Mê Thần Ký

Chương 15




Nàng xấu hổ không dám túm chặt cổ áo chàng kéo về phía mình nữa, chỉ đành buông tay: “Chúng ta mau về thôi”.

Tử Hân gật đầu, đưa đèn lồng cho nàng: “Lên ngựa đi”.

“Ừm”, nàng đáp tiếng, cúi đầu ủ rũ leo lên ngựa.

Xa lạ dễ như thế đấy, chỉ thoáng cái hai người đã trở nên xa lạ rồi.

“Hắt... xì!”, vừa ngồi thẳng được, Tô Phong Nghi lại hắt hơi.

Tử Hân cởi áo khoác ngoài ném cho nàng.

Nếu như đấy là quan tâm, vậy thì động tác này của chàng có chút dã man. Nếu như không quan tâm, vậy tại sao chàng phải ném y phục cho nàng.

Nàng đón lấy áo khoác, còn chưa kịp mặc vào, mũi lại thấy chua chua, không nhịn nổi hắt hơi thành tràng về phía chiếc áo.

“Khăn tay của muội ướt rồi”, nàng cầm cái áo quẹt mũi, líu ríu nói.

Tử Hân nhíu mày, rồi thở dài. Chàng tổng cộng có hai chiếc áo ngoài, chỉ đành cởi nốt chiếc áo màu sáng trắng bên trong ném qua cho nàng.

Mặt Tô Phong Nghi chợt đỏ bừng.

Chàng chỉ mặc có hai cái áo, sau khi đưa hết cho nàng, chàng bỗng trở thành mình trần giống như bọn say rượu. Không khí lạnh lẽo, sương đêm ẩm ướt, trên mặt đất còn ẩm ướt nước mưa. Cái người ở trần này, một tay chống trượng, một tay dắt ngựa, đầu ngẩng ngực ưỡn, ung dung nhàn nhã đi trên phố lớn, thần thái thản nhiên cứ như trạng nguyên đi trong vườn quỳnh. Chàng có một khuôn mặt gầy, da thịt trên người đã khác xa với thuở hai người mới gặp, không còn nhẵn nhụi trắng trẻo nữa mà lộ rõ dấu vết dày dạn gió sương. Thân thể chàng tráng kiện hơn rất nhiều so với nàng tưởng tượng, nhưng vẫn gầy guộc, hai tay dài mà đẹp, đã từng đánh nhau với người khác nên trên vai có vài vết đao chém nông nông.

“Mặc y phục vào đi, lạnh lắm đấy”, Tô Phong Nghi thủ thỉ nói.

“Không lạnh.”

Bất kể trông thế nào, chàng vẫn cứ như một đứa trẻ. Tô Phong Nghi ngồi trên lưng ngựa say sưa ngắm nhìn chàng, vĩnh viễn nhớ bộ dạng Tử Hân an ủi mình khi xưa: Rõ ràng là lúng ta lúng túng nhưng vẫn giả như cực kỳ bình tĩnh. Đeo bộ mặt nghề nghiệp lên, chàng giống như một thầy thuốc chăm chú nhìn người bệnh đang trong cơn đau đớn, miệng thì lầm rầm nói ra bao nhiêu lời dối gian dịu dàng, tựa như bản thân là một tấm lưới vô hình, mỗi khi tử thần muốn xuyên qua đều phải lưu lại một làn khí đen.

Có lẽ khí đen quá nhiều cho nên kể cả lúc vui vẻ, chàng vẫn ưu tư thấy rõ, mi mày khẽ nhíu, dáng vẻ khổ não.

Tử Hân không dễ gì mà vui vẻ, Tô Phong Nghi than thầm trong lòng.

Tiến vào khách điếm, dắt ngựa vào chuồng, trong đại sảnh chỉ thắp hai ngọn nến nho nhỏ. Dưới ánh nến ảm đạm, Tô Phong Nghi phát hiện quần chỗ đầu gối Tử Hân có một vết máu to bằng lòng bàn tay.

Nàng hoảng hốt kêu: “Tử Hân, huynh bị thương rồi?”.

“Không sao, vết thương vặt thôi”, chàng không để tâm, vẫn tiếp tục đi.

“Không phải vết thương nhỏ, để muội xem nào”, nàng giữ lấy tay chàng, đưa tay sờ lên đầu gối chàng. Cách lớp quần, nàng vẫn có thể sờ thấy chỗ đầu gối rõ ràng lõm vào một khoảng, bên trên được băng bó, máu từ trong không ngừng thấm ra.

Thân hình nàng chấn động, sắc mặt tái nhợt nhìn chàng, run giọng: “Huynh... huynh đem xương bánh chè của mình cho... thiếu niên kia!”.

Chàng hất tay nàng, lạnh lùng hỏi: “Việc này có liên quan gì tới cô?”.

“Không... không có, nhưng mà...”, nàng há hốc miệng, không biết nói gì, chỉ cảm thấy hai mắt chua xót, con tim đau đớn.

“Muội mệt lắm rồi, đi ngủ đi”, chàng lạnh lùng buông một câu rồi bước lên lầu.

Đi được hai bước, nàng đột nhiên ngẩng mặt, buột miệng nói: “Chuyện này có liên quan tới muội”.

Tử Hân dừng chân, quay người hỏi: “Có liên quan? Liên quan gì?”.

Nàng nghe thấy bản thân mình nói: “Cái chân ấy không phải của huynh”.

“Không phải của ta? Lẽ nào là của cô?”, cho rằng nàng cố ý trêu đùa, Tử Hân nhíu chặt mày, trừng mắt nhìn vào mặt nàng, ánh mắt âm trầm.

“Đương nhiên là của muội, trên đó có ký hiệu của muội”, nàng lại nhìn chàng không chớp mắt.

Trên cái chân tàn phế đó đầy những vết dao lưu lại sau khi phụ thân làm phẫu thuật. Bao nhiêu năm nay, chàng vốn không bận tâm đến sự tồn tại của nó mà coi cái trượng mới là chân của mình.

Nếu quả thật phải tìm một cái gì hay ho trên cái chân ấy, thì đó chính là vết xăm chích hình xoáy màu xanh trên mắt cá chân.

- Qua nhiều năm nữa, đợi khi muội lớn rồi, liệu huynh còn nhớ tới muội không?

- Khó nói...

- Thế thì huynh phải nhớ cái xoáy này, được không?

Cuối cùng thì cũng nhớ lại, trầm mặc hồi lâu, chàng hỏi: “Là cô?”.

Tiểu nha đầu sáu năm trước gặp ở Đông Đường trấn.

Đó chỉ là một lần gặp gỡ ngẫu nhiên, tên gọi và tướng mạo của nàng, chàng sớm đã quên sạch. Sau này chàng còn gặp được mấy tiểu nha đầu giống như thế, chẳng có ai lưu lại bất cứ ấn tượng nào trong đầu chàng. Chỉ có mỗi lần tắm gội, nhìn thấy cái xoáy này, chàng mới nhớ lại từng có một tiểu nha đầu thô lỗ, chẳng biết chào hỏi lấy nửa câu lại cứ thế chích lên chân mình một thứ hình cổ quái.

Tô Phong Nghi khẽ cười: “Huynh nhớ lại chưa?”.

Đương nhiên Tử Hân đã nhớ ra, nhưng vẫn cảm thấy tức tối: “Cô không thể tuỳ ý chích chữ lên thân thể người khác, xét cho cùng tôi không phải là một món đồ cổ”.

“Lúc ấy muội chỉ là một đứa tiểu nha đầu...”

“Tuổi tác nhỏ không phải là lý do để làm chuyện xấu.”

“Bất kể huynh nói thế nào, thứ gì là của muội, thứ ấy là của muội”, nàng bắt đầu không nói lý lẽ: “Bây giờ muội muốn huynh làm phẫu thuật, lấy xương bánh chè ở chân muội đặt vào cái chân ấy.”

Chàng căn bản chẳng thèm để ý tới hành vi càn quấy của nàng, hỏi: “Cứ muốn thỉnh giáo mãi, cái xoáy ấy có ý nghĩa gì? Trên người đầy tớ nhà cô có phải đều chích hình xoáy không?”.

“Cái xoáy đó”, nàng cắn môi nghĩ rất lâu cũng không nghĩ ra ý giễu cợt của chàng, ngược lại còn thật thà giải thích: “Có nghĩa là số phận”.

“Có muốn biết lý giải của tôi về nó không?”, chàng chợt hỏi.

Tô Phong Nghi mở to mắt, gật đầu thật mạnh.

“Không phải là số phận, mà là tự tạo đa tình... Những loại chuyện này cô ít làm đi thì tốt hơn.”

Lạnh lùng quẳng lại câu ấy, chàng thản nhiên đi qua nàng, chậm rãi lên lầu rồi biến mất sau cánh cửa phòng mình.

Tay nàng vẫn ôm y phục của chàng; trên người vẫn đang khoác chiếc áo của chàng. Toàn thân lạnh toát, nàng đứng nguyên bất động, che y phục lên mặt, nước mắt trào ra, tấm áo thoáng cái đã mất một mảng lớn.

Nàng cứ che mặt đứng khóc mãi, một lúc lâu sau, có người vỗ vai nàng, nàng ngẩng mặt nhìn, thì ra là Đường Hành.

“Xảy ra chuyện gì? Mà lại đứng đây đau lòng một mình?”, hắn dịu giọng hỏi.

“Không... không có chuyện gì”, nàng cố kìm nước mắt, nước mắt lại không ngừng trào ra.

“Nào, ngồi xuống”, hắn lấy cho nàng một cái ghế, lấy bức tượng gỗ nho nhỏ màu đen trong ngực ra, đặt vảo tay nàng: “Không muốn nói với ta thì đem hết phiền não nói với A Thanh đi. A Thanh sẽ bảo vệ muội”.

Tay của nàng ướt đẫm nước mắt: “A Thanh là thần của huynh, sẽ chỉ bảo vệ huynh. Hu hu... Không ai bảo vệ muội, không ai chịu bảo vệ muội. Bất kể muội làm cái gì cũng đều sai cả... Hu hu hu...”.

Nàng nghẹn ngào nói, càng nói càng thương tâm.

“Nếu muội nhỏ nước mắt vào mắt A Thanh, người sẽ nhìn thấy muội. Thật đấy.”

Nàng quệt mắt, đặt bức tượng vào tay nhìn kỹ: “Tại sao hình dáng của A Thanh lại là con ếch?”.

“Là hồi nhỏ tỷ tỷ ta tặng đấy. Tỷ tỷ khắc cho mỗi người một cái, Tử Hân cũng có nhưng huynh ấy làm mất lâu rồi, chỉ có ta cảm thấy nó rất linh nghiệm, một mực giữ gìn.”

“Thì ra huynh còn có tỷ tỷ.”

“Đúng thế, ta có hai tỷ tỷ. Một người là A Sảng, người kia là Tử Duyệt.”

“Muội có bốn tỷ tỷ, hai muội muội, còn có tám ca ca... Không ai thân thiết cả.”

“A Thanh muốn ta giúp muội, muội có tâm nguyện cứ nói với ta.”

“Muội thích Tử Hân. Hu hu hu...”, tiếng nàng rất nhỏ, nhỏ như tiếng muỗi vo ve.

“Ta cầu nguyện giúp muội nhé”, hắn đặt A Thanh lên môi, hôn nhẹ một cái rồi nắm trong tay, nhắm mắt lại, lầm rầm cầu khấn.

Không biết là do lời khấn của Đường Hành có hiệu nghiệm, hay là khóc mệt rồi, cuối cùng Tô Phong Nghi cũng bình tĩnh lại, nhớ tới Khinh Thiền, không nhịn được hỏi: “Khinh Thiền khoẻ hơn chút nào chưa?”.

“Tử Hân tới khám cho cô ấy rồi... Huynh ấy bảo tối nay phải làm phẫu thuật cho cô ấy.”

“Huynh... huynh vẫn luôn ở bên tỷ ấy?”

“Ừm.”

“Tỷ ấy có tỉnh lại không?”

“Tỉnh lâu rồi.”

“Muội đi thăm tỷ ấy... Trời cũng sắp sáng rồi”, nàng đứng dậy.

“Đừng đi, Tử Hân đã dặn rồi, lúc làm phẫu thuật không thể làm phiền. Ta ở bên cạnh vốn cũng có thể giúp huynh ấy một chút nhưng tới cả ta huynh ấy cũng đuổi ra.”

Tô Phong Nghi đột nhiên biến sắc: “A Hành, bất kể Tử Hân không hài lòng thế nào, muội cầu xin huynh vào đó với Khinh Thiền, được không?”.

Đinh Hành hỏi: “Tại sao?”.

“Huynh nói xem, liệu Tử Hân có moi mắt của mình ra ghép cho tỷ ấy không?”, nàng lo lắng hỏi.

“Không thể. Mắt nếu bị móc ra thì không thể ghép lại, chứ đừng nói là ghép lên người khác.”

“Thật sao? Chắc chắn không thể?”

“Chắc chắn không thể.”

Tô Phong Nghi nghi hoặc nhìn Đường Hành. Không biết vì sao, cùng là một câu, nếu do Tử Hân nói ra, nàng sẽ tin tưởng ngay; nhưng là Đường Hành nói, nàng sẽ thấy khó mà tin được. Tuy nàng biết Tử Hân chỉ là một giang hồ lang trung, còn mẫu thân của Đường Hành lại là Diêu Thú Quan Âm Ngô Du danh tiếng lẫy lừng, là đệ tử đắc ý của thần y Mộ Dung. Cho dù hắn chưa từng chăm chỉ học y thuật, mắt thấy tai nghe nhiều rồi, lời nói ra cũng chẳng thể sai quá nhiều được.

Nàng cảm thấy có chút lỳ lạ, tại sao bản thân lại có ý nghĩ trái khoáy ấy. Cho tới khi nàng ngẩng đầu nhìn lại Đường Hành, nhận ra Đường Hành đang chăm chú ngắm lông mày của mình, hình như đang nghiên cứu hình dáng của mi mày.

Nàng đột ngột ngộ ra.

Bởi vì từng hành vi cử chỉ của hắn, quá giống nữ nhân.

Tiềm tàng dưới cái phán đoán này là những ám thị không nói rõ ra được nhưng ai ai cũng nghĩ thế, cũng cho rằng như thế: Ví dụ như, nam nhân phải ra dáng nam nhân. Nam nhân mà giống nữ nhân, nam nhân ấy chắc chắn có vấn đề. Lại ví như, lời một kẻ có vấn đề, không thể cho là thật, cũng không đáng tin.

Hình như đã chú ý tới sự nghi hoặc của nàng, Đường Hành cười hỏi: “Sao muội cứ nhíu mày nhìn ta chằm chằm mãi thế?”.

“Muội mà nhìn huynh chằm chằm à?”, nàng xoa đôi mắt sưng đỏ.

“Lẽ nào trên mặt ta có chỗ nào kỳ quái?”

“Kỳ quái không phải là huynh”, Tô Phong Nghi nói: “Cái kỳ quái là mắt của muội”.

“Đừng có dùng mắt để nghĩ, phải dùng cái đầu”, Đường Hành nhẹ giọng nói.

...

Tô Phong Nghi dùng thời gian còn lại của đêm đó khâu ba cái bịt mắt.

Từ lần đầu tiên gặp Thẩm Khinh Thiền, Tô Phong Nghi đã cho rằng Thẩm Khinh Thiền là một nữ nhân không cần phải có nam nhân chăm sóc. Tính khí của nàng không phụ thuộc vào yêu ghét của kẻ khác, tự tin tới mức gần như ngang tàng, trên mặt nàng lại như viết rõ bốn chữ “tự cung tự cấp”. Một nữ nhân không dễ dàng bị ánh mắt của nam nhân khống chế, làm ngơ với những lệ ngầm của thế tục, nếu tính toán tỉ mỉ hai chữ hy sinh thì nàng có nhiều hơn một phần tự do so với nữ nhân khác.

Cho nên, bất kể Thẩm Khinh Thiền cao ngạo tựa như một vị nữ hoàng trong tổ ong vò vẽ, khí thế trên người khiến cho những người xung quanh ngấm ngầm thất sắc. Tô Phong Nghi vẫn không rõ vì sao mà mình ưa thích nàng. Thích thần thái khinh thường tất thảy của nàng, thích tác phong to gan lớn mật của nàng.

Có những người từng trải, cũng có những người đã từng trải qua cái người khác từng trải qua.

Khi cái người khinh thường tất thảy đột nhiên mặt mày be bét máu đi về phía nàng, hôn mê trước mặt nàng, ngoại trừ kinh sợ và phẫn nộ, Tô Phong Nghi càng cảm thấy có một thứ ảo tưởng nào đấy vừa tan vỡ. Tựa như có một ngọn roi lùa nàng ra khỏi những câu chuyện truyền kỳ trong giang hồ khiến lòng người phấn chấn, đuổi nàng vào một con ngõ hẹp u tối, tàn nhẫn, sặc mùi máu tanh.

Chất liệu làm chiếc bịt mắt rất mềm mại, có hoa văn đan chéo, phân thành ba màu xanh nhạt, tro nhạt, đen tuyền. Nàng thắp một ngọn nến nhỏ, khoanh chân ngồi trên giường vừa khâu vừa khóc, như một oán phụ phòng khuê sa vào sầu khổ, bi thương vì một tâm sự không tên. Rõ ràng là buồn cho Khinh Thiền, trong đầu lại lặp đi lặp lại toàn là những lời kia của Tử Hân khiến tim nàng đau buốt, lại còn hình ảnh chàng để mình trần, chống trượng dắt ngựa. Nàng biết, bất kể có tỏ ra lạnh lùng thế nào, lời nói có sắc nhọn ra sao, trong lòng nàng, Tử Hân vẫn rất dịu dàng, dễ bắt nạt, giống như lần đầu tiên nàng gặp chàng vậy.

Nghĩ ngợi linh tinh một hồi, bình minh đã lặng lẽ tới.

Nàng vội vàng rửa mặt, cầm lấy chiếc bịt mặt định tới thăm Thẩm Khinh Thiền thì đụng phải một người vừa vặn từ phòng Thẩm Khinh Thiền đi ra, hai người suýt nữa va vào nhau.

Không cần nhìn cũng biết là Tử Hân.

Chàng khoác một tấm áo choàng ngoài màu tro nhạt, tay cầm hộp thuốc nhỏ.

“Chào buổi sáng”, nàng nghe thấy lời chào của chàng.

Nàng vẫn đang giận câu nói kia của chàng, liền giả bộ như mình không quen biết người này, không thèm nhìn tới chàng, ngẩng cao đầu đi qua, rồi tiện tay đóng chặt cửa lại.

Rèm bên song cửa hơi hé, một tia sáng khẽ xuyên qua. Thẩm Khinh Thiền nằm im trên giường, mắt trái băng một lớp vải trắng, dưới lớp băng hình như còn có một loại thuốc cao màu đen. Mặt nàng sưng tới đáng sợ, con mắt không bị thương cũng sưng theo, dung nhan ngày thường đã mất sạch.

“Tiểu tử đó khẳng định đã đắc tội với muội rồi”, nàng mở mắt, mặt mày tái nhợt nhìn Tô Phong Nghi, cười cười.

Tô Phong Nghi ngồi xuống bên giường, đưa tay sờ trán nàng, dịu dàng hỏi: “Đau lắm phải không?”.

“Vẫn tốt, trước khi chữa có thuốc gây tê. Tử Hân vừa mới phẫu thuật xong. Hắn nói khâu xong rồi, con mắt của tỷ sẽ vĩnh viễn khép lại, giống như lúc đang ngủ.”

Dáng vẻ nàng nói rất thản nhiên, Tô Phong Nghi nghe mà trong lòng chua sót, nước mắt đã dâng đầy.

“Đừng buồn, quyết đấu luôn có thương vong. Có thể sống sót đã là không tệ rồi. Cầu nhân được nhân, tỷ không hề oán hận”, giọng nàng yếu ớt, ánh mắt ôn hòa nhưng kiên định, tựa như đây không phải là chuyện gì khó chấp nhận.

“Nhưng mà, sao mặt tỷ lại sưng tới mức này... Liệu có phải có chuyện gì không?”, Tô Phong Nghi lo âu nói: “Có cần đi khám đại phu khác không? Tử Hân chỉ là giang hồ... giang hồ lang trung, chỉ sợ đây là lần đầu tiên làm phẫu thuật như thế này. Nhỡ ra...”.

Nàng không nói thì thôi, nói ra rồi Thẩm Khinh Thiền lồm cồm bò dậy, nói: “Ta cũng lo như thế. Lúc Tử Hân vào ta còn đang hôn mê, trong lúc mơ màng uống một bát thuốc. Sau khi tỉnh lại, hắn nói với ta phẫu thuật đã hoàn thành tốt rồi. Lúc ấy ta muốn hỏi xem hắn rốt cuộc hắn có thực sự học qua y thuật không, nhưng lại sợ câu này quá đáng, không dưng khiến người ta khó chịu. Đại phu ngoại khoa có tiếng nhất trong thành Gia Định này chính là Thẩm Thác Trai, Thẩm lão tiên sinh của Hồi Xuân đường. Tỷ có mấy vị ca ca đều từng được trị bệnh ở chỗ ông ấy”.

Tô Phong Nghi vội nói: “Hay là bây giờ chúng ta đi tìm ông ấy? Nhỡ đâu Tử Hân làm sai cái gì, may ra còn sửa chữa kịp”.

Thẩm Khinh Thiền không nhịn được bật cười, véo má Tô Phong Nghi: “Quái lạ nhé, con nha đầu muội thích người ta, còn nói bất kể thế nào cũng phải gả cho hắn. Nhưng rốt cuộc lại không có lấy chút lòng tin với bản lĩnh giữ nhà của người ta, thế là làm sao?”.

“Muội chỉ là thích con người huynh ấy mà thôi.”

“Hì hì, xem ra hắn thực sự đã đắc tội với muội rồi.”

Hai nàng nghĩ rằng giờ hãy còn sớm, dưới lầu chắc sẽ không có ai, xuống lầu rồi mới thấy Quách Khuynh Quỳ.

Thẩm Khinh Thiền dựa vào vai Tô Phong Nghi, thấy Quách Khuynh Quỳ, vội vàng cúi đầu xuống, ngón tay siết lại, không tự chủ bấm chặt vào tay Tô Phong Nghi một cái.

Tô Phong Nghi giữ chắc lấy tay nàng, nói: “Chào buổi sáng, Tuấn ca!”.

“Chào buổi sáng”, Quách Khuynh Quỳ đáp qua loa một câu, ánh mắt lại vẫn dán vào khuôn mặt Thẩm Khinh Thiền. Xem ra hắn đã đợi dưới lầu khá lâu rồi, trên mặt lộ rõ vẻ ưu tư.

Chỉ cần hai người này có mặt cùng một lúc, Tô Phong Nghi lại ngửi thấy bầu không khí căng thẳng.

“Tỷ ấy đã bị trọng thương, xin chớ nhân lúc người ta yếu đuối”, Tô Phong Nghi cảnh giác nói.

Sau đó nàng ngậm chặt môi.

Kiếm của hai người đều đeo trên lưng, không ai sờ tới chúng.

Thẩm Khinh Thiền một mực không ngẩng đầu, ánh mắt của Quách Khuynh Quỳ lại rất phức tạp.

Ánh mắt phức tạp có thể có rất nhiều hàm ý: bi thương, thống khổ, mâu thuẫn, hối hận, thương xót, phẫn nộ... trong đó chỉ thiếu có một thứ.

Thù hận.

Tô Phong Nghi im lặng nhìn hai người, lòng trầm xuống.

Qua một lúc, Thẩm Khinh Thiền chợt nói: “Phong Nghi, chúng ta đi”.

Tựa như sực tỉnh lại trong cơn trầm tư, Tô Phong Nghi đáp: “Đợi chút, muội tới quầy thuê xe trước đã”.

“Hai người ở đây đợi, xe ngựa để ta đi thuê”, Quách Khuynh Quỳ đột nhiên nói.

Nói rồi xoay người sải bước ra ngoài.

Thẩm Khinh Thiền khẽ nói tiếp: “Phong Nghi, tỷ muốn gọi Đường Hành đi cùng chúng ta”.

“Cả đêm huynh ấy không chợp mắt, vừa mới đi ngủ.”

“Vậy thì nhờ muội nhét một mẩu giấy vào khe cửa phòng hắn, nói là chúng ta tới Hồi Xuân đường, nhờ hắn tỉnh dậy thì đón chúng ta.”

“Tại sao?”

“Dọc đường có thể sẽ không an toàn”, Thẩm Khinh Thiền nhàn nhạt nói.

Tô Phong Nghi y lời viết một hàng chữ, nhét qua khe cửa phòng Đường Hành.

Có tiếng roi ngựa vọng lại, xe ngựa đã tới.

Tuy vừa sáng sớm, nhưng ngoài cửa đã tấp nập từ lâu, ánh nắng chiếu rọi vào tấm bịt mắt, Thẩm Khinh Thiền chỉ thấy một trận choáng váng, thân thể hơi run rẩy, bàn tay không tự chủ với vào không trung, với được một cánh tay cứng cáp vững vàng. Kế đó, thân thể nàng nhẹ bẫng, sau lưng đã có một bóng hình cao lớn. Một đôi tay mạnh mẽ bế nàng lên, đưa chân gạt mở cửa xe rồi nhẹ nhàng đặt nàng xuống ghế. Nàng mở mắt, dùng con mắt duy nhất nhìn hắn, môi khẽ động nhưng không nói gì.

Nàng ngửi thấy mùi rượu nồng nặc trên người hắn, nghe thấy tiếng tim đập mạnh trong lồng ngực hắn. Tay của hắn siết chặt lấy nàng, cứ như muốn ép nàng thành một đồng xu mà bỏ vào túi của mình.

Hắn ngơ ngẩn nhìn nàng, sau đó vuốt ve khuôn mặt nàng, thần sắc có chút thê lương: “Huynh ấy đã tìm thấy nàng”.

“Bọn họ cũng đang tìm huynh.”

“Huynh ấy đã có thể giết nàng.”

“Con người sớm muộn gì đều phải chết.”

“A Khinh, đừng ở đây nữa, được không?”, giọng của hắn bắt đầu run run.

“Muội cứ ở đây.”

Hắn thở dài một tiếng, không tiếp tục khuyên nữa, quay người xuống xe, đón Tô Phong Nghi đang đứng há mồm trợn mắt bên cạnh vào xe, hỏi nàng địa chỉ rồi cầm roi ngựa ngồi lên phía trước.

Tô Phong Nghi không dám tin người này là Quách Khuynh Quỳ.

...

Rượu ngon há ngại con ngõ sâu[1]. Hồi Xuân đường của Thẩm Thác Trai chẳng thể nói có nửa điểm khí thế, cũng không phải bên mặt phố, bệnh nhân ở bốn phương tám hướng đổ tới thì đã lớp kín con đường nhỏ trước cổng nhà ông ta, tới một giọt nước cũng chẳng lọt qua nổi.

[1] Tửu hương bất phạn hạng tử thâm: Ý chỉ rượu ngon hương bay xa, dù là chốn ngõ sâu vắng vẻ cũng biết mùi. Ở đây chỉ Thẩm Thác Trai là bậc danh y, tuy y đường không ở nơi hoành tráng, người bệnh vẫn biết tiếng mà tới.

Thẩm tiên sinh có một khuôn mặt tam giác, lông mày tam giác, mắt hình tam giác, lại còn cầu kỳ để một bộ râu cũng hình tam giác. Với học vấn của ông ta, vốn có thể vào triều làm ngự y, ông ta quả đích xác có cái vinh hạnh ấy. Chỉ đáng tiếc cái tính khí tam giác của ông ta lại hay phát tác, chỉ ở kinh thành có nửa năm mà đã đắc tội với hầu hết những người quen biết, khiến các đồng liêu tức điên người mà đuổi về. Về tới quê nhà, ông ta liền dựng một ngôi thảo đường, treo tóc lên xà nhà[2], lấy dùi đâm vào đùi[3], nỗ lực viết sách, chuyên tâm tìm các bậc danh tiếng trong giới hành y mà tranh luận. Phương pháp của ông ta là lần đầu tiên đọc kỹ sách của người ta một lượt, tìm cho được chỗ không ổn, sau đó dẫn chứng hùng hồn mà phê phán một trận. Nếu như một cuốn sách gọi là “Chư chứng bệnh nguyên”, ông ta sẽ viết “Chư chứng bệnh nguyên khảo”. Nếu có cuốn gọi là “Thương hàn thất luận”, ông ta liền viết “Thương hàn thất luận khảo”. Khảo bảy, tám lần, khảo cho ra kết luận cuốn sách nọ lý luận không đủ, dẫn chứng sai lầm, đơn thuốc khiếm khuyết, dược lý lệch lạc... Tóm lại, lời lẽ đanh thép, dẫn chứng xác đáng, khiến hậu sinh vãn bối đọc đi đọc lại, đến mức sợ toát mồ hôi, về sau mua sách, không ôm thêm một cuốn “... khảo” của ông ta thì không dám kê đơn.

[2] Tôn Kính thời Hán nam học, thường đọc sách thâu đêm. Khi buồn ngủ ông buộc tóc treo lên xà nhà.

[3] Tô Tần thời Chiến Quốc gắng sức học hành, khi đọc sách buồn ngủ thì lấy dùi đâm vào đùi cho đau mà tỉnh táo.

Cứ như thế phát huy, công kích cái đám ở kinh thành, thu được toàn thắng xong, Thẩm tiên sinh hùng tâm tráng trí, hưng phấn chuyển mục tiêu sang Mộ Dung Vô Phong, dự định viết một cuốn “Vân Mộng cứu kinh khảo”, ai ngờ cầm cuốn sách ấy vào tay, nghiên cứu năm năm trời mà vẫn chẳng viết nổi một chữ. Khó khăn lắm mới tìm được vài nghi vấn, chạy tới đất Thục tìm Ngô Du so đo, chỉ mới mào đầu đã bị nàng phản bác cho nhói tim buốt phổi, xương cốt long ra, ê chề xấu hổ. Nhất thời nản chí cực độ, lúc bấy giờ mới cờ im trống lặng, vùi đầu vào khám bệnh. Ông ta tay nghề tuy cao nhưng tính khí vẫn cứ không tốt, cực ghét lúc đang phẫu thuật chữa trị, bệnh nhân cứ kêu loạn xị, bèn chuyển sang làm bên ngoại khoa. Tô Phong Nghi còn chưa dìu Thẩm Khinh Thiền vào tới cửa lớn đã nghe bên trong truyền ra một tiếng gào thảm thiết, cứ như có người đang chịu cực hình tàn nhẫn, tiếp đến một giọng nói già nua bực bội thét lên: “Gào! Gào! Chỉ biết có gào loạn lên! Cho dù có gào lên cho tổ tông tám đời nhà ngươi bật nắp quan tài mà tới cũng chẳng được tích sự gì! Không có bản lĩnh thì đừng có tranh chấp với người ta, đừng có động tay động chân trêu ghẹo dân nữ, bị trượng phu người ta đánh cho một trận, chữa khỏi rồi cũng là uổng công, sớm muộn gì cũng bị người ta lôi vào đại lao đánh cho trăm trượng. Mẹ kiếp, bạc đâu? Tiểu Đinh, kẻ này đã trả tiền chưa...? Chưa? Con trai Cố viên ngoại lại không có tiền? Tiểu tử nhà ngươi lại định ghi nợ chắc? Người đâu, quăng tiểu tử này ra ngoài cho ta! Không chữa nữa!”.

Đúng lúc ấy, một tên gia đinh hấp tấp chạy vào, tay cầm ngân phiếu, hô lớn: “Thẩm tiên sinh bớt giận, Thẩm tiên sinh bớt giận, bạc ở đây... Vết thương của thiếu gia vẫn phải nhờ cả vào ngài!”.

Thấy tính tình của Thẩm Thác Trai khó chịu như thế, còn ai dám phá hoại quy củ? Tô Phong Nghi chỉ đành cùng Thẩm Khinh Thiền chờ ở hàng cuối. Còn cho rằng một trận mắng chửi của lão tiên sinh sẽ khiến cho bệnh nhân đang đợi sợ hãi biến sắc, ai ngờ người nào người nấy mặt tỉnh như không, đều lộ vẻ cam chịu, chuẩn bị chịu nạn, Tô Phong Nghi không nhịn được hỏi Thẩm Khinh Thiền: “Tỷ có sợ không? Cái vị Thẩm tiên sinh này tính khí rất xấu... So với Tử Hân còn hơn ấy”.

“Người tài cao không khỏi kiêu ngạo, có chút tính xấu cũng thông cảm được. Huống chi, tỷ sẽ chẳng kêu gào loạn lên đâu.”

“Tuấn ca không tới đi cùng chúng ta sao?”, Tô Phong Nghi nhìn xung quanh.

“Huynh ấy ở lại trong xe thì tốt hơn.”

Đợi tới hai canh giờ mới tới lượt bọn họ tiến vào.

Thẩm Thác Trai rõ ràng đã có chút mệt mỏi, ừng ực uống từng ngụm trà lớn, đẩy cái gối bắt mạch qua một bên, xem xét Thẩm Khinh Thiền, hồi lâu mới hỏi: “Trông dáng vẻ cô nương tao nhã lịch thiệp, không ngờ cũng đi đánh nhau với người ta”.

“Đúng ạ.”

“Mắt trái bị thương?”

“Đánh nhau thua, bị người ta móc mất rồi.”

Thẩm Thác Trai giật bắn mình, nửa tách trà trên tay suýt nữa tưới lên người nàng: “Bỏ bông băng ra ta xem nào”.

Nàng cởi tấm bịt mắt, tháo từng lớp bông băng, hốc mắt lõm sâu, lộ ra con mắt trái đáng sợ. Tô Phong Nghi vội vàng nhắm chặt mắt lại.

“Không phải đã có người chữa cho cô rồi đấy sao?”, Thẩm Thác Trai hừ một tiếng.

“Đấy là một giang hồ lang trung, tôi không tin tưởng vào tay nghề của hắn lắm.”

“Quay về đi.”

“Lão tiên sinh, người có ý gì?”

“Ta không thể làm tốt hơn hắn được... Cô gặp cao nhân rồi.”

“Chí ít người cũng kê cho thang thuốc giảm đau...”, Tô Phong Nghi ở bên cạnh bổ sung một câu.

“Bây giờ không thể tuỳ tiện giảm đau, nếu không chỗ sưng sẽ càng tiêu đi chậm hơn.”

“Nhưng mà...”

“Không tiễn”, Thẩm Thác Trai hắng giọng gọi: “Người kế tiếp!”.

Hai người có chút bối rối đứng dậy, đang định ra khỏi cửa, Thẩm Thác Trai đột nhiên gọi: “Đợi đã”, nói rồi đi vào thư phòng, cầm ra bốn cuốn sách đặt vào tay Tô Phong Nghi, hỏi: “Lang trung đó họ gì?”.

“Họ Diêu.”

“Đây là sách ta viết, muốn nhờ vị ấy chỉ giáo cho.”

“Oa.”

Hai người cúi đầu ủ rũ trèo lên xe, Quách Khuynh Quỳ ở trên xe, hỏi: “Đại phu nói sao?”.

“Chẳng nói gì, chỉ bảo chúng ta quay về.”

“Thế là hai người rốt cuộc cũng tin rồi chứ?”

“Tin cái gì?”

“Chỉ cần có Tử Hân thì không cần thiết phải đi tìm đại phu khác.”

Hai người đồng thời gật đầu, trong lòng đều thấy xấu hổ.

Xe ngựa vững vàng lăn bánh về phía trước, ra khỏi con ngõ hẹp, đi vào phố lớn. Ra khỏi phố, xe đi vào một con đường rừng.

Đi qua khu rừng, lại vòng qua mấy khúc đường thì tới Dụ Long khách điếm.

Dọc đường, Thẩm Khinh Thiền lăm lăm kiếm trong tay, cực kỳ căng thẳng.

Lúc sắp vào khu rừng, nàng bỗng nhắm mắt lại, ngưng thần lắng nghe động tĩnh xung quanh.

Tô Phong Nghi đang định mở miệng, đột nhiên nghe “viu viu” hai tiếng, hai mũi tên đã ghim vào nóc xe. Xe ngựa chợt phóng vụt đi, bụi mù cuộn tung, cây dọc hai bên đường không ngừng lùi lại phía sau, tiếp đến thân xe rung lắc, “phốc” một tiếng, không biết từ đâu phóng tới một loạt ám khí đánh vỡ đầu ngựa, xe ngựa đột nhiên xóc mạnh bật lên rồi rồi từ từ dừng lại.