Ban kinh”. Hơn nữa, căn cứ vào sự hiểu biết của họ đối với kỹ nghệ của Lỗ gia, có thể khẳng định, những người này chắc chắn là bạn bè hoặc trợ thủ của Lỗ gia.

Hán tử gầy đen với chiếc roi ngựa cán dài dựng bên mình tên là Biện Mạc Cập, người Tứ Xuyên, là thủ lĩnh cầm đầu chuỗi cửa tiệm xe lớn Vượt Núi ở vùng Xuyên Tây, đánh xe rất giỏi, sử dụng roi rất hay, còn có tài phân biệt ngựa tốt, phục đất nghe âm thanh.

Sở dĩ Biện Mạc Cập có liên quan tới Lỗ gia, là vì thuở nhỏ nghịch ngợm, to gan lớn mật, một mình dám vào hang Cửu Khúc chứa quan tài ở núi Linh Long chơi. Kết quả là lạc đường, suốt nhiều ngày trời không tìm thấy đường ra. May mà lúc đó Lỗ Thịnh Nghĩa đang tới tây nam tìm kiếm manh mối, vốn là người nhiệt tình, hay giúp đỡ kẻ khác, ông đã dẫn cha mẹ Biện Mạc Cập cùng họ hàng thân thích, dùng chỉ ngũ sắc nhận đường đi, tìm được Biện Mạc Cập. Để cảm tạ ân đức cứu mạng của ông, Biện Mạc Cập đã thu nhận kỹ nghệ Định cơ trong “Ban môn”, đồng ý trợ giúp Lỗ gia hoàn thành đại sự.

Tay thị vệ béo trắng đã quẳng bỏ bộ trang phục thị vệ không hợp khổ người từ lâu, giờ đang khoác trên mình một tấm áo mỏng màu đen bóng mỡ, đeo chéo vai một tay nải vải dầu. Gã là một tay đồ tể khét tiếng, thành thạo đao pháp Tích hào, tên gọi Dương Tiểu Đao.

Cha của Dương Tiểu Đao cũng là đồ tể. Một năm, trong lúc hai cha con hắn giết bò dưới chân núi Tây Hoàng, không cẩn thận để máu bắn vào tượng Phật, kết quả đã bị một tăng nhân lang thang yểm chú sát sinh, thấy máu liền chóng mặt, cầm dao liền đau đầu. Đồ tể mà không cầm được đao, không nhìn nổi máu, coi như cả nhà đã tuyệt mất đường sống. May nhờ Lỗ Thịnh Hiếu đã xin về được một tờ thiếp “Ba cõi luân hồi” từ chỗ đại sư Niết Hồi chùa Phật Tuyền núi Nghiêu Sơn, tuy chỉ giải trừ được chú sát sinh cho Dương Tiểu Đao, song khác nào đã làm ơn cho cả nhà gã. Bởi vậy, Dương Tiểu Đao đã tiếp nhận kỹ pháp Cố lương trong Lục công, thề rằng sẽ dùng cả tính mạng để trợ giúp Lỗ gia hoàn thành đại sự.

Ngồi cạnh Dương Tiểu Đao là một gã người Hồi, chừng ba mươi tuổi, mặt mũi trắng trẻo thanh tú, nom rất sáng sủa ưa nhìn. Một điểm rất thu hút sự chú ý trên người hắn là chiếc nhẫn lớn đeo trên ngón giữa tay trái, đó là chiếc nhẫn Thương long thôn nguyệt[35] đầu đuôi nối liền. Chiếc nhẫn đã được cọ xát đến sáng bóng, ngay cả người ngoại đạo cũng có thể nhận ra đây là món cổ vật có niên đại rất lâu đời. Người này là bạn thân của Dương Tiểu Đao, họ Niên, làm nghề bán bánh cắt[36], nên quen gọi là Niên Thiết Cao. Người ở thị trấn Tây An đều biết tới bài vè “Niên bánh cắt, không cần dao; tay vừa dang, bánh đứt vèo; mua bao nhiêu, cắt bấy nhiêu”. Tức là khi hắn bán bánh cắt, không dùng dao để cắt, chỉ cần dang hai tay rồi một kéo một siết, miếng bánh sẽ lập tức bị cắt rời, giống như cánh tay của gã mắt đỏ trong mê cung Xương gãy. Bí mật thực sự chính là chiếc nhẫn trên tay hắn. Đó là một món vũ khí quái dị xuất hiện từ cuối thời Nguyên, có tên là “tằm lửa cuộn bụng rồng”, trong ruột chiếc nhẫn có giấu một cuộn tơ tằm lửa Diệm Hồ, bền hơn sắt thép, sắc như đao kiếm, có thể co rút tự do trong chiếc nhẫn.

Niên Thiết Cao và Lỗ gia vốn chẳng có dây mơ rễ má gì với nhau, song hắn lại có mối giao tình vô cùng đặc biệt với Dương Tiểu Đao. Bọn họ thân thiết từ thuở nhỏ, tình cảm rất mực keo sơn. Dương Tiểu Đao đi đâu, hắn theo tới đấy. Dương Tiểu Đao gặp mười phần nguy hiểm, hắn sẵn sàng gánh bớt đến bảy phần.

Gặp được mấy cao thủ này cũng là chuyện bất ngờ, nhưng khiến Lỗ Nhất Khí phải bất ngờ đến khó tin, đó là khi đến trại Mười Tám Dặm, đã gặp lại hai kẻ từ cõi chết trở về.

Người thứ nhất là lão già Mạc Thiên Quy. Đêm đó trên sống núi đóng băng tại khe Long Môn, lão đã vung kiếm chống cự đám mây thiết ưng khổng lồ, bị quật văng xuống vách núi sâu thăm thẳm. May sao trên vách núi vẫn còn những cột nhũ băng do nước suối chảy từ trên sống núi xuống kết thành, khiến lão có chỗ để đâm kiếm vào, giảm bớt tốc độ rơi, biến rơi thành trượt. Tuy kinh mạch, phủ tạng bị thương trầm trọng, song tính mạng vẫn được bảo toàn.

Sau khi bị trọng thương, Mạc Thiên Quy vẫn gắng gượng chạy khỏi khe Long Môn, lần đến Thương Châu, tìm tới chỗ Dịch Huyệt Mạch nhờ ông ta chữa trị, lại thỉnh cầu ông ta đi cùng mình tới phía tây. Dịch Huyệt Mạch chính là vị thầy lang phong thái cao nhã đã dùng kim bạc tấn công Chu Chân Mệnh trong mộ thất. Gia đình ông ta cũng từng chịu ơn đức của Mặc gia, nên đã khảng khái nhận lời Mạc Thiên Quy, cùng tiến về tây.

Người chết trở về thứ hai còn ly kỳ hơn nữa, chính là Quỷ Nhãn Tam. Có điều không ai có thể nhận ra hắn nữa. Bộ mặt của hắn lúc này đã chẳng khác gì quỷ sứ dưới âm ti.

Trên đường tìm kiếm Kim bảo phía bắc, vì cứu Thuỷ Băng Hoa, hắn đã rơi xuống khe nham thạch sâu hoắm. May sao những cú quẫy đạp kịch liệt trong khi rơi xuống đã khiến hắn rớt trên một mấu đá chìa ra ngay bên cạnh lớp nham thạch sôi sùng sục.

Tuy cả trái núi đã lún sâu xuống đất, song khe nứt trong lòng núi vẫn chưa bị phủ lấp hoàn toàn, nên đã hình thành một lỗ hổng cực lớn. Lỗ hổng này đã cung cấp đủ dưỡng khí cần thiết cho hắn duy trì sự sống. Nhờ vào công phu đào bới siêu phàm và chiếc xẻng lưỡi cày sắc bén vô song do Nhậm Hoả Cuồng rèn cho, hắn đã đào được một đường hầm thông ra ngoài, trở về cõi sống.

Song chuyện ở đời thường là được cái này mất cái kia. Tuy tính mạng được bảo toàn, nhưng nhiệt độ cực cao của nham thạch nóng chảy truyền qua đất đá đã khiến Quỷ Nhãn Tam mặt mũi biến dạng hoàn toàn, cơ thể chằng chịt những vết sẹo ghê rợn.

Tuy tướng mạo của Quỷ Nhãn Tam đã bị huỷ hoại khủng khiếp, song Lỗ Nhất Khí vẫn nhận ra hắn, bởi lẽ trên người hắn vẫn còn viên đá Thi khuyển, bởi lẽ trên mặt hắn vẫn còn con mắt Thi Vương. Hơn nữa, đá Thi khuyển sau khi bị nhiệt độ cao hun đốt, thi khí càng thêm dữ dội; con mắt Thi Vương sau khi bị khí nóng xông tẩy, càng thêm rừng rực hung quang.

Chính nhờ sự xuất hiện của Quỷ Nhãn Tam, Lỗ Nhất Khí mới khẳng định được mối hoài nghi của mình đối với Nghê Thất. Cũng vì tập hợp được số lượng cao thủ hùng hậu, nên cậu mới đủ tự tin lợi dụng Nghê Thất để giăng ra một cạm bẫy lớn dụ Chu Chân Mệnh vào tròng, lừa lấy đi bảo bối giết rồng của Chu gia.

Lúc này, Quỷ Nhãn Tam đang một mình ngồi thu lu tận góc phòng, với một bình rượu, một đĩa thịt. Tấm áo choàng đen của hắn giờ trùm kín mít cả đầu mặt, chỉ để hở mũi miệng và một con mắt. Hắn e ngại làm người khác phải khiếp sợ, cũng lo rằng bộ dạng của mình sẽ khiến mọi người không nuốt nổi thứ gì.

Song Mạc Thiên Quy lại không thấy đâu. Thầy lang Dịch Huyệt Mạch mà lão dẫn theo cũng không có mặt.

Cũng không nhìn thấy phó quan Ngô và đám thị vệ của phủ đại soái. Sau khi thoát khỏi ngôi mộ giam hồn dưới lòng đất, Lỗ Nhất Khí đã phân phát cho phó quan Ngô và đám thuộc hạ của ông ta hơn chục món đồ cổ để xua bọn họ đi trước, dặn bọn họ dãy tới đồng cỏ Tát Nguyệt Ngạch trên núi Cổ Mã tiếp giáp với vùng Xuyên Tạng, còn mình tìm cách cắt đuôi đám tai mắt của Chu gia xong sẽ đi vòng qua đất Tạng vào đất Xuyên, hẹn gặp lại nhau tại đó. Đồng cỏ kia chính là địa bàn của Biện Mạc Cập, ở đó có người đàn bà goá quản lý đàn ngựa tên là Bán Sơn Lam, chính là nhân tình của Biện Mạc Cập.

Lỗ Nhất Khí không uống rượu, cậu chỉ uống một bát trà bột mạch, ăn hai chiếc bánh bột mì kẹp thịt, sau đó ngồi ngả lưng trên chiếc ghế gỗ hoàng dương bọc vải, im lặng quan sát đám người từng vào sinh ra tử với mình. Lúc này đây, trong lòng cậu tràn ngập một niềm hân hoan xen lẫn xúc động. Trong những thứ cậu được kế thừa từ các bậc tiền bối Lỗ gia, thứ giá trị nhất lại không phải là “Ban kinh”, Lộng phủ, mà chính là những mối giao tình vượt qua sống chết kia.

-Cậu cả, móng cứng rõ tiếng! – Lão mù nuốt vội đám thịt rượu xuống cổ, lên tiếng.

-Đường phía tây có hơn hai mươi kỵ mã, đường phía đông có ba mươi kỵ mã trở lên. – Tài nghệ phục đất nghe âm thanh của Biện Mạc Cập có thể nhận biết chính xác chủng loại súc vật, muông thú từ rất xa, hơn nữa, còn nghe ra được số lượng và khoảng cách của chúng; dù là những loài muông thú chưa từng biết đến, hắn vẫn có thể nhận ra kích thước và trọng lượng. Còn như đám ngựa đang chạy trên đường lớn lúc này, hắn không cần phải nằm phục sát đất, chỉ cần dỏng tai lên cũng đã nhận ra số lượng.

-Không phải ta đang nói đến đội ngựa. Trong cửa hàng đối diện và trong căn phòng bên cạnh đều có tiếng va đập và rung động của vũ khí rút khỏi vỏ. – Thính giác của lão mù quả thực không ai bì kịp, lão có thể nhận ra nhiều thứ âm thanh hơn Biện Mạc Cập.

-Dưới lầu cũng có đao khí ngùn ngụt! - Cảm giác về đao khí của lão Lợi vốn mẫn cảm vô song – Là muốn chặn đường rút lui của chúng ta.

Dương Tiểu Đao giơ ngón cái về phía lão Lợi tỏ ý thán phục, rồi quay đầu nhìn Niên Thiết Cao nở một nụ cười ngây ngô.

Tuy đã xuất hiện biến cố bất thường, song cả đám người vẫn ăn uống rôm rả, chén chú chén anh, cứ như không có chuyện gì xảy ra.

Chú thích

[35] Có nghĩa là rồng xanh nuốt mặt trăng.

[36] Hay còn gọi là thiết cao, hay bánh matang, một loại bánh truyền thống của người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương, được làm từ đường mạch nha cùng các loại nhân hạt, ép chắc thành khối lớn, khi bán thì cắt thành từng miếng.