Mộc Cẩn Hoa Tây Nguyệt Cẩm Tú

Quyển 1 - Chương 8: Dạ yến đức hinh cư




Đôi mày nhíu của bạn học Cẩm Tú rốt cục cũng dãn ra, nhỏ ngây ngẩn nhìn tôi, đôi mắt dần đỏ hoe, cái mũi cũng đỏ lên, toàn bộ khí thế hung hãn ban nãy đã biến mất, khiến tôi nhớ lại cái tính nhát gan lúc còn bé của nhỏ. Nhỏ ôm chầm lấy tôi, khóc òa: “Mộc Cẩn, trên đời này chỉ có tỷ đối với muội tốt nhất.” Tôi thừa nhận, thời khắc này, nội tâm của tôi vô cùng dịu dàng, vô cùng cảm động, có cảm giác được sùng bái, được khẳng định chính mình, nhưng lời ra miệng lại rất khiêm tốn: “Ngốc, trên đời này vẫn còn rất nhiều người đối tốt với muội, cả Tống nhị ca cũng rất tốt với muội, đúng không?”

Cẩm Tú khóc đến long trời lở đất, căn bản không có thời gian trả lời tôi.

Nha đầu này, quẹt hết nước mắt nước mũi lên người tôi rồi, thôi mặc kệ, nể tình hôm nay tôi giáo dục muội muội thành công vậy.

Tôi chợt nhớ ra bộ quần áo này không phải cái hôm qua mặc, còn mấy thứ trong áo kia đâu rồi?

Lòng thoáng trầm xuống: “Cẩm Tú, hôm qua muội có thấy trong áo tỷ có một… úi,.. đừng có cười tỷ, là cái bút lông ngỗng của tỷ, với cả một ít kế sách mà tỷ với Tống Minh Lỗi cùng viết nữa?”

Cẩm Tú ngừng khóc, khuôn mặt nhỏ nhắn như hoa lê trong mưa, mờ mịt lẩm bẩm: “Bọn muội đều vội vàng cứu tỷ về, cũng không để ý nữa. Lúc về là Tam tỷ và muội giúp tỷ thay xiêm y, cũng không thấy gì cả?” Nói xong nhỏ lại tiếp tục chìm đắm nỗi xúc động tình thân của mình, ra sức nức nở. Đây là điểm đặc biệt của Cẩm Tú, bình thường không khóc, nhưng một khi đã khóc thì phải khóc đến thiên địa biến sắc mới thôi.

Thế là giờ lại tới phiên tôi mang vẻ mặt như đưa đám, nhỡ đâu kẻ áo trắng kia nhặt được mấy thứ đó thì làm sao bây giờ, hơn nữa trong đó còn có chữ viết của Tống Minh Lỗi, nói không chừng, sẽ làm liên lụy đến huynh ấy mất!

Chúng tôi trải qua những tháng cuối năm trong lo lắng, bất an, nhưng Tử viên cũng chẳng để ý tới chuyện này, trái lại còn nhanh chóng điều ba ngàn binh sĩ bí mật tiến kinh, trong đó có cả muội muội tôi Hoa Cẩm Tú và người trong lòng Bích Oánh – Tống Minh Lỗi, bởi vì trong thời gian này, có một sự kiện xảy ra – so với câu chuyện kẻ áo trắng của tôi thì càng thêm trọng yếu, không chỉ ảnh hưởng tới Nguyên gia mà toàn bộ Đông Đình hoàng triều đều bị chấn động, thậm chí còn gián tiếp thay đổi số phận của chúng tôi nữa.

Năm Nguyên Vũ thứ mười bảy, đương kim Anh Tông hoàng đế mắc bệnh nặng, để cầu nguyện sớm ngày khỏe lại đã đổi niên hiệu(1) thành Vĩnh Khang.

Năm đầu Vĩnh Khang, vị hoàng đế tính tình đa nghi này nằm mộng thấy một đám người đang nhảy múa, cho rằng có người vu cổ, liền lệnh cho Đại lý tự khanh(2) – Văn Phục Doãn tra xét việc này. Chính vì vậy “loạn vu cổ” làm rối loạn Đông Đình hoàng triều đã bắt đầu.

Văn Phục Doãn nháo ra vài đại án “vu cổ” ở kinh thành khiến Anh Tông càng thêm tin tưởng vào phán đoán của mình, ra lệnh cho Văn Phục Doãn đào cổ ở khắp nơi trong cung. Không ngờ cuối cùng lại đào được một hình nhân bằng gỗ ở Phượng Tảo Cung. Trong cơn thịnh nộ, Anh Tông không thèm hỏi rõ trắng đen đã lệnh thắt cổ Liên hoàng hậu, cùng đêm ấy lại sai bắt quốc trượng – tả tướng Liên Như Hải vào Đại lý tự. Liên Như Hải tự sát trong Đại lý tự, Thái tử Bạc có dính líu đến loạn vu cổ nên bị Anh Tông giam trong điện Phương Dung. Mà Liên hoàng hậu chính là chị ruột của chính phòng Liên phu nhân của Nguyên Thanh Giang.

Ngày mùng một, tháng mười hai, năm đầu Vĩnh Khang, đối thủ một mất một còn của Liên Như Hải, phụ thân của Trương quý phi – Xuyên Ung hầu Trương Thế Hiển cũng thừa cơ liên hợp với thế lực chống Liên thị trong triều, cùng nhau dâng tấu bức vua thoái vị, quyết tâm phế Thái tử Bạc làm thường dân, lập con trai của Trương quý phi – Hòe An Vương Húc làm tân thái tử. Mà Anh Tông vốn mang bệnh nặng, lại nộ khí công tâm dẫn tới hôn mê sâu, thuốc thang cùng châm cứu đều không có tác dụng. Sở dĩ lần này Trương Thế Hiển hành động là do lợi dụng được sơ hở.

Trước ngày tuyển tú, Binh bộ thượng thư Nguyên Thanh Giang vẫn bình tĩnh như thường, mặt ngoài ra vẻ giúp đỡ Trương Thế Hiển chèn ép gia tộc Liên thị, nhưng lại âm thầm lệnh cho phò mã đô úy Nguyên Phi Thanh điều động quân Bắc doanh len lén xuống phía Nam, ngày mười hai tháng chạp, trà trộn vào hộ kỵ của các tú nữ, từ Tư Mã môn tiến vào Chiêu Minh cung, vừa hành động đã đẩy lùi được cấm quân do Trương Thế Hiển khống chế, treo cổ Trương Quý Phi, phóng thích Thái tử Bạc.

Cùng ngày, Nguyên thượng thư nhận được ý chỉ của hoàng đế đang trong cơn hấp hối, bố cáo thiên hạ: Xuyên Ung hầu Trương Thế Hiển, Đại lý tự khanh Văn Phục Doãn, thống lĩnh cấm quân Trương Vũ, Quý phi Trương thị dùng vu cổ để mưu hại Hoàng hậu, mưu độc Thái tử, có ý phản nghịch, lại dám đầu độc Hoàng đế, làm nguy tông miếu, nghịch loạn vô đạo; toàn bộ những kẻ tham gia “loạn vu cổ” đều tru di cửu tộc, chém ngang lưng thị chúng.

Trương quý phi biếm làm thường dân, ban cho ba thước lụa trắng, Hòe An Vương Húc biếm làm thường dân, ban cho rượu độc, hậu táng ở Đông lăng.

Ngày hai lăm tháng mười hai, năm Vĩnh Khang thứ nhất, Đông Đình Hiếu Văn Đế – Anh Tông băng hà, hưởng thọ bốn mươi bốn tuổi, cử hành quốc tang. Năm ấy, Thái tử Bạc hai mươi tuổi tiếp nhận đế vị, sử gọi là Hiếu Nguyên hoàng đế, miếu hiệu(3) Hi Tông, sửa niên hiệu thành Vĩnh Nghiệp.

Năm đầu Vĩnh Nghiệp, tân đế hạ chiếu truy phong(4) Liên hoàng hậu, thụy hiệu(5) Hiền Hiếu Đoan Văn Hoàng Hậu, Binh bộ thượng thư Nguyên Thanh Giang có công bình định phản loạn, thăng làm tả tướng quốc, phong tước An Quốc hầu, Nguyên Liên thị được phong làm An Quốc phu nhân, phong phò mã đô úy Nguyên Phi Thanh làm Trung Hiển vương, chờ qua quốc tang liền đón Nguyên thị Phi Yên làm hoàng hậu. Nhất thời, Nguyên thị vinh sủng tột cùng.

Sự kiện này trong lịch sử gọi là “sự biến Tư Mã môn” hay “Song thập nhị biến”(6). Trong trận này, Cẩm Tú nhà tôi và Tống Minh Lỗi lập được công lớn, bởi vì bọn họ là nhóm đầu tiên xông vào Tư Mã môn, trong lúc Nguyên quân nhuộm máu hoàng cung, Cẩm Tú đã bắt được Trương quý phi đang trên đường chạy trốn trong mật đạo, Tống Minh Lỗi kịp thời giết được cung nhân đang sắp sửa ép Thái tử uống rượu độc, giải cứu được Thái tử Bạc bấy giờ đã sợ đến phát ngốc.

Cùng năm, Đột Quyết ở biên giới tây bắc rốt cục cũng quyết định xâm chiếm vị hàng xóm đã một trăm năm. Chúng cho rằng Đông Đình hoàng triều đang trong lúc nội loạn, chắc chắn không rảnh bận tâm đến biên thùy phía tây bắc, liền đem quân xâm phạm Đông Đình, không ngờ khi tới vùng Hà Sóc lại đụng phải Nguyên Thanh Giang – vốn đã về triều từ lâu, đích thân mang quân chặn lại. Năm vạn đại quân bại bởi vỏn vẹn tám ngàn thủ quân Đông Đình. Bấy giờ tướng thủ thành chính là trạng nguyên võ trẻ nhất trong lịch sử Đông Đình – ngũ phẩm Phi kỵ úy Vu Phi Yến, huynh ấy sử dụng chiến thuật liều chết, người bị trúng mấy mũi tên, máu thấm ướt cả chiến bào mà vẫn làm gương cho binh sĩ, một người một ngựa xông vào doanh trại của địch, bắt sống được Dục Hỗn vương, dẫn quân Đông Đình chém đầu hơn một vạn chín ngàn địch, lại còn truy kích quân Đột Quyết hơn năm trăm dặm, đoạt được đồng cỏ màu mỡ và nguồn nước của vùng Hà Sóc, tạo nên một kỳ tích trong lịch sử quân sự.

Nhất thời, trên dưới cả nước đều xôn xao, Hà Sóc thắng lớn, lại quét sách được loạn vu cổ, từ sau vụ binh biến Tư Mã môn tới nay lòng dân vẫn không yên. Tiếng tăm của Vu Phi Yến được lưu truyền trong dân gian, người người đều nói Vu Phi Yến chính là Quan lão gia tái thế, trung can nghĩa đảm, dũng cảm vô song. Một vạn tinh binh của Nguyên gia do Phi Yến thống lĩnh – được dân gian gọi là “Yến Tử quân”, tung hoành ngang dọc nơi thảo nguyên tây bắc, xuất quỷ nhập thần, trở thành biểu tượng cho việc chống quân xâm lược, không kém anh hùng dân tộc chút nào.

Trên thực tế, Vu Phi Yến đã gửi thư nói cho tôi biết, sở dĩ huynh ấy vội đánh bại quân Đột Quyết là để nhanh chóng nghỉ phép trở về mừng năm mới với chúng tôi. Bốn người chúng tôi đọc được thì nghẹn lời hết cả, nhưng trong thư huynh ấy còn đặc biệt cảm tạ tôi và Tống Minh Lỗi, bởi vì cách đánh bất thình lình của Vu Phi Yến với Đột Quyết chính là sách lược mà hai chúng tôi hợp tác mà ra, tôi đề xuất với huynh ấy có thể bắt chước danh tướng nhà Tây Hán – Hoắc Khứ Bệnh thuần dưỡng một ít hổ sói, đồng thời lấy của địch nuôi quân, đánh thẳng vào trong quân Đột Quyết, lấy bất ngờ làm yếu tố thắng lợi.

Tết năm nay đối với Nguyên gia mà nói là vinh sủng vạn phần nhưng cũng vô cùng nguy hiểm, căng thẳng, bởi vì tân đế mới lên ngôi, có rất nhiều việc phải làm, nhiều vấn đề về kinh tế lẫn quốc tế đang chờ họ giải quyết, không lâu sau khi Nguyên Phi Yên mang theo binh lính lập công quay về Tử viên, một mặt ăn tết ở quê, mặt khác lại đích thân cùng nguyên phối của Nguyên Thanh Giang – An quốc phu nhân lên kinh, để bày tỏ tấm lòng hiếu thảo. Chính điều này đã cho tiểu ngũ nghĩa của chúng tôi được họp về cùng một chỗ.

Dù thế nào, cuối cùng tiểu ngũ nghĩa chúng tôi cũng có thể bình an mừng lễ năm mới, tôi thở phào nhẹ nhõm, mà Tống Minh Lỗi sau biến Tư Mã môn đã được Thái tử để ý, đặc biệt thăng làm Tứ phẩm đới đao ngự tiền thị vệ, càng thêm chín chắn, tự tin. Huynh ấy cười nhẹ như gió thổi, tựa như đã đoán được trước thắng lợi của Vu Phi Yến.

Sáng sớm hôm tất niên, tôi leo lên nóc nhà thu lại đống ớt khô thì nghe thấy tiếng gọi: “Tứ muội!” Một tiếng đó tựa như sấm lớn, thế như ngựa phi, khiến tôi kinh hoảng ngã xuống, rơi vào một vòng tay rộng lớn. Nhìn lại mới thấy người kia cao tám thước, đầu báo mắt tròn, khuôn mặt kiên nghị đầy râu, chính là Vu Phi Yến đã một năm không gặp. Sinh hoạt ở hoang mạc phía bắc vốn khổ cực, sắc mặt huynh ấy hơi tiều tụy, da thịt bị gió lớn, nắng rát làm cho khô nẻ, màu da cũng đen hơn so với lúc trước, thân thể lại càng cao lớn, cường tráng, hai mắt sáng như đuốc cúi người nhìn tôi, tôi vui mừng khôn xiết: “Là huynh, gấu lớn, cuối cùng huynh cũng trở về!”. Sau đó tôi vừa lao vào lòng Vu Phi Yến vừa kéo kéo chỗ râu mép vài cái, huynh ấy bị đau kêu vài tiếng, cũng không tức giận, ôm tôi xoay vài vòng, ngửa đầu cười to: “Tứ muội vẫn nghịch ngợm như trước, có nhớ đại ca của muội không?”

“Tứ muội, đại ca gấu lớn của muội giờ đã là Thượng kỵ đô úy, được phong làm Quảng uy tướng quân, nếu muội mà nhổ hết râu của huynh ấy, toàn bộ “Yến Tử quân” sẽ tới tìm muội đó.” Tống Minh Lỗi đứng sau chúng tôi, nhẹ nhàng cười nói, bên cạnh là Cẩm Tú đang vui mừng hớn hở. Tôi vừa nhảy xuống đất, Bích Oánh đã vén mành đi ra, thấy một người cao lớn đứng đó, thoạt đầu bị dọa cho một trận, sau đó nhận ra là Vu Phi Yến cũng vô cùng vui mừng. Năm người chúng tôi nhìn nhau cười thật lâu, xúc động tựa như lúc kết bái hồi trước.

Đêm trừ tịch(7), tôi cùng Bích Oánh dọn dẹp lại phòng, Tống Minh Lỗi, Vu Phi Yến và Cẩm Tú tham dự gia yến ở Tử viên xong đều tới Đức Hinh cư của chúng tôi, không ngờ Sơ Họa cũng đi theo Cẩm Tú. Vu Phi Yến mang theo quà tặng cho mấy huynh muội chúng tôi. Huynh ấy tặng cho Cẩm Tú một chiếc áo choàng làm từ da báo trắng hảo hạng, cộng thêm một đống lớn tơ lụa, vải vóc.

Mà Tống Minh Lỗi nhận được một cây bảo đao Tây Vực tên là Thu Tĩnh, thân đao cong cong, phát ra hào quang u tối, cực kỳ sắc bén, không biết huynh ấy còn kiếm ở đâu ra một chiếc nghiên mực hồng ti linh chi của Thanh châu, loại nghiên hồng ti(8) này là thiên hạ đệ nhất danh nghiễn, chất đá nhẵn mịn, trơn bóng, hoa văn tự nhiên, tinh xảo, trong nghiên có một nhánh cỏ linh chi, quý giá vô cùng. Tống Minh Lỗi nói tạ ơn rồi nhận lấy, tôi thấy rõ trong mắt huynh ấy có phần yêu thích không muốn buông, nhưng ngoài mặt cũng không có biểu hiện đặc biệt vui mừng.

Quà cho Bích Oánh lại theo lệ cũ: dược liệu trân quý, có điều lần này còn có thêm một hộp phấn ngọc trai ngàn vàng khó mua, không chỉ cường thân kiện thể mà còn có thể dưỡng nhan, giữ gìn thanh xuân, cộng thêm hai xấp lụa quý, hai cây trâm phượng nạm vàng chế tác tinh vi, hai miếng ngọc bội, một vòng tay. Vu Phi Yến trịnh trọng nói đây là khi tại đại điện, tân hoàng có hỏi muốn được thưởng gì, huynh ấy đã đặc biệt cầu cho Bích Oánh, Vu Phi Yến bảo, thân thể tam muội đã khoẻ lại, con gái trẻ tuổi cũng nên có thêm vài bộ váy, trang sức mới.

Tôi thấy khuôn mặt Bích Oánh vừa ngạc nhiên vừa cảm động, lòng khẽ rúng động, Vu Phi Yến nhìn thì có vẻ cao lớn thô kệch nhưng thực ra lại rất tinh tế, so với Tống Minh Lỗi tặng cho chúng tôi mấy tấm lụa chỉ thuần một sắc còn có ý hơn. Huynh ấy có vẻ cũng hiểu Bích Oánh không nơi nương tựa nên mới tặng lễ hậu như vậy, mà lời nói rõ ràng là ám chỉ Bích Oánh đã tới tuổi lập gia đình.

Vu Phi Yến không ngờ Sơ Họa lại tới, không kịp chuẩn bị quà ra mắt, nên tháo luôn vòng hạt mã não trên tay tặng Sơ Họa. Sơ Họa vốn ngồi một góc không lên tiếng, được tặng thì xấu hổ không thôi, nhưng không từ chối được nên đành đỏ mặt nhận lấy, tạ ơn Vu Phi Yến.

Đến lượt mình, tôi hăm hở hỏi: “Gấu lớn, huynh tặng quà gì cho muội thế?”

Vu Phi Yến cười thần bí, không có gấm vóc tơ lụa, không có châu bảo, trang sức, huynh ấy cẩn thận móc từ trong áo một hộp gỗ hẹp dài khắc hoa, đưa cho tôi.

Tôi mở ra, chỉ thấy một thanh chủy thủ đặt bên trong, cán dao có khắc hoa văn giống chiếc hộp, được khảm nhiều loại ngọc sáng chói mắt, dao vừa rút khỏi vỏ, tinh quang đã bắn ra bốn phía, vừa nhìn đã biết là báu vật chém sắt như chém bùn, thật quá quý giá!

Tôi sửng sốt: “Lễ vật quý giá thế này, muội sao có thể không biết xấu hổ mà nhận được?”

Vu Phi Yến cũng không để ý: “Ngoài bốn người thì đại ca chẳng còn người thân nào nữa, hơn nữa khi kết bái đã nói, vinh nhục cùng hưởng, phú quý cùng kham, nếu không có diệu kế của Tứ muội và Nhị đệ, Vu Phi Yến làm sao có thể Hoàng thượng và Hầu gia cất nhắc.” Huynh ấy nhìn tôi trìu mến. “Ta biết nha đầu muội không thích son phấn, thanh đao này là vật yêu bên mình Cốc Hồn vương, gọi là “Hộ ảnh”, Hầu gia đã ban cho ta. Nghe nói mấy ngày trước muội bị phục kích ở Tây lâm, muội xưa nay gan lớn nhưng cũng phải biết tự bảo vệ chính mình.”

Tôi cảm động nhận lấy, sắc mặt Tống Minh Lỗi lại tối sầm, tôi nghĩ huynh ấy nhất định đang tự trách mình ngày hôm đó không đưa tôi về. Tôi ngọt ngào cười với huynh ấy, giơ hai ngón tay hình chữ V, ý nói huynh không cần để trong lòng. Tống Minh Lỗi cũng dịu dàng cười với tôi, nhẹ nhàng gật đầu.

Sau đó chúng tôi cùng ngồi quây quần trên giường đất vừa làm sủi cảo vừa nói về tình cảnh của mỗi người trong những năm qua, ngay cả Tống Minh Lỗi vốn kiệm lời cũng nói nhiều hơn vài câu, không khí rất vui vẻ. Lúc đang luộc sủi cảo, chúng tôi được đón một vị khách không mời, Nguyên Phi Giác. Thấy hắn bước vào cửa, chúng ta đều ngẩn cả ra, đầu hắn đội một kim quan bằng ngọc tím, thân mặc một bộ một hoa phục bách điệp đỏ thẫm, thắt lưng lụa năm màu, áo khoác màu xanh đã sớm bị cành cây cào vào cho dúm dó, trên giầy cũng dính đầy tuyết và bùn, dễ nhận thấy là hắn lại bị lạc nên mới tới đây, có điều hắn rất vui vẻ ngửi ngửi xung quanh: “Thơm quá, thơm quá, Mộc nha đầu, ta muốn ăn sủi cảo cô làm.”

Nói xong thì nghênh ngang ngồi lên giường đất, còn chúng tôi thì như vịt nhao nhao chạy xuống giường. Cuối cùng chỉ còn lại mình hắn ngồi trên giường, không ngừng kêu tên tôi đòi ăn. Tôi nghi ngờ mọi người đều đã nghe được tuyên bố “tôi sớm muộn cũng là người của hắn”, bởi vì bọn họ đang nhìn tôi cực ám muội. Tống Minh Lỗi vẫn trầm ngâm như nước. Vu Phi Yến tuy là công thần trong triều nhưng dù sao ngồi trên giường cũng là con trai của chủ nhân, nên cũng không dám khinh suất. Sơ Họa bĩu môi la: “Giác Tứ gia, không phải ngài đang ngồi nghe hí kịch ở Tử viên sao?”

Nguyên Phi Giác nhìn về phía nàng một chút, khinh thường nói: “Mấy nam nhân học theo đàn bà y y nha nha thì có gì đáng nghe.”

Tôi thầm nghĩ, ngài không nhìn thấy khuôn mặt được trang điểm lộng lẫy của diễn viên, lại không hiểu được cái tinh túy của Côn khúc thì làm sao thấy hay được?

Tôi cười nói, “Giác Tứ gia, ngài muốn ăn sủi cảo tôi làm cũng được, có điều chỗ của tôi chỉ có sủi cảo nhân thịt lợn củ cải, hơn nữa chắc chắn là thịt lợn ít, củ cải nhiều, ngài có ăn được không?”

“Chỉ cần do cô làm, bản thiếu gia đều thích ăn,” Ánh mắt lấp lánh của hắn chiếu vào tôi: “Ta đói lắm rồi.”

“Đêm nay là đêm trừ tịch, tại Đức Hinh cư của tôi, chỉ có huynh đệ tỷ muội, không có chủ tử, chúng tôi cũng không giữ lễ nữa đâu.” Tôi cười nói, không ngờ hắn lại đáp: “Vậy có làm sao, mau ngồi lên giường hết đi, bản thiếu gia còn sợ tiểu ngũ nghĩa các người sao?”

Sơ Họa là người đầu tiên trèo lên giường, tựa như chim sẻ mà nhìn chằm chằm vào Nguyên Phi Giác: “Giác Tứ gia, ngài đừng nói với Quả Nhĩ Nhân và phu nhân được không? Tội ngược đãi chủ tử, chúng tôi kham không nổi đâu.” Nguyên Phi Giác hừ một tiếng xem như trả lời nàng.

Tôi ngồi phía sau luộc sủi cảo, Cẩm Tú tới giúp tôi, nhỏ lấy ngón tay chọc tôi mấy cái: “Ai! Muội nghe Bích Oánh nói ngài ấy nhìn trúng tỷ, có đúng không vậy? Là thật sao?”

Tôi ngẩng đầu thì thấy Sơ Họa đang giật dây cho mấy chàng trai chơi vật tay, ai thua sẽ bị phạt rượu, còn rượu Phượng Tường kia là do Tống Minh Lỗi mang tới. Nguyên Phi Giác nghe được thủ lĩnh của Yến Tử quân đã đại phá Đột Quyết – Vu Phi Yến đang ở đây thì muốn đấu cùng. Tôi cẩn thận nhắc: “Đại ca, cẩn thận đừng làm thiếu gia bị thương.”

Vu Phi Yến cũng không quay đầu lại, chỉ vén tay áo, chuyên tâm đấu còn Nguyên Phi Giác thì lườm tôi một cái.

Tôi quay đầu nói với Cẩm Tú: “Đừng có nói bừa, Giác Tứ gia chỉ là một đứa trẻ cô độc, đáng thương mà thôi, chẳng qua tỷ được coi trọng, ngài ấy coi tỷ là bạn bè thôi.”

“Tỷ nhìn ai cũng thấy họ cô đơn, đáng thương, sao tỷ không tự thấy mình cũng đáng thương.” Cẩm Tú giận dữ nhìn tôi, nghiêm mặt nói: “Không được gả cho hắn, ai trong Tử Tê sơn trang này không biết hắn là kẻ ngốc, muội không cho phép tỷ gả cho một kẻ ngốc.” Tôi đang định phản bác thì hình như nhỏ sực nhớ ra điều gì quan trọng, cầm tay tôi bảo: “Cũng không được gả cho Tống Minh Lỗi, chắc chắn hắn sẽ sủng Bích Oánh rồi cho tỷ làm vợ bé cho xem, hơn nữa nhất định sẽ bắt tỷ viết văn mỗi ngày để cho hắn chép.” Nói xong nhỏ cũng rùng mình một cái.

Tôi thấy buồn cười, nha đầu này vẫn luôn ghét văn thơ, tôi nói đùa: “Vậy ý trung nhân của muội là ai? Không phải là Vu đại ca đấy chứ?”

Mặt nhỏ đỏ lên, huých tôi một cái: “Ai thích huynh ấy chứ!”

Tôi càng vui vẻ, ngạc nhiên hỏi: “Muội thật sự có người trong lòng rồi sao? Con nhỏ xấu xa này, muội gạt ta tự ước định chung thân với người ta rồi phải không, nói mau, nói mau, người đó là ai?”

Cẩm Tú ngượng ngùng, cúi đầu nói: “Chàng, chàng là một người rất đặc biệt, người khác gặp muội lần đầu, nếu không phải nhìn chằm chằm vào muội như đám ruội nhặng thì cũng mắng muội là yêu nghiệt, chỉ có chàng là luôn cười dịu dàng với muội.” Dứt lời liền nở một nụ cười ngọt ngào, đúng là con gái lớn rồi không giữ được nữa.

Tôi còn đang muốn truy hỏi nha đầu kia thì trong phòng truyền tới tiếng hoan hô, thì ra Vu Phi Yến thắng. Ngoài dự đoán của tôi, Nguyên Phi Giác lại rất có tinh thần của một tuyển thủ Olympic, không hề phát cáu, mà chỉ ngửa đầu một hơi cạn sạch chén rượu Phượng Tường, sau đó lại đặt cánh tay khác lên bàn. Tống Minh Lỗi ngồi trong góc, vừa quan sát Nguyên Phi Giác đầu đầy mồ hôi đang đấu một ván khác với Vu Phi Yến vừa trò chuyện với Bích Oánh ngồi bên cạnh, thỉnh thoảng lại nhìn tôi một cái, trong mắt có tia cô đơn, tôi không khỏi sửng sốt.

Sủi cảo luộc xong, chúng tôi liền vui vẻ ăn, mặt Nguyên Phi Giác gần như vùi vào trong bát, liên tục hô ngon, hắn còn nói so với sủi cảo vừa ăn ở Tử viên còn ngon hơn. Chúng tôi đều bị hắn làm cho phì cười. Ngoài trời một đợt tuyết rơi xuống tựa như lông ngỗng, trải lên mặt đất một màu trắng xóa, trong phòng vẫn ấm áp như cũ, thực sự rất náo nhiệt. Tôi thầm than thở, nếu bây giờ có thể được xem chương trình liên hoan tết âm lịch trên đài truyền hình trung ương thì tốt biết mấy.

Ăn xong sủi cảo, mọi người lại chơi vật tay một lúc nữa. Nguyên Phi Giác vẫn thắng ít thua nhiều như trước, nhưng cũng không nổi nóng, trái lại càng chơi càng hăng. Đột nhiên Tống Minh Lỗi đề nghị rằng, trong tiệc phái nữ chiếm đa số, không bằng cùng nhau chơi tửu lệnh(9) rút thẻ hoa hoặc gì đó tương tự. Vu Phi Yến không ngừng kêu: “Đại trượng phu sao có thể chơi trò của phường khuê các.” gì đó, bị tôi và Cẩm Tú xông vào nhổ mất mấy sợi râu, mới không thể làm gì khác hơn là ngồi sang một bên, uất ức nhìn tôi như nàng dâu nhỏ, hình tượng của một đại tướng quân đã mất sạch rồi. Bạn học Nguyên Phi Giác vốn cũng định phản đối kịch liệt nhưng thấy tôi ngồi một bên phụng phịu nhìn hắn, thì mới nhăn mặt miễn cưỡng đồng ý.

Bích Oánh cầm ống thẻ chứa những chiếc thẻ bằng ngà lên xóc xóc, rồi đặt ở giữa, rồi lại lấy xúc xắc cho vào hộp lắc, vừa mở ra nhìn, bên trong có năm điểm, tính đến Cẩm Tú. Cẩm Tú liền cười nói: “Vậy để muội rút đầu, không biết sẽ rút được gì nữa.” Nói xong xóc ống, rút ra một thẻ, mọi người cùng nhìn thì thấy trên thẻ có vẽ một nhành mẫu đơn, có đề bốn chữ “Diễm quán quần phương” (đẹp hơn trăm hoa). Phía dưới còn khắc thêm mấy chữ nhỏ là một câu thơ Đường: “Nhâm thị vô tình dã động nhân” (dù chẳng tình gì, người cũng cảm), lại chú thêm một câu: “Cả bàn tiệc mừng một chén, đây là loài đứng đầu trăm hoa.” Mọi người thấy thế đều cười: “Thật khéo, Cẩm Tú vốn phong hoa tuyệt đại, quý không nói hết, thực xứng với mẫu đơn.” Nói xong mọi người đều cùng cạn một chén. Cẩm Tú mỉm cười uống hết một chén: “Tam tỷ đàn một khúc trợ hứng được không?” Tất cả đều vỗ tay khen phải.

Tôi nghĩ đây đúng là dịp tốt để Bích Oánh biểu lộ tài hoa trước mặt Tống Minh Lỗi. Mấy năm trước, Tống Minh Lỗi có đưa tặng một cây đàn cổ, tôi ồn ào nói muốn nghe khúc Cao sơn lưu thủy tìm tri âm(10), bởi vì tôi biết đây là khúc đàn sở trường của Bích Oánh, cũng có thể lấy tiếng đàn để nói lên nỗi lòng với Tống Minh Lỗi. Mọi người đều cho rằng khúc này rất hợp với cuộc tụ hội hôm nay liền vỗ tay tán thưởng. Tống Minh Lỗi mỉm cười không nói gì, Bích Oánh thì đỏ mặt nói bêu xấu, rồi bắt đầu đàn.

Mấy năm nay Bích Oánh toàn nằm trên giường bệnh, bình thường vẫn lấy tiếng đàn để giải khuây, bây giờ nghe quả thực như tiếng ngọc bắn, dư âm réo rắt, văng vẳng bên tai. Đàn xong một khúc, mọi người đều như si như say, ngay cả Tống Minh Lỗi cũng hiện ra một chút kinh diễm.

Cẩm Tú đổ được mười chín điểm, tính đến Tống Minh Lỗi. Dưới ánh mắt đồng tình của Vu Phi Yến, huynh ấy chỉ cười nhẹ, rút ra một thẻ, mọi người thấy bên trên vẽ một bông hoa hạnh, viết bốn chữ “Dao trì tiên phẩm”. Tôi bèn đọc câu thơ trên đó lên: “Nhật biên hồng hạnh ỷ vân tài” (Hồng hạnh bên mây ấm ánh dương), chú rằng: ai rút được thẻ này ắt lấy được chồng sang, mọi người cùng mừng một chén.

Cẩm Tú, Sơ Họa cười oằn cả lưng, Vu Phi Yến và Bích Oánh thì há hốc miệng, Nguyên Phi Giác cũng phải thở than, tôi cố nén cười, nâng rượu kính Tống Minh Lỗi đang nửa cười nửa không kia: “Phủ ta vừa có một phò mã, nay lại sắp có thêm một hoàng hậu, bây giờ sắp có thêm một quý phi cũng không biết chừng, nào, nào chúng ta đều kính Tống quý phi một chén.” Trong tiếng cười ồ, Tống Minh Lỗi không biết làm sao, đành lắc đầu, cầm rượu uống.

Tống Minh Lỗi ném được mười điểm, đến lượt Nguyên Phi Giác, hắn rút một cây ra, trên mặt là một bông hải đường, đề bốn chữ “Hương mộng trầm hàm” (mộng thơm say tít), mặt sau viết câu thơ “Chích khủng dạ thâm hoa thụy khứ” (chỉ sợ đêm khuya hoa đã ngủ), lại chú rằng: đã gọi là “mộng thơm say tít” thì người rút thẻ này không nên uống rượu, được phép lệnh cho hai người trên dưới, mỗi người uống một chén.” Người trên là Tống Minh Lỗi, người dưới lại là tôi, cái thẻ này thực ngoài dự tính, tất cả mọi người đều nói Nguyên Phi Giác có phúc, mộng đẹp không tỉnh. Nguyên Phi Giác ngơ ngác gật đầu, nhìn tôi và Tống Minh Lỗi cùng uống một chén.

Đến lượt Bích Oánh không ngờ lại rút được thẻ có cành hoa tịnh đế, đề bốn chữ “Liên xuân nhiễu thụy” (Điềm xuân liên tiếp), thơ viết: “Liên lý chi đầu hoa chính” (liền cành, hoa kia vừa nở). Chú rằng “Cùng mừng người rút uống ba chén, sau đó mọi người cùng uống một chén.” Chúng tôi tự nhiên uống rượu, đều khen nàng có nhân duyên tốt. Tôi vỗ tay cười nói: “A di đà phật, thẻ này thực tốt.”

Đôi mắt Bích Oánh sáng long lanh, hai gò má đỏ bừng, không biết là vì uống rượu hay vì xấu hổ.

Tiếp theo là Sơ Họa, nàng rút được thẻ có vẽ hoa đào, đề bốn chữ “Cảnh đẹp Vũ Lăng”, mặt sau viết một câu thơ cổ: “Đào hồng vừa thị nhất niên xuân” (Hoa đào lại báo mùa xuân sang). Tôi cười nói: “Chẳng lẽ tiểu Sơ Họa lại có số đào hoa?”. Nàng giả vờ tức giận phạt tôi uống rượu, mặt cũng đỏ lên, uống thì uống, tôi ngửa đầu một hơi cạn sạch.

Đến lượt Vu Phi Yến, huynh ấy vô cùng bình tĩnh xóc ống thẻ, rút ra một cây, vừa nhìn đã cười: “Thật thú vị, mấy người mau nhìn xem.” Thì ra trên thẻ có vẽ một cành mai già, viết bốn chữ “Sương hiểu hàn tư” (vóc đựng sương sớm), thơ cổ là: “Trúc ly mao xá tự cam tâm” (Nhà tranh giậu trúc lòng vẫn vui). Chú rằng: “Tự uống một chén, người chưa rút thăm ra một đề.”

Tính ra chỉ còn tôi chưa rút, tôi suy nghĩ một lúc rồi bảo xin Vu đại ca hát cho chúng tôi nghe một khúc. Tôi vốn muốn nhìn thấy vẻ mặt sửng sờ của Vu Phi Yến, không ngờ, dù bị mọi người cười, huynh ấy lại hào khí ngút trời nói: “Được, chư vị nghe Phi Yến hát một khúc.”

Chúng tôi còn chưa chuẩn bị, một giọng nói như sấm đã vang dậy, khúc huynh ấy đang hát chính là bản “Trương Dực Đức đại náo dốc Trường Bản”, bài hát này vốn sôi nổi mà thô đục, lại thêm Vu Phi Yến vốn là tướng quân, giọng hát hùng hậu, ca ra càng rung động lòng người, tràn ngập khí phách. Thậm chí khi khúc hát kết thúc, bụi trên trần nhà còn bị chấn cho rơi xuống, còn chúng tôi thì bị làm cho rung động hoàn toàn.

Người đầu tiên vỗ tay là Nguyên Phi Giác, hắn tự rót một chén, kính Vu Phi Yến: “Hay cho một khúc “một người giữ cửa, vạn người khó vào”, Vu tướng quân quả là nam nhi chân chính, xin nhận của bản thiếu…., xin nhận của Nguyên Phi Giác một chén.”

Nguyên Phi Giác ngay cả bản thiếu gia cũng không xưng, hai người phấn khởi uống rượu. Khi chúng tôi phục hồi tinh thần đều lớn tiếng khen hay, chúng nữ vây một vòng kính rượu, khen không dứt miệng, không hề đề cập đến người tiếp theo. Vu Phi Yến lại đỏ ngượng ngùng.

Cuối cùng cũng tới lượt tôi. Tôi đè nén kích động trong lòng, rút ra một cây từ đống thẻ bóng loáng, nhìn lên…

Không thể ngờ được, thẻ mà tôi rút được cũng là hoa hạnh giống Tống Minh Lỗi. Bây giờ lại đến phiên tôi bị trêu, tôi lớn tiếng la, thẻ này nhất định không đúng, kiếp này tôi sẽ không thành thân, hơn nữa tuyệt đối không thể có phúc khí lấy được quý nhân gì đó. Mọi người không đồng ý, thành ra tôi bị rót cho một chén.

Tôi thấy hơi chóng mặt, liên tục nói thẻ đó sai, khăng khăng đòi rút lại một lần, mọi người liền hào phóng cho tôi rút lại lần nữa. Tôi xóc xóc một lúc lâu, rút ra một cây, trời ạ, vẫn là “Dao trì tiên phẩm”, đáng ghét. Thế là mọi người đều nói đó là thiên ý rồi, còn bắt tôi phải múa một khúc tự phạt. Nhất định là tôi đã say lắm rồi nên mới đáp ứng.

Tôi nhảy xuống giường, lấy một cái áo rách và chiếc nón của Tống Minh Lỗi, nhảy một khúc thành danh của Jeanette Jackson năm ấy. Tôi nhảy nhảy trên ghế, xoay xoay chiếc nón trong tay, miệng thì hát Don’t cha! của Pussycat.

Lúc tôi ngừng nhảy, đã thấy mọi người rớt hết cả cằm, ngay cả Tống Minh Lỗi vốn luôn điềm tĩnh cũng làm rơi chiếc đũa trong tay xuống bàn “cạch” một cái, chỉ có Nguyên Phi Giác hăng hái vỗ tay: “Hay, Mộc nha đầu, nhảy lại đi.” Tôi rất vui vẻ, thầm nghĩ tuy trước mắt mà nói, múa thế này có phần kinh thế hãi tục nhưng cuối cùng cũng có một người có mắt nhìn. Không ngờ tên ngốc Nguyên Phi Giác lại nghiêm túc bồi thêm một câu: “Có điều nhảy chậm lại một chút, cẩn thận cái thắt lưng.”

Đêm hôm ấy, chúng tôi ầm ĩ đến tận canh năm, sau đó tôi chẳng còn nhớ gì nữa, chỉ mang máng rằng, khi ấy Bích Oánh uống nhiều đến mức mặt đỏ như thoa son, đầu mày khóe mắt càng thêm thùy mị, Vu Phi Yến và Tống Minh Lỗi cùng gõ nhịp hát vang, Nguyên Phi Giác cũng say tới mức quần áo xộc xệch, ngã đầu lên người tôi mà ngủ. Tôi cũng mệt lắm rồi, vừa ghé lên giường đã thấy buồn ngủ, trong lúc mông lung, hình như tôi đã nghe thấy Nguyên Phi Giác nỉ non mấy lần ba chữ “Mộc nha đầu”.

-*-*-*-*-*-*-

(1) niên hiệu: là tên hiệu của một ông vua đặt ra để tính năm trong thời gian trị vì của mình.

(2) Đại lý tự: là cơ quan chuyên phụ trách thẩm tra đối chiếu lại các vụ án lớn, Đại lý tự có chức năng của tối cao pháp viện (tòa án tối cao), Đại lý tự khanh là người đứng đầu cơ quan này.

(3) miếu hiệu: là tên hiệu mà một ông vua mới lên ngôi đặt cho ông vua vừa băng hà để thờ cúng.

(4) truy phong: ban tước cho người đã chết.

(5) thụy hiệu: tên thụy còn gọi là hiệu bụt. Đối với các vị vua, thụy hiệu được gọi là thánh thụy, tức tên của ông vua mới băng hà, được vua kế vị hay các quan trong Bộ Lễ đặt để tránh tên húy. Thụy hiệu có hai loại: công thụy và tư thụy. Công thụy do vua hay triều đình đặt, tư thụy do con cháu trong gia đình, bạn bè, môn đồ đặt cho người quá vãng.

(6) có lẽ là do diễn ra vào ngày 12 tháng 12.

(7) Đêm trừ tịch: là đêm cuối năm rất tối trời,(lễ trừ tịch (trừ là bỏ đi, tịch là chiếu) tức là lễ thay chiếu.) tối trời như đêm ba mươi, nhưng nửa đêm về sáng lại là thời gian của ánh sáng. Bởi vậy, đêm trừ tịch được coi là khoảng thời gian của sự yên nghỉ, giũ bỏ những muộn phiền, là đêm của tĩnh lặng và thiêng liêng. Trong đêm trừ tịch vào trước nửa đêm, người ta lo quét dọn sạch sẽ những gì là nhơ bẩn, dọn sạch những phiền muộn, bất hoà của đời sống để chuẩn bị cho một ngày mới bắt đầu của năm mới.