Một Hồ Sen Xanh Đợi Trăng Lên

Chương 83: Núi hoang mọi sự đều vô nghĩa




Tiết trời cuối thu, gió tây tiêu điều, xa ngựa phóng vèo vèo trên con đường đá của Cán Bắc. Bên vệ đường có một quán trà nhỏ, vì trời đột ngột trở lạnh nên những thương khách vãng lai vội vàng xuống ngựa trốn vào căn nhà lá, dùng chút trà nóng đuổi rét. Đứa làm thuê mau lẹ bưng trà đưa nước cho mọi người, nghe thấy đằng sau có giọng nói lanh lảnh: “Anh ơi, cho hỏi lên núi Long Hổ có phải đi con đường trước mặt kia không?”

“Đúng vậy.” Hầu bàn bận bịu quay đầu đáp, thế nhưng chỉ thấy một cô gái mặc bộ quần áo màu đỏ tươi đứng ở bên ngoài mái lều, đường này gió cuốn cát bụi mù mịt, cô bé đội mũ có rèm trên đầu, rũ một lớp vải đen mỏng, dù đã giấu mặt đi nhưng vẫn có thể thấp thoáng nhìn thấy dung mạo xinh đẹp kia. Sau lưng cô còn có một đạo cô trung niên, khuôn mặt dịu dàng, khóe mắt hơi đi xuống. Sau khi đạo cô kia nói nhỏ với thiếu nữ vài câu thì mang cô bé bước vào quán trà nghỉ ngơi.

Thiếu nữ kia đợi đạo cô ngồi rồi mới ngồi xuống, cũng cởi chiếc mũ có rèm trên đầu xuống. Có thể thấy nước da cô bé trắng trẻo trơn nhẵn, mày liễu khẽ nhếch, đôi mắt linh động ngậm sóng, dù không có vẻ giận dỗi như đôi môi hơi nhếch lên, vẫn có thể nhận ra vài phần hờn mát. Những thương lữ bên cạnh nhìn thấy sau lưng hai người có đeo Trường kiếm thì biết là người trong giang hồ, vì thế dù thấy tò mò nhưng cũng không dám nhìn nhiều, sợ rước lấy phiền phức.

Thiếu nữ chưa kịp châm trà cho đạo cô thì có một đoàn nhân mã từ phía đông đi tới, người nào cũng xách theo thanh kiếm, tinh thần hăng hái. Đi tới đây, người dẫn đầu nhảy xuống ngựa, nói với hầu bàn: “Tiểu nhị, mau chuẩn bị chút lương khô đi, bọn ta phải đi ngay.”

Có lẽ tiểu nhị cũng quen biết với bọn họ, vừa vội vàng chuẩn bị lương khô, vừa hỏi: “Anh Từ muốn đi đâu thế?”

Người nọ đáp: “Chuyến này muốn tới Xuyên Trung núi Thanh Thành uống rượu mừng đấy, cố tình mang theo những anh em này để bọn họ được mở mang tầm mắt một chút.”

“Xa vậy mà các anh cũng chịu đi sao?!” Tiểu nhị giật mình hỏi.

Có một cậu trai trẻ trong đội cười nói: “Bình thường chúng ta chỉ đi về gần vùng này thôi, hiếm có cơ hội đến núi Thanh Thành, nghe nói còn có đại hội đấu võ nữa, tụi này có thể nhìn xem ai là người chiếm ưu thế trong phái Thanh Thành.”

“Mà ta nghe nói, không phải mọi người trong núi Thanh Thành đều là người xuất gia đấy à, sao còn có người thành thân nữa chứ?” Tiểu nhị buồn bực hỏi.

Người ban nãy lại đáp: “Tại cậu không biết đấy, bọn họ cũng có đệ tử tục gia. Trước đây chú rể từng cứu chúng ta, bây giờ lại cưới cháu gái ngoại của Đường môn lão thái thái, đương nhiên bọn ta không thể không chuẩn bị quà lớn để mang tới rồi.”

Đang nói chuyện, tiểu nhị mang mấy bao lương khô đã được chuẩn bị xong đưa cho anh ta, đại hán kia nhận lấy rồi định lên đường thì lại nghe trong góc có người lên tiếng hỏi: “Anh nói chú rể kia là ai?”

Đại hán quay đầu, nhìn thấy thiếu nữ áo đỏ đứng dậy, trong mắt đầy vẻ kinh ngạc. Hắn quan sát cô bé mấy lần, cảm thấy chưa gặp bao giờ thì mới hỏi lại: “Nhìn bộ dạng cô nương cũng là người trong giang hồ, vậy mà chẳng lẽ chưa từng nghe thấy tên của tổng chấp sự lầu Đúc kiếm Lệ Tinh Xuyên sao?”

Thiếu nữ hơi ngẩn ra, nhíu mày hỏi tiếp: “Sao tôi lại chưa nghe bao giờ chứ, vừa rồi anh bảo y muốn thành thân với ai thế?”

“Cháu gái ngoại của Đường môn lão thái thái chỉ có một thôi, chính là con gái duy nhất của kiếm Hiệp Lam Bách Thần vốn ở phái Hành Sơn, Lam Hạo Nguyệt.”

Thiếu nữ biến sắc, mím chặt môi, đại hán kia đắc ý nói: “Cô nương hiểu biết nông cạn quá, trong chốn giang hồ ai ai cũng đều biết chuyện này cả.” Dứt lời giơ tay mang thuộc hạ giục ngựa rời đi.

“Hoàn Nhi, cô ấy có lựa chọn riêng của bản thân, bây giờ chuẩn bị lập gia đình cũng chẳng có gì không đúng cả.” Đạo cô đặt chén trà xuống, đứng dậy nói.

Khuôn mặt Hoàn Nhi đầy vẻ tức giận bất bình, “Sư phụ, con chỉ cảm thấy chị ta hại tiểu sư thúc thành ra như vậy, thế mà bây giờ còn lập gia đình, thói đời đúng là không công bằng!”

Lâm Bích Chi thở dài: “Thanh Ngọc chưa bao giờ kể lại tỉ mỉ chuyện xưa, con cũng chỉ dựa vào phỏng đoán bản thân, đệ ấy đã không muốn nhớ lại quá khứ thì chúng ta cũng đành làm như không biết gì cả, đừng vội nói chuyện này trước mặt đệ ấy.”

“Chuyện này con biết.” Hoàn Nhi rầu rĩ cầm mũ có rèm và gói đồ, theo Lâm Bích Chi rời khỏi quán trà, đi về phía con đường dẫn lên núi Long Hổ.

***

Cô bé theo sư phụ tới dưới chân núi Long Hổ, ngồi lên bè trúc xanh mà xuôi lên, dọc đường đi thấy rặng núi cao dốc hai bên bờ sông, dây leo buông dày. Con sông uốn khúc ngoằn ngoèo, khiến bọt sóng nhấp nhô cao thấp, xa xa nghe thấy tiếng quái điểu kêu rú thảm thiết trong thâm cốc lại càng khiến cô bé không rét mà run. Lúc này sườn núi càng cao chót vót dựng đứng, Hoàn Nhi ngẩng đầu nhìn lại, thấy hai bên sườn dốc treo vô số những quan tài không hoàn chỉnh, thấp thoáng dưới cổ thụ càng khiến nó lạnh lẽo đến đáng sợ.

“Sư phụ, vì sao ở đây lại treo quan tài như thế?!” Cô bé kinh ngạc hỏi.

Lâm Bích Chi nhíu mày nói: “Nhiều năm trước đây khi cô tới đây thì nó đã như thế, những quan tài này đã có mấy trăm năm tuổi, con đừng lớn tiếng quấy nhiễu linh hồn người quá cố.”

Trong lòng Hoàn Nhi bất an, nhưng chỉ đành ngậm miệng không nói. Từ năm Trì Thanh Ngọc xuất gia rời đi, cô bé chưa bao giờ gặp lại chàng, đến nhóm người Cố Đan Nham cũng chỉ thi thoảng mới có thể nhận được thư sư phụ gửi. Vì Lĩnh Nam hẻo lánh, mỗi khi có thư gửi tới thì cũng muộn mất mấy tháng rồi, dần dà, họ chẳng còn cách nào biết rõ sư phụ đã mang Thanh Ngọc đi tới nơi nào rồi. Chỉ biết một già một trẻ này ăn gió nằm mưa, nhờ vào gậy trúc giày cỏ, sau khi rời khỏi Lĩnh Nam thì đi qua Việt Bắc Quế Đông, thậm chí còn băng qua Đại Lý…

Mà lần này, dựa vào những lời kể trong thư, Lâm Bích Chi mang theo Hoàn Nhi lên núi Long Hổ, Quý Khê, Cán Bắc tìm kiếm.

Hoàn Nhi ngồi trên bè trúc, cúi đầu nhìn bọt nước trắng như tuyết, tâm sự nặng nề. Từ biệt ba năm, cô bé đã không còn là một nha đầu bướng bỉnh chỉ biết dựa vào tiểu sư thúc nữa, nhưng người nay đâu rồi?

“Đến đây.” Lâm Bích gọi, cắt đứt suy nghĩ của cô bé.

Hoàn Nhi vội vàng đứng dậy, Lâm Bích Chi thi triển khinh công nhảy lên mỏm núi cao. Gió núi thổi lồng lộng, thốc tung áo quần, toàn thân rét thấu xương. Lâm Bích Chi cầm Trường kiếm rồi bay vút lên núi đá vốn không có đường lên, Hoàn Nhi cũng vội vàng đề khí theo sau. Hai người một trước một sau vượt qua con đường dẫn lên sườn núi, Lâm Bích Chi đạp lên một cành cổ thụ rồi nhanh chóng hạ xuống. Hoàn Nhi thấy nước bắn tung tóe bên dưới, cố nén sợ hãi mà bám vào một mỏm đá nhô ra, muốn tung người nhảy xuống nhưng lại sợ va vào núi đá. Đang do dự thì không còn thấy bóng dáng sư phụ đâu nữa, cô bé lo quýnh đến độ kêu lớn.

Chính vào ngay lúc đó, trong không trung bỗng nghe thấy tiếng bay lượn cao vút lanh lảnh, cô bé dán chặt vào núi đá đưa mắt nhìn ra xa, thấy từ đám mây mù xa xa có con hạc trắng đang bay tới, ở bên cạnh kêu to liên tục.

“Hoàn Nhi, con còn ngớ ra gì đó?” Giọng nói của Lâm Bích Chi được truyền tới từ rừng cổ thụ.

Hạc trắng vỗ cánh bay đi, Hoàn Nhi dùng hết sức để hít thở, cố gắng nhảy về phía trước. Mũi chân vừa điểm lên vách núi, thân hình liền bay xiên vẹo về mảnh rừng rậm rạp như con diều đứt dây.

“Tiểu Hoàn Nhi, không cần phải sợ.” Có âm thanh già nua vang lên trong gió, bóng trắng chợt lóe, thầm đẩy nhẹ một cái sau lưng Hoàn Nhi, sau đó đưa cô bé về lại đất bằng.

Hoàn Nhi mới vừa đứng vững một chút thì liền nhìn thấy Lâm Bích Chi đang ở trước mặt, mà sau đó lại có tiếng gió vun vút, có người đạp lên cành tùng rồi chầm chậm đáp xuống đất. Hạc trắng bay một vòng trên đỉnh đầu, dừng lại bên cạnh một cái hồ sâu cách đó không xa.

“Sư công!” Hoàn Nhi quay đầu, nhìn thấy Hải Quỳnh Tử râu tóc bạc trắng, mừng rỡ gọi.

Hải Quỳnh Tử cười haha, “Con lớn vậy rồi, chắc bây giờ sắp mười sáu rồi hả?”

“Con đã mười bảy rồi!” Hoàn Nhi giảo hoạt nhìn ông, “Sư công, người vẫn cứ thích quên mọi chuyện như trước đây thôi.”

“Không được vô lễ.” Lâm Bích Chi nghiêm mặt quát.

Hải Quỳnh Tử cười nói: “Đến tuổi của mình ông còn không nhớ thì huống chi là con. Bích Chi, sao con có thể mang con bé tìm được đến đây vậy?”

Lâm Bích Chi lấy ra một phong thơ từ trong lồng ngực, dâng hai tay lên, “Đệ tử vốn không muốn quấy rầy sư phụ thanh tu, nhưng tháng trước có người đưa tin gấp tới, nói rằng bạn cũ của sư phụ ở Nhạc Dương mắc bệnh nặng, đã tìm mọi thầy thuốc mà vẫn không thể tìm ra cách cứu nguy. Đan Nham đi theo người đó, thế nhưng sau đó gửi tin về nói rằng với khả năng của đệ ấy cũng chỉ có thể tạm thời ngăn chặn bệnh tình mà thôi, rơi vào đường cùng nên mới muốn xin thầy đến đó cứu chữa.”

Hải Quỳnh Tử xem thơ xong, hai hàng lông mày nhíu chặt. “Xem ra, thầy phải đi một chuyến mới được. Chỉ là…”

“Sư công, có phải người đang lo lắng cho tiểu sư thúc không?” Hoàn Nhi hỏi tiếp.

Hải Quỳnh Tử vẫy tay để gọi con hạc trắng, xoay người đưa bọn họ từ từ đi sâu vào trong khu rừng cổ thụ. “Thằng bé theo thầy ở đây hơn nửa năm, coi như cũng đã từ từ quen dần.”

Lâm Bích Chi hơi do dự, hỏi: “Bây giờ đệ ấy thế nào rồi?”

Bước chân Hải Quỳnh Tử hơi khựng lại, ngẩng đầu nhìn ra xa, “Ta tốn một năm để thân thể thằng bé được phục hồi như cũ, lại mất một năm nữa để nó không tự xem mình là tội nhân. Bây giờ hằng ngày nó theo ta ngồi thiền suy ngẫm, thi thoảng sẽ có người trong núi đón đi chữa bệnh cho người ta. Nay toàn bộ tâm tư thằng bé đều đặt hết trong hai chuyện này.”

Sau khi vòng qua mấy khúc cua, những cây bách cổ thụ xung quanh càng cao xanh ngắt. Hoàn Nhi ở trong rừng, chỉ cảm thấy tĩnh mịch âm u, con đường phía trước như mênh mông vô tận. Còn con hạc trắng vẫn luôn bay lượn bên trên, lúc này bỗng vỗ cánh kêu to, bay thẳng về phía trước.

Hải Quỳnh Tử đưa tay ý bảo đừng lên tiếng, chỉ về phía trước. Hoàn Nhi nhìn theo, chỉ thấy trong từ trong tít khu rừng tùng có con suối chảy róc rách, trên cây cầu đá hơi nghiêng nghiêng trên đầm nước, có một người đứng yên trên cầu, trước mặt là một cái lư hương, khói từ từ bay lên, lượn lờ quanh bóng hình.

Chàng mặc một thân đạo bào màu đen, tóc cài trâm ngọc hình hạc trăng, dải lụa trắng bên hông khẽ rũ xuống, trừ những thứ đó ra thì không còn thứ gì khác cả.

“Bạch Hạc, mày về rồi?” Chàng nghe thấy tiếng hạc kêu, chầm chậm giơ tay lên, đưa về phía trước. Hạc trắng vẫy hay cánh, từ từ đáp xuống trên lan can cây cầu đá, lông vũ dài trên cánh chạm đến ngón tay chàng, lại nhanh chóng khép lại.

Chàng thu tay, hơi nghiêng mình, dải lụa màu xanh biếc vẫn được che trước hai mắt như xưa.

“Sư phụ, thầy mang bạn đến sao?” Chàng nghe thấy tiếng động, có phần ngập ngừng.

Lâm Bích Chi đi tới một bước, hành lễ nói: “Sư đệ, là tỷ và Hoàn Nhi đến thăm đệ đây.”

Trì Thanh Ngọc ngẩn ra, mãi lâu sau mới bám vào lan can đá đi tới vài bước, “Lâm sư tỷ, Hoàn Nhi?”

Hoàn Nhi đã sớm không kiềm chế nổi, lúc này chạy về phía chàng. Lúc đến gần nhìn thấy dải lụa trước mắt chàng, không khỏi nhớ lại cảnh tượng một kiếm xẹt qua máu tươi vung vẩy ngày hôm đó, nhất thời cảm xúc khó đè nén, lại nghẹn ngào.

Hải Quỳnh Tử đi tới bên cạnh cô bé, mỉm cười nói với Trì Thanh Ngọc: “Thanh Ngọc, bây giờ Hoàn Nhi đã là một đại cô nương rồi, nhìn thấy con có hơi ngượng ngùng.”

Trì Thanh Ngọc thấp giọng nói: “Con cho rằng cô bé nhìn thấy con nên sợ hãi.”

Hoàn Nhi vội thưa: “Tiểu sư thúc, sao con có thể sợ thúc chứ?”

Chàng trầm mặc không nói, Hải Quỳnh Tử nắm tay chàng, đặt lên đỉnh đầu Hoàn Nhi. Tư thế chàng có phần cứng đờ không tự nhiên, nếu không phải có Hải Quỳnh Tử bên cạnh thì có lẽ chàng cũng không đưa tay ra rồi.

“… Đúng là Hoàn Nhi đã cao lên.” Bên khóe môi Trì Thanh Ngọc từ từ lộ ra ý cười. Thế nhưng Hoàn Nhi nhìn thấy, dù lúc chàng đang mỉm cười là thế, nhưng tựa hồ thần thái cứ ngẩn ngơ, có một cảm giác xa lánh tịch mịch.

***

Lá diệp bên cạnh bờ đầm đang dần chuyển sang màu đỏ, thi thoảng có vài phiến lá rơi xuống mặt nước. Hạc trắng nhởn nhơ đứng bên mép nước, thi thoảng lại rỉa lông. Ở đây có rừng phong đằng sau, hai gian nhà tranh, bên nhà có trồng dược thảo, trong không khí thoang thoảng mùi thuốc đăng đắng.

Bên trong nhà cực kì đơn giản, ngoại trừ bàn ghế và giường ra thì không có gì khác nữa, cũng tương tự như chỗ chàng ở tại núi La Phù. Lâm Bích Chi và Hoàn Nhi đều biết thói quen của chàng, chỉ đến gần rồi ngồi ở ghế cạnh cửa. Trì Thanh Ngọc tránh được vị trí của bọn họ, bưng mâm ra ngoài.

“Thanh Ngọc, không cần bận vậy đâu.” Lâm Bích Chi vẫn rất lo lắng cho chàng, không khỏi đứng dậy can ngăn.

Hải Quỳnh Tử khoát tay nói: “Không sao đâu, lúc không có thầy thì thằng bé cũng tự nấu nước làm cơm được.”

Lâm Bích Chi lúng túng ngồi xuống, Hoàn Nhi chống má nhìn theo bóng lưng chàng, cảm thấy mất mát.

“Con nghĩ sau khi sư phụ rời đi sẽ không có ai chăm sóc Thanh Ngọc nên mang con bé đến đây. Vốn dĩ Tử Nguyên muốn tới nhưng trong nhà không có người quản lý, đệ ấy đành phải ở lại.” Lâm Bích Chi thấp giọng nói.

“Sư phụ, người cứ yên tâm, con sẽ chăm sóc sư thúc mà.” Hoàn Nhi rất tự tin.

Lâm Bích Chi đưa mắt nhìn cô bé một cái, thấy Trì Thanh Ngọc đã đi tới bên bờ đầm, nhỏ giọng nói: “Con nhất định không được nhắc lại những chuyện trước đây đấy!”

Hải Quỳnh Tử bùi ngùi nói: “Qua ba năm nay, thằng bé đã không còn quyết liệt như hồi đó nữa…”

“Nếu không phải có sư tôn, chỉ sợ Thanh Ngọc sẽ không thể hồi phục được như bây giờ.” Lâm Bích Chi nói.

Hải Quỳnh Tử lắc đầu, “Thằng bé không nên như bây giờ.”

Bọn họ thấp giọng trò chuyện một lát, thấy Trì Thanh Ngọc quay về trước nhà thì ngừng đề tài này lại, chỉ nói vài chuyện mọi người đã trải qua. Qua buổi trưa, Hải Quỳnh Tử thu dọn bọc hành lý qua loa, ra ngoài cửa nói với Trì Thanh Ngọc muốn đi xa có việc. Trì Thanh Ngọc hỏi: “Sư tôn muốn đi đâu?”

“Nhạc Dương.” Hải Quỳnh Tử thản nhiên nói.

Ban đầu Trì Thanh Ngọc ngẩn ra, sau đó lại trầm mặc. Hải Quỳnh Tử nhìn chàng, hỏi: “Con không muốn đi theo sao?”

“Sư tôn phải đi cứu người, con hành động không tiện, sẽ làm lỡ thời gian.” Chàng rất bình tĩnh.

“Được rồi…” Hải Quỳnh Tử thở dài một hơi, “Thầy và Bích Chi sẽ lập tức lên đường, Hoàn Nhi sẽ ở lại đây để chăm sóc sinh hoạt của con, bản thân con cũng nên tự lưu ý cẩn thận.”

Vì thế Hải Quỳnh Tử và Lâm Bích Chi dặn dò Hoàn Nhi thêm mấy câu, sau đó lên đường đến Nhạc Dương. Hoàn Nhi đứng dưới mái hiên, thấy Trì Thanh Ngọc chỉ lẳng lặng hồi lâu, tựa như có không quá lưu luyến, cũng chẳng quá bất ngờ.

“Tiểu sư thúc, sư công và sư phụ đi rồi, chúng ta đi về thôi.” Nhìn bóng lưng đã rời xa, Hoàn Nhi muốn đưa tay kéo ống tay áo Trì Thanh Ngọc thì chàng lại xoay người sang chỗ khác, đi vào trong phòng.

Hoàn Nhi không biết vì sao chàng thậm chí không muốn trả lời, không khỏi cảm thấy buồn bực: “Thúc sao vậy, không muốn con tới đây ư?”

Lúc này Trì Thanh Ngọc mới dừng chân, tựa như vừa mới ý thức được bên cạnh có người khác. “Xin lỗi, ta không để ý con đang nói gì.” Chàng thấp giọng nói.

Hoàn Nhi muốn nói lại thôi, thất vọng bảo: “Không sao ạ, con đi múc nước.” Chàng đáp khẽ, cũng không có ý muốn trò chuyện tiếp, tự bỏ vào phòng.

***

Thoạt đầu, cô bé còn tưởng vì cách xa ba năm không gặp nên đôi bên cảm thấy hơi xa lạ. Hoàn Nhi không dám nói chuyện không để ý như trước nữa, vắt hết óc muốn thân thiết lại với chàng, thế nhưng Trì Thanh Ngọc vẫn luôn yên tĩnh như mặt nước phẳng lặng. Chàng giống như gốc cây trúc chưa từng trải qua vui buồn nhân gian trong cốc vắng âm u, đối diện với mây mù khói sương dày đặc khắp núi một cách rất thản nhiên, cô đơn vắng lặng.

Một ngày hai ngày ba ngày, Hoàn Nhi ở bên cạnh chàng, lại bị coi giống như đang ở trong cảnh hư vô.

“Tiểu sư thúc, đây là đậu hủ con mới học nấu đó, thúc nếm thử đi.” Cô bé hào hứng kéo Trì Thanh Ngọc tới.

Chàng hờ hững nếm thử một miếng, sau đó liền buông đũa xuống.

“Ăn không ngon ạ?” Hoàn Nhi nghi hoặc không hiểu nổi.

“Ăn ngon.” Trì Thanh Ngọc ngồi trước bàn, rất gần với cô bé nhưng Hoàn Nhi thậm chí còn không cảm nhận được hơi thở của chàng.

Hoàn Nhi cau mày hỏi: “Vậy vì sao thúc không ăn?”

Chàng đối diện về phía trước, “Ta quen ăn đồ ăn mình làm, cảm ơn con đã lo lắng.”

Hoàn Nhi ngạc nhiên, cô bé chỉ có thể nhìn chàng tự sờ soạn đi nấu nước làm cơm. Trước đây, lúc còn ở núi La Phù, cô bé cũng từng cùng chàng nấu cơm rồi. Cô bé biết vì tiểu sư thúc không nhìn thấy nên nhiều nhất cũng chỉ biết làm vài món đồ ăn đơn giản thôi. Bây giờ chàng vẫn giống thế, nhưng mỗi động tác lại rất chậm chạp. Chàng ngồi trước bếp lửa, đối diện với ngọn lửa sáng rực, từ từ rơi vào bất động.

Có lẽ là quên mất thời gian, một chén rau đã hơi cháy đen, chàng lại hoàn toàn không biết, ăn rất chậm, rất chậm, tựa như chẳng nếm được bất kì vị cay vị đắng nào.