Một Phát Một Mạng

Chương 25




“Một đường trong nhà. Người ta dùng nó nếu trời mưa. Nếu không thì tôi để họ bắn bên ngoài trời, bất cứ nơi nào mà họ muốn. Tôi không quan tâm lắm đến súng ngắn. Chúng không có nghệ thuật gì cả.”

Reacher gật đầu và Cash gom những tấm bia của Charlie lại thành một đống, thận trọng xếp chúng theo đúng thứ tự ngày tháng. Rồi ông ta xếp chúng lại với nhau và cất trở lại vào ngăn vần S.

Reacher nói, “Smith là một cái tên phổ biến. Thật ra tôi nghĩ rằng nó là cái tên phổ biến nhất ở Mỹ.”

“Nó là tên thật. Tôi xem bằng lái xe trước khi nhận bất cứ người nào làm thành viên.”

“Hắn nguyên là người ở đâu?”

“Theo giọng nói? Ở đâu đó trên miền Bắc.”

“Tôi có thể lấy một tấm bia của James Barr không?”

“Để làm quái gì vậy?”

Reacher đáp, “Làm kỷ niệm thôi.”

Cash không nói gì.

Reacher nói, “Nó sẽ không bị phát tán đâu. Tôi sẽ không mang bán nó trên mạng.”

Cash không nói gì.

Reacher nói, “Barr sẽ không trở lại. Điều đó là chắc chắn. Và nếu anh muốn giữ cái mạng mình thì anh nên vứt hết chúng đi mới phải.”

Cash nhún vai và quay lại tủ hồ sơ.

Reacher nói, “Lấy cái mới nhất nhé. Cái đó sẽ là tốt nhất.”

Cash lần qua xấp giấy rồi lôi ra một tờ. Đưa qua quầy. Reacher nhận lấy và xếp lại cẩn thận rồi bỏ vào túi áo.

Cash nói, “Chúc bồ tèo của anh may mắn.”

Reacher đáp, “Hắn không phải bạn tôi. Nhưng cám ơn anh nhiều.”

Cash nói, “Không có gì. Vì tôi biết anh là ai. Tôi nhận ra anh ngay khi anh nằm xuống sau khẩu súng. Tôi chẳng bao giờ quên tư thế nằm sấp của ai cả. Anh đoạt giải mười năm sau khi tôi dự. Tôi đứng xem giữa đám đông. Tên thật của anh là Reacher.”

Reacher gật đầu.

Cash nói, “Anh lịch sự lắm. Vì đã không nhắc đến nó sau khi tôi kể với anh rằng tôi chỉ được giải ba.”

Reacher nói, “Cuộc đấu của anh gay go hơn. Mười năm sau chỉ toàn là một đám bất tài.”

Ông dừng lại tại trạm xăng cuối cùng ở Kentucky và đổ đầy bình xăng của Yanni. Rồi ông gọi cho Helen Rodin từ một điện thoại công cộng.

Ông hỏi, “Tay cớm còn ở đó không?”

“Hai tay. Một trong khách sảnh và một ở cửa phòng của tôi.”

“Franklin khởi sự chưa?”

“Làm ngay sáng sớm nay.”

“Có tiến triển gì không?”

“Không có gì cả. Họ là năm người rất bình thường.”

“Văn phòng của Franklin ở đâu?”

Cô cho ông một địa chỉ. Reacher xem đồng hồ. “Tôi sẽ gặp cô ở đó lúc bốn giờ.”

“Ở Kentucky thế nào?”

Ông đáp, “Rối rắm lắm.”

* * *

Ông lại băng ngang qua sông Ohio trên cùng một cây cầu, có Sheryl Crow nói đi nói lại với ông rằng mỗi ngày là một khúc quanh. Ông vặn nút tăng âm thanh và rẽ trái về hướng Tây. Bản đồ của Ann Yanni cho thấy có một giao lộ bốn vòng xoay ở bốn mươi dặm trước mặt. Ông có thể rẽ về hướng Bắc ở đó và một vài giờ sau ông có thể vượt qua nguyên thành phố, bốn mươi bộ trên không trung. Có vẻ như thế sẽ hay hơn là dùng những con đường bên dưới. Ông nghĩ Emerson sẽ rất bực mình. Rồi sẽ nổi điên lên, vào một thời điểm nào đó trong vòng hôm nay. Nếu là Reacher thì sẽ như vậy. Reacher đã là Emerson trong vòng mười ba năm, và trong tình cảnh này ông cũng sẽ phát khùng lên, rải lính ra khắp các đường phố, thử đủ các cách.

Ông tìm thấy cái giao lộ và nhập vào nhánh xa lộ chạy về hướng Bắc. Ông tắt máy CD khi nó chạy lại từ đầu và cài xe chạy theo chế độ tự động. Chiếc Mustang chạy rất tốt ở tốc độ bảy mươi dặm một giờ. Nó ầm ào lao đi, mạnh mẽ, không ho hen vờ vịt gì cả. Reacher nghĩ nếu ông có thể đặt cái động cơ đó vào một thân xe bốn chỗ cũ kỹ móp méo nào đó, thì nó sẽ là loại xe mà ông muốn có.

Bellantonio đã làm việc trong phòng phân tích chứng cứ từ bảy giờ sáng. Ông đã lấy dấu tay trên chiếc điện thoại di động bị vứt dưới xa lộ, và không có được kết quả gì giá trị cả. Rồi ông sao lại bảng ghi lại các cuộc gọi. Số điện thoại cuối cùng được gọi là số di động của Helen Rodin. Trước đó là số di động của Emerson. Hiển nhiên là Reacher đã gọi hai cuộc gọi đó. Sau đó là một chuỗi những cuộc gọi đến nhiều máy di động khác nhau được đăng ký cho Dịch vụ chuyên dụng của Indiana. Có thể Reacher cũng gọi những cuộc đó, hay có thể không phải hắn gọi. Không cách gì biết được. Bellantonio ghi chúng lại hết, nhưng ông biết Emerson sẽ không làm gì với chúng. Điểm duy nhất có thể khai thác tiếp là cuộc gọi cho Helen Rodin, và Emerson không thể nào làm khó một luật sư biện hộ về một cuộc đàm thoại với một nhân chứng, dù hắn có là nghi can hay không. Điều đó chỉ phí hơi sức thôi.

Do đó ông tiếp tục với các cuốn băng quay ở nhà để xe. Ông cần làm việc với bốn ngày, chín mươi sáu giờ, gần ba nghìn lượt xe riêng biệt. Người của ông đã ghi lại hết. Chỉ có ba chiếc là xe Cadillac. Indiana cũng giống như phần lớn các tiểu bang miệt trong. Người ta mua xe tải nhẹ trước tiên, rồi đến xe thể thao địa hình, rồi xe hai chỗ ngồi, rồi xe mui lật. Những chiếc xe con thông thường chỉ chiếm một thị phần rất nhỏ, và phần lớn chúng là Toyota hay Honda hay xe nội địa cỡ trung. Xe cao tốc cỡ lớn thì rất hiếm, và những hãng danh giá là hiếm nhất.

Chiếc Cadillac đầu tiên trên băng là một chiếc Eldorado màu trắng ngà. Một chiếc hai chỗ ngồi, hai cửa, phải vài năm rồi. Nó đã đậu trước mười giờ trong buổi sáng ngày thứ Tư và đậu lại năm tiếng. Chiếc Cadillac thứ hai trên băng là một chiếc STS mới, có lẽ là màu đỏ hay xám, có khả năng là xanh nhạt. Khó mà biết chắc được với hình ảnh một màu mờ mờ trên băng. Dù là thế nào đi nữa, nó đã đậu ngay sau giờ ăn trưa ngày thứ Năm và ở đó trong hai tiếng.

Chiếc Cadillac thứ ba là một chiếc Deville màu đen. Băng ghi được cảnh nó chạy vào nhà để xe ngay sau sáu giờ sáng ngày thứ Sáu. Ngày thứ Sáu đen tối, như Bellantonio gọi nó. Vào sáu giờ sáng, nhà để xe sẽ gần như hoàn toàn trống. Cuốn băng cho thấy chiếc Deville chạy lên con dốc, nhanh và tự tin. Và cho thấy nó chạy trở ra chỉ sau bốn phút.

Đủ thời gian để đặt cái trụ chắn đường.

Người tài xế không lộ diện trong cả hai lần. Chỉ thấy một vệt mờ xám đằng sau cửa kính. Có thể đó là Barr, cũng có thể không phải hắn. Bellantonio ghi lại tất cả cho Emerson. Ông nhắc mình phải xem lại để biết có phải bốn phút là khoảng thời gian ngắn nhất một chiếc xe lưu lại trong những cuộn băng không. Ông ngờ rằng đúng vậy, rất có khả năng.

Rồi ông xem xét lại cuộc rà soát căn hộ của Alexandra Dupree. Ông đã điều một nhân viên cấp dưới làm việc này vì nó không phải là hiện trường tội ác. Không tìm được điều gì thú vị ở đó. Chẳng có gì cả. Ngoại trừ chứng cứ về dấu tay. Căn hộ có một mớ dấu tay hỗn độn, như mọi căn hộ chung cư khác. Phần lớn là của các cô gái, nhưng có bốn bộ dấu tay khác. Ba bộ trong số đó không thể xác định được.

Bộ dấu tay thứ tư là của James Barr.

James Barr đã có mặt ở căn hộ của Alexandra Dupree. Trong phòng khách, trong nhà bếp, trong phòng vệ sinh. Không nghi ngờ gì về điều này. Dấu rất rõ, hoàn toàn trùng khớp. Không thể lầm.

Bellantonio ghi lại cho Emerson.

Rồi ông đọc bản báo cáo mà nhân viên pháp y vừa đưa vào. Alexandra Dupree bị giết bởi một cú đấm rất mạnh ngay thái dương bên phải, do một kẻ thuận tay trái đấm. Cô đã ngã xuống mặt đất rải sỏi có những chất hữu cơ gồm cả cỏ và đất. Nhưng cô lại được tìm thấy trong một con hẻm lát đá vôi. Do đó xác của cô đã được mang đi ít nhất là một khoảng ngắn giữa nơi chết và nơi được tìm thấy. Những chứng cứ về sinh lý học khác xác minh điều này.

Bellantonio lấy một tờ giấy ghi chú mới và viết hai câu hỏi cho Emerson: Reacher có thuận tay trái không? Hắn có chiếc xe nào không?

The Zec dùng thời gian trong buổi sáng để quyết định làm gì với Raskin. Raskin đã thất bại ba lần riêng rẽ. Trước hết, vì bị theo dõi từ ban đầu, sau đó vì bị tấn công từ phía sau, và sau cùng là bị lấy mất chiếc điện thoại di động. The Zec không thích thất bại. Lão không thích thất bại chút nào. Ban đầu lão chỉ cân nhắc đến việc không cho Raskin ra đường và giới hạn hắn làm nhiệm vụ trong phòng video ở tầng trệt của ngôi nhà. Nhưng làm sao lão có thể giao cho một tên thất bại trông coi sự an ninh của mình?

Rồi Linsky gọi. Chúng đã tìm kiếm suốt mười bốn giờ liên tục mà không thấy bóng dáng thằng lính đâu cả.

Linsky nói, “Giờ chúng ta nên theo dõi con nhỏ luật sư. Nghĩ cho cùng thì không có nó sẽ chẳng có việc gì xảy ra. Nó là điểm tập trung. Nó là đứa điều khiển những động thái trong vụ này.”

The Zec nói, “Điều đó làm tăng thêm độ rủi ro đấy.”

“Độ rủi ro đã cao lắm rồi.”

“Có thể thằng lính đã bỏ đi mãi mãi.”

Linsky nói, “Có thể như vậy. Nhưng điều quan trọng là những gì hắn bỏ lại sau lưng. Trong đầu con luật sư.”

The Zec nói, “Ta sẽ nghĩ về điều này. Ta sẽ liên lạc lại với mày.”

“Chúng em có nên tiếp tục tìm kiếm không?”

“Mệt rồi à?”

Linsky đã kiệt sức và cột sống đau nhức vô cùng.

Hắn nói dối, “Không. Em chưa mệt.”

The Zec nói, “Vậy thì tiếp tục tìm. Nhưng điều Raskin về đây cho ta.”

Reacher giảm tốc độ còn năm mươi dặm một giờ khi xa lộ bắt đầu vươn lên trên những trụ đỡ. Ông theo làn đường ở giữa và bỏ qua đoạn rẽ phía sau thư viện bên tay phải của mình. Ông chạy tiếp lên hướng Bắc thêm hai dặm nữa và ra khỏi xa lộ ở nhánh vòng xoay đi xuống con đường bốn làn có các bãi bán xe và cửa hàng phụ tùng. Ông chạy về hướng Đông trên đường xuyên hạt và lại rẽ về hướng Bắc, trên tuyến thư nông thôn của Jeb Oliver. Sau một phút, ông dấn sâu vào vùng thôn dã tĩnh mịch. Những cột tưới xoay chầm chậm và mặt trời đang tạo ra những cầu vồng trong những giọt nước nhỏ xuống.

Vùng miệt trong. Nơi có những bí mật.

Ông tấp vào và dừng lại cạnh thùng thư của Oliver. Chiếc Mustang không cách gì chạy xuống lối vào được. Mô đất giữa đường sẽ giật cho rụng hết những bộ phận dưới gầm xe. Bộ phận giảm xóc, hệ thống xả hơi, trục xe, bộ phận truyền động, bất cứ thứ gì khác nằm dưới đó. Ann Yanni sẽ chẳng hài lòng tí nào. Nên ông chui ra, để chiếc xe lại đó, thấp nhỏ, chúi xuống và nhấp nháy màu xanh trong nắng. Ông đi xuống nhánh đường đất, cảm nhận từng hòn đá qua đế giày mỏng. Chiếc Dodge màu đỏ của Jeb Oliver chưa bị dời đi. Nó vẫn còn ở đó, đất đỏ dính lên chút ít và sương khô đọng thành vệt. Ngôi nhà chính im lặng. Cái nhà kho đóng cửa và khóa.

Reacher bỏ qua cửa trước. Ông đi quanh hông ngôi nhà đến sân sau. Mẹ của Jeb đang ở đó, ngồi trên chiếc xích đu. Bà ta mặc đồ như trước, nhưng lần này trên tay không có cái chai. Chỉ có ánh mắt điên dại từ đôi mắt to như hai cái đĩa nhỏ. Bà ngồi lên một chân và dùng chân kia đẩy chiếc xích đu nhanh gấp đôi lần trước.

Bà nói, “Chào.”

Reacher hỏi, “Jeb chưa về à?”

Bà chỉ lắc đầu. Reacher nghe thấy tất cả những tiếng động mà ông đã nghe lần trước. Tiếng vòi tưới rít, tiếng rin rít của cái xích đu, tiếng cọt kẹt của ván sàn.

Ông hỏi, “Bà có súng không?”

Bà đáp, “Tôi không dính đến chúng.”

Ông hỏi, “Có điện thoại không?”

Bà đáp, “Cắt rồi. Tôi nợ họ tiền. Nhưng tôi không cần điện thoại. Jeb cho tôi dùng di động của nó khi cần.”

Reacher nói, “Tốt lắm.”

“Điều đó thì tốt cái quái gì? Jeb không có ở đây.”

“Đó mới chính là điều tốt. Tôi sẽ phá cửa căn nhà kho và tôi không muốn bà gọi cảnh sát khi tôi làm. Hay bắn tôi.”

“Đó là nhà kho của Jeb. Ông không được vào đó.”

“Tôi chẳng biết bà sẽ làm thế nào cản được đây.”

Ông quay lưng lại bà ta và đi tiếp theo con đường đất. Nó hơi uốn cong và dẫn thẳng đến cánh cửa đôi của căn nhà kho. Các cánh cửa cũng như chính căn nhà kho được làm bằng ván cũ, luân phiên bị nung rồi lại làm cho mục nát bởi một trăm mùa hè rồi lại mùa đông. Reacher chạm khớp ngón tay vào chúng và cảm thấy chúng khô nẻ và rỗng ruột. Cái ổ khóa mới toanh. Nó là một cái khóa xe đạp hình chữ U giống như thứ người giao thư trong thành phố thường dùng. Một chân của chữ U xuyên qua hai yếm khóa bằng thép màu đen được bắt dính vào những tấm ván cửa. Reacher sờ cái khóa. Lay nó. Thép cứng, nóng lên dưới ánh nắng. Một kết cấu rất chặt. Không cách gì cắt được, không cách gì phá được.

Nhưng một cái khóa chỉ vững chắc được bằng vật nó gắn vào.

Reacher nắm lấy đầu thẳng của cái khóa, đáy của chữ U. Nhẹ nhàng kéo nó, rồi mạnh tay hơn. Cánh cửa oằn về hướng ông rồi ngưng lại. Ông chống lòng bàn tay vào lớp gỗ và đẩy lại. Giữ cho chúng vẫn đóng bằng cánh tay trái duỗi thẳng và ghì giật cái khóa bằng tay phải. Chốt cửa nhích ra một chút nhưng không nhiều. Reacher đoán hẳn Jeb dùng gioăng ở đằng sau, bên dưới những con ốc. Có lẽ là những cái gioăng to. Chúng phân tán bớt trọng lực.

Ông nghĩ: OK, thêm áp lực.

Ông giữ phần thẳng của cái khóa bằng cả hai tay và ngửa người về sau như trượt nước. Kéo mạnh và tống gót chân vào phần cánh cửa bên dưới cái khóa. Chân ông dài hơn tay, vì thế ông bị chuột rút và cú đạp không có nhiều lực. Nhưng thế là đủ. Tấm ván vỡ ra một ít và có gì đó hé chừng một phân. Ông chuẩn bị và cố sức lần nữa. Có tiến triển hơn. Rồi tấm ván bên tay trái cánh cửa tách ra hoàn toàn và hai cái then bật ra. Reacher đặt lòng bàn tay trái trên cánh cửa và luồn những ngón tay phải vào kẽ hở mà quặp chặt. Ông hít một hơi sâu và đếm đến ba rồi giật mạnh. Chốt cửa cuối cùng rơi ra, cả bộ khóa rơi xuống đất và cánh cửa mở toang ra hết cỡ. Reacher bước tránh ra và mở hai cánh cửa sát tới tường để cho ánh nắng tràn vào.

Ông đoán rằng mình sẽ thấy một phòng chế biến “hàng phê”, có lẽ có các bàn dài và chai lọ, cân, khí đốt, và nhiều đống túi nhỏ mới sẵn sàng nhận hàng. Hoặc một đống hàng lớn, sẵn sàng lên đường phân phối.

Ông không thấy thứ gì như thế cả.

Ánh nắng lọt vào xuyên qua những kẽ hở giữa những tấm ván cong vênh. Bên trong căn nhà kho có lẽ dài bốn mươi và rộng hai mươi bộ. Nền đất trơn, được quét và nện chắc. Hoàn toàn trống trơn ngoại trừ một chiếc xe tải nhỏ đã chạy nhiều đậu ngay chính giữa.

Chiếc xe tải hiệu Chevy Silverado, đã được vài năm. Nó màu nâu nhạt, như màu đất sét nung. Nó là một chiếc xe để làm ăn. Nó được làm theo những yêu cầu tối thiểu. Một mẫu mã cơ bản. Ghế nhựa, bánh thép, lốp xe không màu mè. Thùng xe sạch nhưng trầy trụa và móp. Không có bảng số. Các cửa xe bị khóa và không thấy chìa khóa ở đâu cả.

“Cái gì thế này?”

Reacher quay lại thấy mẹ của Jeb Oliver đứng sau lưng. Bà nắm chặt tay lên rầm cửa, như thể bà không muốn bước qua ngưỡng cửa.

Reacher nói, “Một chiếc xe tải.”

“Cái đó thì thấy rồi.”

“Nó là của Jeb?”

“Tôi chưa bao giờ thấy nó trước đây.”

“Hắn lái xe gì trước khi có chiếc xe to màu đỏ kia?”

“Không phải chiếc này.”

Reacher bước tới gần chiếc xe để nhìn vào trong qua cửa kính bên tài xế. Số tay. Bụi bẩn. Đồng hồ cho biết số dặm đã đi rất cao. Nhưng không có rác. Chiếc xe tải đã từng là người phục vụ trung thành của ai đó, họ sử dụng nhưng không hành hạ nó.

Người đàn bà lặp lại, “Tôi chưa từng thấy nó.”

Có vẻ như nó đã ở đó từ lâu lắm rồi. Bốn bánh xe đã gần xẹp. Nó không bốc mùi xăng dầu. Nó lạnh lẽo, trơ ì ra, phủ một màng bụi. Reacher quỳ xuống, xem bên dưới gầm xe. Chẳng có gì cả. Chỉ một bộ khung xe, đất cũ đóng bánh, trầy trụa do đá sỏi.

Ông hỏi vọng lên, “Chiếc xe này đã ở đây bao lâu rồi?”

“Tôi không biết.”

“Hắn gắn ổ khóa lên cửa khi nào?”

“Có lẽ hai tháng trước.”

Reacher lại đứng lên.

Người đàn bà hỏi, “Anh muốn tìm cái gì vậy?”

Reacher quay lại đối diện bà và nhìn vào mắt bà. Hai đồng tử mở lớn.

Ông nói, “Muốn biết thêm bà thường ăn điểm tâm hằng ngày thứ gì thôi.”

Bà mỉm cười, “Anh nghĩ là Jeb nấu ăn [33] trong này à?”

[33]: Nấu ăn (cook): tiếng lóng chỉ việc điều chế methamphetamine nghiệp dư.

“Không phải thế sao?”

“Cha dượng của nó mang qua.”

“Bà có chồng à?”

“Hết rồi. Nhưng ông ấy vẫn mang qua.”

Reacher nói, “Jeb đã sử dụng hôm tối thứ Hai.”

Người đàn bà lại mỉm cười. “Một bà mẹ có thể chia sẻ với con mình chứ. Phải không nào? Nếu không thì có mẹ để làm gì nữa?”

Reacher quay đi nhìn chiếc xe tải một lần nữa. “Tại sao hắn để chiếc xe cũ khóa lại trong này còn chiếc mới thì để ngoài trời mưa nắng như vậy?”

Người đàn bà nói, “Tôi chịu thua. Jeb luôn làm theo ý riêng của nó.”

Reacher trở ra khỏi căn nhà kho và dựng từng cánh cửa lại. Rồi ông dùng các ngón cái ấn các chốt cửa vào trong các lỗ bị vỡ của chúng. Sức nặng của cái khóa lại lôi chúng bật ra một nửa. Ông cố làm cho nó trông gọn gàng hết mức có thể, rồi ông bỏ nó đấy và bước đi.

Người đàn bà hỏi với theo, “Jeb có bao giờ trở về nữa không?”

Reacher không trả lời.

Chiếc Mustang đang quay mũi về hướng Bắc nên Reacher lái về hướng Bắc. Ông bật CD thật lớn và chạy tiếp mười dặm theo một con đường thẳng băng, nhắm đến một chân trời không bao giờ đến.

Raskin đào huyệt cho chính mình bằng một chiếc xe ủi đất Caterpillar. Nó cũng là chiếc xe ủi đã được dùng để san bằng khu đất của The Zec. Chiếc xe có một xẻng xúc nửa mét với bốn răng bằng thép. Chiếc xẻng chậm rãi ngoạm từng miếng đất xốp mềm và đổ chúng sang một bên. Tiếng máy hết gầm lên lại chậm lại, và những bụm khói diesel đều đặn tỏa đầy trời Indiana.

Raskin ra đời trong thời kỳ Liên bang Xô viết, và hắn đã chứng kiến nhiều điều. Afghanistan, Chechnya, cuộc biến động ngoài sức tưởng tượng ở Moscow. Một kẻ khác trong tình cảnh của hắn thì có lẽ đã chết nhiều lần rồi, và điều đó cộng với tư tưởng định mệnh tự nhiên của người Nga làm cho hắn tuyệt đối lãnh đạm với số phận của mình.

The Zec đã nói, “Ukase.” [34] Một mệnh lệnh từ một thẩm quyền tuyệt đối.

[34]: Nghiêm lệnh.

Raskin đã đáp, “Nichevo.” [35] Không có gì quan trọng.

[35]: Tuân thủ, không có gì quan trọng (tiếng Nga).

Tiếp đó hắn nổ máy chiếc xe ủi. Hắn chọn một điểm đám công nhân nghiền đá không thấy được bởi cái khối đồ sộ của ngôi nhà che chắn. Hắn đào một cái rãnh gọn gàng, rộng nửa mét, dài mét tám, sâu mét tám. Hắn đổ chỗ đất vừa đào chất đống bên tay phải, về hướng Đông, như một rào chắn giữa chính mình và quê nhà. Khi đã làm xong, hắn lui xe khỏi cái hố và tắt máy. Leo xuống khỏi buồng máy và chờ. Không có chuyện trốn chạy ở đây. Bỏ chạy là vô ích. Nếu hắn bỏ trốn, thì thế nào đi nữa họ cũng tìm ra, và lúc đó thì hắn sẽ không cần đến cái huyệt làm gì. Họ sẽ dùng bao đựng rác, năm hay sáu cái. Họ sẽ dùng dây điện để niêm phong các mảnh của hắn trong bao nhựa đen lạnh lẽo. Họ sẽ bỏ gạch vào chung với thịt của hắn và ném mấy cái bao xuống sông.

Trước đây hắn đã thấy chuyện này rồi.

Ngoài xa, The Zec đi ra khỏi ngôi nhà. Một lão già thấp bé, to bè, cổ lỗ, lom khom, bước đi với tốc độ vừa phải, tràn trề quyền lực và năng lượng. Lão băng ngang qua khoảng đất gồ ghề, nhìn xuống, nhìn về phía trước. Năm mươi thước, một trăm. Lão đến gần Raskin và dừng lại. Lão thọc bàn tay tàn phế vào túi và lấy ra một khẩu súng lục nhỏ, ngón cái tay trái và gốc của ngón trỏ kẹp qua vòng cò súng. Lão giơ súng ra, và Raskin nhận lấy.

The Zec nói, “Ukase.”

Raskin đáp, “Nichevo.” Một tiếng ngắn, hòa nhã, nhũn nhặn, như de rien trong tiếng Pháp, như de nada trong tiếng Tây Ban Nha, như prego trong tiếng Ý.Thưa ngài, tôi tùy thuộc vào mệnh lệnh của ngài.

The Zec nói, “Cám ơn.”

Raskin bước đến phần cuối hẹp của cái rãnh. Mở ổ đạn của khẩu súng lục và thấy một viên đạn duy nhất. Đóng ổ đạn lại, xoay cho tới khi nó nằm đúng chỗ. Rồi hắn kéo cò súng ra sau và đặt nòng súng vào miệng. Hắn quay lại để đối diện với The Zec và quay lưng lại cái rãnh. Hắn lùi lại sau cho tới khi gót chân đặt trên mép hố. Hắn đứng yên, thẳng, thăng bằng và điềm tĩnh, như một vận động viên lặn của Olympic đang chuẩn bị cho một cú nhảy lộn ngược rất khó từ tấm ván trên cao.

Hắn nhắm mắt lại.

Hắn bóp cò.

Trong vòng một dặm quanh đó, những con quạ đen bay lên huyên náo trong bầu trời. Máu, óc, và xương bắn lên qua ánh nắng theo một đường parabol tuyệt đẹp. Xác Raskin ngã ngửa ra sau và rơi xuống, duỗi thẳng và đờ ra dưới đáy rãnh. Bầy quạ lại sà xuống đất và tiếng động yếu ớt của những cái máy nghiền đá ngoài xa lại trở về và nghe như im bặt. Rồi The Zec trèo vào buồng lái chiếc xe ủi và mở máy. Những cần gạt có những cái núm to như viên bi-a, nên lão điều khiển chúng dễ dàng chỉ với lòng bàn tay mình.

* * *

Reacher dừng lại cách thành phố mười lăm dặm về hướng Bắc và đậu chiếc Mustang trên đoạn đường tránh rộng rải sỏi hình chữ V tạo thành ở góc của hai khoảnh ruộng hình tròn thật lớn gặp nhau. Những khoảnh ruộng nằm ở khắp nơi, Bắc, Nam, Đông, Tây, khoảnh này nối tiếp khoảnh khác thành hàng vô tận. Mỗi khoảnh có trụ tưới riêng. Mỗi trụ đều đang xoay cùng một nhịp chậm và nhẫn nại.

Ông tắt máy xe và bước xuống. Ông đứng vươn vai và ngáp. Không khí đầy hơi nước từ những chiếc trụ tưới. Nhìn gần, những trụ tưới như những cỗ máy công nghiệp khổng lồ. Như những phi thuyền của người ngoài hành tinh vừa đậu xuống. Có một cột lấy nước trung tâm đứng thẳng ở giữa mỗi khoảnh ruộng, như là một cái ống khói cao bằng kim loại. Cần của trụ tưới vươn ra theo chiều ngang và phun nước ra từ hàng trăm vòi đặt cách quãng theo chiều dài của nó. Ở đầu ngoài cùng của cần tưới có một cái chân thẳng đứng chống đỡ trọng lượng của nó. Ở dưới cùng của cái chân là một cái bánh xe vỏ bằng cao su. Cái bánh xe to như bánh máy bay. Nó lăn vòng quanh một vệt đã mòn, kiên trì không nghỉ.

Reacher nhìn và chờ cho tới khi chiếc bánh xe trong khoảnh ruộng gần nhất tiến đến gần. Ông đi lại và bước dọc theo nó. Giữ nhịp với nó. Chiếc bánh xe gần như ngang thắt lưng của ông. Còn cái trụ tưới thì cao quá đầu ông nhiều. Ông giữ cho bánh xe nằm bên phải của mình và theo nó đi suốt vòng tròn dài theo chiều kim đồng hồ. Ông đang đi qua đám sương mù mịn. Lạnh. Cái trụ tưới rít lên thật lớn. Chiếc bánh xe nhẹ nhàng vươn lên rồi hạ xuống thấp. Một vòng thật dài. Cần tưới có lẽ dài đến một trăm năm mươi bộ, do đó vệt đường mòn bao quanh dài hơn ba trăm thước. Pi nhân với đường kính. Diện tích là Pi nhân với bán kính bình phương, do đó nó sẽ lớn hơn sáu nghìn ba trăm mét vuông. Có nghĩa là những góc bỏ hoang cộng lại gần một nghìn bảy trăm mét vuông. Hơn hai mươi mốt phần trăm. Hơn bốn trăm mét vuông ở mỗi góc. Như những hình dạng trong các góc của một tấm bia. Chiếc Mustang đang đậu ở một trong bốn góc, xấp xỉ cùng cỡ với một lỗ đạn.

Như một trong những lỗ đạn của Charlie, trong góc của tờ giấy.

Reacher trở lại nơi ông đã khởi đầu, hơi bị ướt, đôi giày thuyền của ông lấm bùn. Ông bước ra khỏi vòng tròn và đứng yên trên lớp sỏi, nhìn về hướng Tây. Trên chân trời đằng xa, một đám quạ đột nhiên bay lên rồi hạ xuống. Reacher trở lại xe và mở máy. Tìm được mấy cái kẹp ở thanh chắn trên đầu và chiếc nút vặn trên bảng điều khiển, ông hạ mui xuống. Ông xem đồng hồ. Ông còn hai giờ nữa mới đến cuộc hẹn ở văn phòng của Franklin. Ông ngả lưng xuống ghế và để cho nắng hong khô áo quần. Ông lấy tấm bia giấy gấp tư từ trong túi ra và ngắm nó một lúc lâu. Ông ngửi nó. Giơ nó lên ánh mặt trời và để ánh nắng chiếu xuyên qua những chiếc lỗ tròn nhẵn nhụi. Rồi ông cất nó lại vào túi. Ông nhìn lên, không thấy gì cả ngoài bầu trời. Ông nhắm mắt cho khỏi chói rồi suy nghĩ về bản ngã và động cơ, ảo tưởng và thực tại, phạm tội và vô tội, và bản chất thật sự của sự ngẫu nhiên.