Người Đàn Ông Của Tôi - Rachel Gibson

Chương 1




Người đàn ông của tôi:

Không phải vận động viên chuyên nghiệp

Sam LeClaire là một gã khốn điển trai. Ai cũng nghĩ vậy. Tất cả mọi người từ các phóng viên thể thao cho tới các bà mẹ yêu thể thao.

Cô gái đang quấn mình trong ga giường của anh cũng nghĩ vậy. Mặc dù cô ta không hẳn là một cô gái. Cô ta là một phụ nữ.

“Em không hiểu vì sao em lại không được đi theo.”

Sam rời mắt khỏi nút thắt cà vạt sọc xanh của mình và nhìn vào cô nàng siêu mẫu trên giường anh qua gương. Tên đầy đủ cô ta là Veronica Del Toro, tuy nhiên, cũng giống như Tyra, Heidi, hay Gisele, mọi người chỉ biết đến tên cô ta.

“Bởi vì anh vốn không biết em định đến,” anh giải thích lần thứ mười. “Đưa khách đến đột xuất như thế là bất lịch sự.” Điều này không phải lý do thật sự.

“Nhưng em là Veronica.”

Chính thế. Đó mới là lý do đấy. Cô ta cư xử khiếm nhã và quá yêu bản thân. Anh cũng không phản đối gì tính cách ấy. Có thể chính bản thân anh cũng thô lỗ và quá yêu mình, nhưng, không như các mẩu tin viết về mình, anh thật sự biết xử sự đúng lúc đúng chỗ.

“Em sẽ không ăn nhiều đâu.”

Mà không cần cố gắng chút nào. Đó là một trong những điều khiến anh khó chịu về Veronica. Cô ta chẳng bao giờ ăn. Cô ta gọi món như thể mình đói ngấu đói nghiến nhưng rồi chỉ gạt gạt thức ăn trên đĩa.

Sam thắt nút cà vạt và nghiêng cằm sang một bên khi cài cổ áo. “Anh đã gọi taxi cho em rồi.” Qua gương, anh nhìn Veronica nhổm dậy khỏi giường đi về phía mình. Cô ta bước đi trên thảm như thể đang ở trên sàn catwalk. Chân và tay đều dài, ngực bự nhưng hơi cứng ngắc.

“Khi nào thì anh quay lại?” cô ta hỏi khi vòng tay quanh eo anh. Cô ta tựa cằm lên vai anh, ngước nhìn anh qua đôi mắt màu nâu sẫm.

“Muộn lắm.” Anh nghiêng đầu sang một bên, và khi cài chiếc khuy cổ còn lại, anh liếc nhìn chiếc nhẫn to bự có được khi thắng cúp Stanley trên tủ áo. Chiếc nhẫn bằng vàng trắng - xen vàng - gắn một trăm sáu mươi viên kim cương, ngọc lục bảo, và sapphire tạo thành logo của đội bóng trên mặt. Một bên thân khác hình cúp Stanley cùng năm chiến thắng, bên còn lại là tên và số áo thi đấu của anh. Anh đã tháo nhẫn ra cho Veronica xem nhưng không định đeo vào lại. Dù có là tuýp đàn ông thích đeo đồ trang sức đi nữa, thì chiếc nhẫn khổng lồ kia không chỉ che kín đến tận khớp tay trên ngón tay phải của anh mà còn quá mức phô trương. Kể cả với một gã thích phô trương.

“Muộn thế nào?”

Nhìn vào gương, anh di mắt tới chiếc đồng hồ trên kệ tủ. Bây giờ đã là hơn sáu rưỡi, và đám cưới bắt đầu lúc bảy giờ. Anh vốn còn không có thời gian để gặp Veronica, nhưng cô ta không mấy khi ở trong thành phố, hơn nữa cô ta đã hứa sẽ nhanh gọn. Anh đáng ra phải khôn hơn. Cô ta là Veronica và cô ta chẳng nhanh gọn làm bất kỳ cái gì hết. “Muộn lắm. Khi nào thì em bay?”

“Sáng.” Cô ta thở dài và rê tay lên áo sơ mi tới chỗ cơ ngực rắn chắc của anh. “Em có thể đợi.”

Anh quay lại, và lòng bàn tay cô ta trượt tới eo anh. “Anh không biết khi nào mình sẽ quay lại. Những buổi lễ kiểu này có thể kéo đến muộn lắm.” Mặc dù vì trận đấu mở màn thường niên cho mùa giải chỉ năm ngày nữa là đến, anh nghi ngờ điều ấy. Anh hất mái tóc đen của cô ta ra sau vai. “Bao giờ đến Seattle nữa thì gọi cho anh nhé.”

“Có khi phải là hàng tháng trời nữa, và đến lúc ấy anh sẽ lại lên đường chơi khúc côn cầu rồi.” Cô ta buông tay xuống và đi về giường.

Anh nhìn cặp mông mảnh khảnh của Veronica khi cô ta mặc chiếc quần lót bé xíu vào. Ở Veronica có rất nhiều thứ để thích. Khuôn mặt. Cơ thể. Thực ra cô ta rất hời hợt, chẳng có gì sâu sắc trong cái đầu xinh đẹp của cô ta hết. Hời hợt chẳng có gì sai trái. Chẳng có gì sai với việc sống nông cạn và tránh đâm đầu vào những suy nghĩ sâu sắc. Nó khiến đời dễ thở hơn. “Chúng ta lúc nào cũng có thể gặp gỡ khi anh đi du đấu.”

“Phải.” Cô ta vươn tay lấy một chiếc áo phông đỏ và kéo nó qua đầu trước khi xỏ chân vào quần jeans. “Nhưng đến lúc ấy anh sẽ có một bên mắt bầm đen mất.”

“Đúng đấy.” Anh cười toe toét, đoạn lấy áo vest và xỏ tay vào. Mùa giải trước, anh đã hẹn hò với Veronica ở Pittsburgh. Đêm hôm đó trước đội Penguins, anh đã ghi được một điểm, dành bốn phút ở khu chịu phạt vì lỗi đôi, và nhận con mắt bầm đen to tướng đầu tiên của anh trong mùa. Biết đâu năm nay cô ta sẽ mang lại cho anh cùng thứ may mắn ấy. Anh với tay lấy ví, đút nó vào túi sau chiếc quần vải kaki.

“Mùa giải trước khuôn mặt xinh đẹp của anh bầm dập kinh khủng,” Veronica nói khi đi một đôi cao gót vào chân.

Có tệ đến thế đâu. Chỉ có vài mũi khâu và vết bầm nhỏ thôi mà. Anh đã từng phải chịu nhiều vết thương còn nặng hơn trong mười sáu năm chơi ở giải NHL.

“Anh nên làm người mẫu.”

“Không. Cảm ơn.” Vài năm trước, anh từng thực hiện một quảng cáo đồ lót cho Diesel, và anh thấy toàn bộ quá trình thực hiện chán ngấy đến tận cổ. Gần như cả ngày anh chỉ ngồi chỗ này chỗ nọ với mỗi cái quần lót trắng trên người trong khi đội ngũ nhân viên dàn dựng những cảnh nền khác nhau. Kết quả cuối cùng là những tấm biển quảng cáo khổng lồ và ảnh trên tạp chí chụp anh với phần đũng quần phồng hẳn lên và trông lớn một cách khác thường. Các cầu thủ trong đội không ngừng chế giễu anh, và mẹ anh đã sợ phải lộ mặt ở nhà thờ suốt cả tháng. Sau kinh nghiệm đó, anh quyết định để nghề người mẫu lại cho những gã thích được nhận sự chú ý kiểu đó. Những gã kiểu như Beckham.

Anh và Veronica cùng nhau rời khỏi phòng ngủ của căn hộ trên cao nằm trong trung tâm thành phố. Trong không gian mở trong nhà, những cái bóng xám ôm chặt lấy các món đồ bằng da khi ánh nắng đang tắt dần tạo ra những hoa văn lờ mờ trên sàn gỗ.

Sam giữ cửa mở cho Veronica, rồi khóa nó lại sau lưng. Anh đi dọc hành lang, và ý nghĩ của anh xoay sang trận đấu trước San Jose còn cách chưa đầy một tuần nữa. Mùa trước đội Sharks đã bị đá ra ngay từ vòng đối đầu đầu tiên, nhưng điều đó không bảo đảm đội Chinooks sẽ chiến thắng trong trận mở màn của mùa giải này. Không hề. Đội Sharks sẽ khát khao có được chiến thắng, và vài cầu thủ đội Chinooks đã tiệc tùng hơi quá sức trong đợt nghỉ. Sam cũng đã chơi bời đã đời, nhưng anh không bị béo, và cơ thể anh vẫn trong tình trạng tốt. Cả Johan và Logan đều thừa ra năm cân ở bụng, còn Vlad đang nốc rượu như một thủy thủ sắp rời bến. Ban lãnh đạo cũng vừa trao băng đội trưởng cho Walker Brooks. Không có gì ngạc nhiên. Vài năm qua, Walker vẫn luôn là đội trưởng dự bị.

“Em thích đám cưới,” Veronica nói với một tiếng thở dài khi họ đi về phía thang máy.

Tất cả mọi người đều cho rằng Alexander Deveraux sẽ đeo chữ A [1] lên áo mình, nhưng không hề có thông báo nào được đưa ra. Họ gần như đã chuyển hướng chức đội trưởng dự bị về phía Sam, nhưng anh không mắc câu. Sam không phải là người có trách nhiệm cao nhất đội, và anh thích như thế.

[1] Viết tắt của Alternative captain: đội trưởng dự bị

Cửa thang máy mở ra, và họ bước vào trong. “Anh không thế sao?”

“Anh không làm sao?” Anh ấn nút xuống sảnh.

“Thích đám cưới.”

“Không thích lắm.” Đám cưới cũng vui như bị đánh vào chỗ hiểm vậy.

Họ đi xuống tầng dưới cùng trong im lặng, và Sam đặt tay lên eo lưng Veronica khi họ băng qua sảnh. Hai cánh cửa nặng nề bằng kính và thép không rỉ trượt mở ra, và một chiếc taxi màu vàng chờ ở sát vỉa hè.

Anh hôn tạm biệt cô ta. “Lần tới em đến đây, hãy gọi cho anh nhé. Anh thực lòng muốn gặp lại em,” anh nói khi đóng cửa taxi lại cho cô ta.

Mây mù bám dính lấy đường chân trời đang tắt nắng của Seattle khi Sam đi tới góc quanh hướng đến Đại lộ Bốn và câu lạc bộ Rainier cách đó hai dãy phố. Âm thanh của thành phố vang vọng giữa các tòa nhà quanh anh, và anh liếc nhìn hình ảnh mình phản chiếu trong ô cửa sổ của các cửa hàng. Một cơn gió nhẹ dựng ve áo anh dậy và trêu đùa lọn tóc vàng trên trán anh. Anh lướt một tay tới vạt áo vest và cài nó lại để chống chọi với không khí lạnh giá ẩm ướt.

Anh chuyển sự chú ý sang vỉa hè đông đúc, và sau vài dãy nhà ngắn, anh nhìn thấy câu lạc bộ lâu đời sang trọng với vẻ ngoài bằng gạch cổ kính và bãi cỏ được xén tỉa cẩn thận nồng nặc mùi tiền. Khi đi dọc con đường, anh nhận thấy mọi người đang quay lại quan sát mình. Vài người hét to tên anh. Anh giơ tay lên chào nhưng vẫn tiếp tục rảo bước. Được nhận ra liên tục như vậy vẫn còn là mới với anh. À, anh cũng có nhiều người hâm mộ. Rất nhiều. Những người theo dõi sự nghiệp và khoác tên cùng số thi đấu của anh trên áo thể thao. Từ khi thắng cúp vào tháng Bảy vừa rồi, tiếng tăm của anh đã tăng lên cả trăm lần, và anh cũng chẳng thấy sao hết. Người hâm mộ chỉ muốn một bức ảnh hay một cái bắt tay, và anh có thể xử lý được chừng ấy.

Đến giữa phố, anh ngẩng lên nhìn đường và băng ngang qua phố. Cuộc đời thật tươi đẹp với Sam. Mùa trước, đội Seattle Chinooks đã thắng cúp Stanley, và tên anh sẽ mãi mãi được khác lên giải thưởng cao quý nhất của môn khúc côn cầu. Ký ức giơ cao chiếc cúp trên đầu khi trượt băng trước khán giả thành phố quê hương khiến môi anh nở nụ cười.

Sự nghiệp của anh đang ở đỉnh cao.

Với máu, mồ hôi, và sự luyện tập chăm chỉ, anh đã đạt được mọi mục tiêu mà anh từng đặt ra. Anh có nhiều tiền hơn hẳn con số mà anh từng nghĩ sẽ làm ra được trong một đời người, và anh thích tiêu phí nó vào bất động sản, những bộ cánh hàng hiệu, rượu vang hảo hạng và những phụ nữ cũng hảo hạng không kém.

Anh đi vào dưới mái hiên của câu lạc bộ Rainier, và một người gác cổng chào anh. Cuộc sống riêng tư của anh cũng khá ổn. Anh không có một quý cô đặc biệt nào trong đời, đúng như anh thích. Phụ nữ yêu anh, và anh yêu lại họ. Dẫu là thỉnh thoảng cũng hơi quá nhiều.

Không gian bên trong câu lạc bộ sang trọng này ngột ngạt đến mức anh có thôi thúc đột ngột muốn cởi giày ra hệt như khi anh còn bé và mẹ anh có một tấm thảm mới. Vài người đàn ông đang đứng ở chân một chiếc cầu thang lộng lẫy, trông hơi bồn chồn, nhưng vẫn rất ổn trong bộ cánh đắt tiền và nước da rám nắng. Trong hai tháng nữa, vài người trong số họ sẽ khoác lên mình những con mắt bầm đen và vài mũi khâu.

“Cậu thật tốt khi đến đúng giờ,” tiền vệ Daniel Holstrom nói khi anh lại gần.

Tiếng đàn hạc dạt xuống cầu thang khi Sam lật tay áo lên và nhìn vào chiếc đồng hồ TAG Heuer của mình. “Còn mười phút nữa,” anh nói. “Các cậu đang chờ gì đấy?”

“Vlad và Logan còn chưa đến đây,” thủ môn Marty Darche trả lời.

“Savage đến chưa?” Sam hỏi, nhắc đến chú rể và cũng là cựu đội trưởng của đội Chinooks, Ty Savage.

“Mười phút trước,” Daniel trả lời. “Lần đầu tiên tớ thấy cậu ta hùng hổ đến thế khi ở ngoài sân băng. Chắc cậu ta sợ cô dâu đã tỉnh táo lại và đang bay được nửa đường tới Vancouver rồi.”

Marty hơi hạ giọng xuống. “Có ít nhất bốn cô nàng Người Tình trên gác.”

Điều này cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi mà cô dâu không chỉ là chủ đội Chinooks Seattle mà còn từng là một Người Tình của Năm của tờPlayboy. “Sẽ là một bữa tiệc tuyệt lắm đây,” Sam nói với một tiếng cười, khi một mái tóc đuôi ngựa màu nâu đỏ sáng bóng và bóng hình uyển chuyển lọt vào mắt anh. Anh quay lại, và tiếng cười nghẹn lại trong họng. Tất cả mọi thứ trong anh khựng lại khi mắt anh dõi theo người phụ nữ buộc tóc đuôi ngựa đang băng qua sảnh đi về hướng cửa trước. Cô ta cầm ống nghe và nói chuyện vào chiếc micro nhỏ xíu trước miệng. Một chiếc áo len đen ôm lấy cơ thể, và một hộp pin nhỏ gắn vào chiếc quần dài đen của cô. Lông mày Sam nhíu lại, và axít đọng lại đầy trong dạ dày anh. Nếu có một phụ nữ trên hành tinh này không yêu anh, và thực ra là ghét cay ghét đắng anh, thì đó là người phụ nữ đang biến mất qua cửa trước kia.

Daniel đặt một tay lên vai anh. “Này, Sam, đó không phải vợ cậu sao?”

“Cậu có vợ á?” Marty quay về phía cửa trước.

“Vợ cũ.” A-xít bỏng rát trong dạ dày anh dần cắn xé cao lên trên.

“Tớ không biết cậu từng kết hôn đấy.”

Daniel cười như thể cậu ta nghĩ chuyện đó vô cùng buồn cười.

Sam liếc mắt lườm Daniel qua khóe mắt. Một lời cảnh báo thầm lặng làm tiếng cười của anh chàng cầu thủ cánh càng to hơn, nhưng ít nhất cậu ta không mở miệng và kể tất tần tật mọi chi tiết bẩn thỉu về chuyến đi say xỉn tới một nhà thờ cưới tồi tàn ở Vegas của Sam.

Anh tiếp tục chú ý tới lối vào phía trước thêm vài giây nữa trước khi đi lên gác. Tên cô là Autumn[2], và cũng như mùa này, cô rất thất thường. Lúc này cô có thể nồng ấm dễ chịu, lúc sau, lạnh đến mức làm đông cứng cả bi của đàn ông.

[2] Mùa Thu

Anh tới tầng hai và đi qua một quý cô đang chơi đàn hạc. Sam không thích bất ngờ. Anh không thích bị ngạc nhiên. Anh thích nhìn xem các cú đánh đang từ đâu đến để anh có thể sẵn sàng trước va chạm.

Anh đi vào một hành lang ngắn thưa thớt vài khách dự đám cưới. Anh vốn không tính sẽ gặp Autumn tối nay, nhưng anh cho là mình cũng không nên ngạc nhiên đến thế. Cô là một người lên kế hoạch đám cưới, hay như cô luôn khăng khăng, “nhà tổ chức sự kiện.” Mặc dù, thực lòng thì, chúng có gì khác biệt chứ? Đám cưới hay sự kiện, thì cũng vẫn là trò diễn xiếc vớ vẩn thôi. Nhưng chuyện bé xé ra to đúng là điển hình của Autumn.

“Anh có muốn ký vào sổ tên khách mời không?” một phụ nữ ngồi ở một cái bàn tròn nhỏ hỏi. Sam không phải tuýp đàn ông ký vào bất kỳ thứ gì mà không có sự hiện diện của luật sư, nhưng người phụ nữ có đôi mắt nâu to tròn cười với anh, và anh đi về phía cô ta. Cô ta mặc thứ gì đó màu đỏ, bó chặt ngang ngực và đeo một cái bờm lấp lánh trên mái tóc đen.

Sam là người hâm mộ cuồng nhiệt của bó chặt và lấp lánh nên anh cười đáp lại cô ta. “Chắc chắn rồi.” Cô ta đưa anh một cây bút lố bịch có một chiếc lông trắng to tướng. “Bờm đẹp đấy.”

Cô ta đưa một tay lên bên đầu và hơi đỏ mặt như thể không quen được khen. “Anh đang chế giễu bờm của tôi à?”

“Không. Trông nó rất đẹp trên tóc cô.”

“Cảm ơn.”

Anh cúi người xuống và cà vạt của anh chạm vào khăn trải bàn trắng. “Cô là người quen của cô dâu hay chú rể?”

“Không cả hai. Tôi được thuê bởi công ty Quản lý Sự kiện Haven.”

Nụ cười của anh tắt ngấm. Tức là cô ta làm việc cho Autumn. Autumn Haven[3]. Trong khi tên cô rất dễ hiểu, họ của cô hoàn toàn ngược hẳn lại. Cũng như người lùn khổng lồ, tiếng hét thầm lặng hay sư tử núi thích được vuốt ve.

[3] Nơi trú ẩn

“Đừng có vui vẻ quá,” Sam nói, và đưa bút lại cho nhân viên của Autumn. Anh đi hết quãng đường ngắn tới một căn phòng lớn, nơi một người chỉ chỗ đưa Sam tới một cái ghế gần hàng đầu. Dưới chân anh là một tấm thảm đỏ rắc cánh hoa hồng trắng. Phần lớn số ghế đã được lấp đầy với các cầu thủ khúc côn cầu, các cô vợ, hay bạn gái. Anh thấy chị em sinh đôi nhà Ross, Bo và Chelsea, ngồi giữa cựu đội trưởng Mark Bressler và trợ lý của Faith, Jules Garcia. Hai chị em sinh đôi này làm việc cho tập đoàn và được biết đến nhiều với cái tên Mini Pit và Sếp Nhỏ.

Anh ngồi vào một trong những chiếc ghế cuối cùng còn lại, cạnh Frankie Kawczynski Bắn Tỉa. Ở đầu phòng, một người đàn ông mặc vest xanh và cầm một quyển kinh thánh đứng trước một lò sưởi bằng đá khổng lồ được trang trí hoa hồng đỏ và một loại hoa trắng nào đó. Theo Sam biết thì ông ta hẳn là một mục sư, hoặc cũng có thể là một thẩm phán. Dù vậy, một điều chắc chắn, ông ta không phải là Elvis rởm[4].

[4] Những người chủ trì hôn lễ ở Las Vegas thường đóng giả làm Elvis Presley

“Này, Sam. Daniel và Marty vẫn đang ở dưới gác à?”

“Ừ.” Sam liếc nhìn đồng hồ. Hai người họ tốt nhất là phải nhanh chân lên nếu muốn đến trước cô dâu. Đây là một trong những sự kiện mà người ta cần đến đúng giờ, vả lại việc phá hỏng hoàn toàn đám cưới của Faith Duffy, chủ đội Chinooks Seattle, không phải là một lựa chọn được xem xét. Nếu thế, Sam đã không ngồi đây, mặc vest, nhìn đồng hồ và chờ buổi lễ diễn ra. Khiếp sợ vợ cũ của mình.

Một bản nhạc cưới nào đó vang lên qua hệ thống âm thanh của căn phòng, và Sam liếc qua vai khi một người phụ nữ mà anh nhận ra là mẹ của cô dâu bước vào phòng. Kiểu quần áo bó chặt và trang sức vĩ đại thường ngày của bà đã được giảm bớt thành một chiếc váy đỏ đơn giản. Phụ kiện duy nhất của bà là bó hoa nhỏ và con chó con lông trắng lắm mồm. Và cũng như mọi con chó lắm mồm khác, nó có đôi nơ to đùng trên tai - màu đỏ - để hợp với bộ móng của nó.

Ty Savage và cha anh, Pavel, vào phòng sau mẹ cô dâu. Cả cha và con trai đều là những huyền thoại khúc côn cầu, và tất cả mọi người có chút hứng thú với môn thể thao này đều đã nghe đến cái tên Savage. Sam đã xem Pavel chơi thứ khúc côn cầu cổ điển khi lớn lên, trước khi có mũ bảo hiểm và luật cấm đánh lộn. Sau đó, anh đã đấu và chơi cùng Ty, không tranh cãi gì là một trong những người giỏi nhất từng đi giày trượt. Cả hai đều mặc bộ vest tuxedo màu đen cổ điển và, trong một khoảnh khắc khó chịu, não Sam lóe lên hình ảnh đám cưới của chính anh. Chỉ là thay vì mặc một bộ vest như thế, anh đã mặc áo phông có hình Clint Eastwood in dòng chữ “Thắng Yên nào, đồ quỷ cái” và quần jeans. Anh không biết thứ gì đáng xấu hổ hơn, đám cưới hay cái áo.

Ty và Pavel đứng về chỗ của mình, đối diện mẹ cô dâu và phía trước lò sưởi. Ty trông bình tĩnh. Không hề hoảng hốt hay lo sợ rằng mình đang phạm phải một sai lầm khổng lồ. Sam cho rằng anh cũng trông khá bình tĩnh ở đám cưới của chính mình. Tất nhiên, anh đã say đến mất trí. Đó là lời giải thích duy nhất cho những gì anh đã làm. Sự khiếp hãi không ngấm vào anh cho tới tận sáng hôm sau. Ký ức về đám cưới say xỉn của anh là thứ mà anh đã tránh như một gái điếm tránh đội trị an. Anh xua nó đi và khóa chặt nó xuống nơi mà anh dùng để giữ tất cả những ký ức không dễ chịu và những cảm xúc không mong muốn.

Tiếng đàn hạc êm ái chuyển thành “Wedding March”, và tất cả mọi người cùng đứng dậy khi cô dâu vào phòng. Faith Duffy là một trong những phụ nữ xinh đẹp nhất hành tinh này. Cao ráo, tóc vàng, khuôn mặt lộng lẫy, như một búp bê Barbie. Bộ ngực hoàn hảo. Và anh cũng không thấy mình là tên bệnh hoạn khi tán thưởng cơ thể cô. Cô từng là Người Tình của Năm, và đa số đàn ông trong phòng này đều đã từng xem ảnh của cô.

Hôm nay cô mặc một chiếc váy trắng ôm khít lấy cơ thể, che kín cô từ cổ tới đầu gối. Qua tấm khăn voan mỏng trên đầu Faith, anh thoáng thấy Autumn khi cô lách vào cuối phòng. Lần cuối cùng họ gặp nhau, cô đã bảo anh thiếu chín chắn và ích kỷ. Cô đã gọi anh là một con chó hứng tình vô trách nhiệm, và cô kết thúc tràng chửi bới bằng việc cáo buộc não anh bị nấm bẹn. Điều ấy không hề đúng. Anh chẳng hề bị nấm bẹn ở bất kỳ đâu, kể cả ở bẹn anh cũng không, và anh đã cực lực phản đối. Anh đã mất bình tĩnh và gọi cô là một con khốn cứng ngắc, đồ thích lên gối. Mà trong trường hợp của cô, cũng đúng, nhưng thế vẫn còn chưa phải là tệ nhất.

Không, tệ nhất là ánh nhìn trong đôi mắt xanh của Conner khi con trai anh vọt ra từ sau ghế. Như thể cha mẹ nó vừa đâm một con dao vào trái tim ba tuổi của nó. Đó mới là chuyện tệ nhất. Sau đêm đó, họ đã đồng lòng đồng ý rằng tốt nhất là không ở cùng một chỗ. Cho đến giờ đây là lần đầu tiên anh ở trong cùng một tòa nhà với, hay từng gặp Autumn trong... hai năm chăng?

Hai mươi tháng, hai tuần, và ba ngày. Đã là từng ấy thời gian kể từ lúc Autumn bất hạnh phải ở chung một phòng với kẻ khốn nạn nhất hành tinh này. Nếu không phải hành tinh này, thì cũng là bờ biển Thái Bình Dương. Và thế là khốn nạn lắm rồi.

Cô đứng ở cuối phòng Du Thuyền trong câu lạc bộ Rainier, mắt dán chặt vào cô dâu khi cô ấy đưa bó hoa kết từ mẫu đơn, tú cầu, và hoa hồng đỏ cho mẹ mình. Faith đứng vào chỗ của cô, đối diện chú rể, và anh ta vươn tay nắm lấy tay cô ấy. Bằng một chuyển động hoàn toàn không được lên kịch bản, anh nâng tay cô lên môi và hôn mu bàn tay. Trong vài năm qua Autumn đã lên kế hoạch cho vô số đám cưới. Nhiều đến mức cô có thể dự đoán khá chính xác cặp đôi nào sẽ đi đến cuối con đường. Cô biết được từ cách họ trò chuyện và chạm vào nhau cũng như từ cách họ xử lý áp lực của việc lên kế hoạch cho đám cưới. Cô đoán rằng Ty và Faith sẽ cùng nhau đi đến đầu bạc răng long.

Khi mọi người ngồi xuống và mục sư bắt đầu làm lễ, Autumn hạ mắt xuống nhìn cái bụng hơi tròn của cô dâu. Chỉ vài tuần trước, cô đã nhận được một cuộc gọi từ cô dâu yêu cầu sâm-panh ở bàn cô dâu chú rể được thay bằng rượu táo sủi bọt. Ba tháng tuổi, cái thai hầu như không dễ nhận thấy. Cô dâu là một trong những phụ nữ may mắn được rực rỡ với sức khỏe tốt.

Không phải Autumn. Đến tháng thứ ba cô không thể cài nổi khuy quần jeans, và những cơn khó chịu buổi sáng đã đến trước cả khi cô biết mình mang thai Conner, làm nước da cô trắng bệch. Và, không như Faith Duffy, chẳng có người đàn ông nào ở quanh để hôn các ngón tay cô và khiến cô cảm thấy an toàn, được yêu thương. Thay vào đó, cô đã ở một mình, ốm yếu, và đối mặt với việc ly dị.

Không nhìn thẳng vào Sam, cô vẫn nhận thức được rõ nơi anh ngồi. Nhận thức rõ đôi vai rộng trong bộ cánh đắt tiền và ánh sáng từ đèn chùm chiếu rực rỡ trên mái tóc vàng của anh. Khi đi vào phòng, cô thậm chí còn không phải nhìn xung quanh cũng biết anh ngồi ở hàng thứ tư, ghế cạnh lối đi. Cô biết. Cũng như cơn đau đầu căng thẳng đang đập mạnh bên thái dương cô. Cô không cần nhìn cũng biết nó có ở đó. Nhưng không như chứng đau đầu, chẳng có gì cô có thể uống để làm Sam LeClaire biến đi.

Cô gõ gõ một ngón tay vào tập tài liệu tổ chức tiệc đang cầm trong một tay. Tất nhiên là cô biết Sam sẽ ở đó.

Cô đã bảo đảm cho thiệp mời được phát đi đúng lúc và giám sát thư phúc đáp. Cô đã kiểm tra chỗ ngồi ăn tối với cô dâu và để Sam ngồi cùng ba cầu thủ khúc côn cầu độc thân và các cô nàng người mẫu Playboy ngực bự ở bàn bảy.

Cô cắn môi dưới. Không nghi ngờ gì là anh sẽ rất hài lòng.

Tai nghe của Autumn kêu lên, và cô vặn nhỏ tiếng xuống khi Ty và Faith nói lời thề truyền thống. Lễ cưới diễn ra nhanh chóng và ngọt ngào, và khi chú rể vươn tay ôm lấy cô dâu, Autumn chờ đợi. Thậm chí sau tất cả những đám cưới mà cô đã tổ chức mấy năm qua, kể cả những đám mà cô biết rồi sẽ thất bại, cô vẫn chờ đợi. Cô không phải người phụ nữ lãng mạn nhất hành tinh. Tuy vậy, cô vẫn chờ đợi một giây bé nhỏ đó. Khoảnh khắc ma thuật ngắn ngủi ngay trước khi một nụ hôn gắn kết người đàn ông với vợ của mình suốt cả quãng đời còn lại.

Môi Ty và Faith chạm nhau và một góc tim của Autumn như bị bấu nhẹ. Thái dương cô lại siết mạnh hơn đôi chút, chọc vào mắt phải, và cô đi ra khỏi phòng. Suốt nhiều năm trời, cô đã ghét Sam, ghét anh với một cảm xúc sôi sục. Nhưng kiểu căm ghét toàn tâm toàn ý đó tốn quá nhiều năng lượng cảm xúc. Sau lần cãi nhau cuối cùng với anh, cô đã quyết định, vì con trai họ, và sự minh mẫn của cô, từ bỏ sự tức giận của mình. Từ bỏ sự căm ghét. Điều ấy cũng có nghĩa là từ bỏ giấc mơ yêu thích nhất của cô. Giấc mơ liên quan đến chân cô, bi của anh, theo đó là một cú đấm móc vào quai hàm xinh đẹp của anh.

Cô chưa bao giờ mơ đến cái chết của Sam, kể cả thương tật lâu dài cũng không. Không gì dính đến cảnh cán qua Sam bằng xe lu hay xe nhà di động Peterbilt. Không, không có gì bạo lực như thế. Conner cần một ông bố, dù có tệ hại đến đâu, và ngoài giấc mơ lên gối vào háng, cô đơn giản không phải là một con người bạo lực.

Từ bỏ sự căm ghét ấy không hề dễ dàng. Đặc biệt là những khi anh lên kế hoạch với Conner rồi lại hủy bỏ. Hay là khi đến cuối tuần nhưng anh lại bay đi đâu đó với bạn bè mình và làm tan nát trái tim Conner. Cô đã phải rất vất vả mới nuốt trôi được cơn giận và khá thành công trong việc không còn cảm thấy gì hết, nhưng mà, cô đã không thực sự gặp Sam trong hai mươi tháng, hai tuần, và ba ngày. Không hề ở bất kỳ đâu gần anh.

Tiếng vỗ tay nổ ra ở phía sau Autumn khi cô đi dọc hành lang vào phòng Thác Nước. Cô đi giữa hai mươi bộ bàn tròn với vải lanh trắng tuyệt hảo và khăn ăn màu đỏ gấp lại trên đồ sứ Wedgwood. Ánh sáng từ đèn chùm và những ngọn nến hình nón lập lòe tỏa sáng trong những chiếc ly pha lê và dội xuống những bộ dao nĩa bằng bạc sáng bóng.

Ngày đầu tiên cô gặp Faith, cô dâu này đã bộc lộ niềm khao khát với sự thanh nhã tinh tế. Cô ấy muốn những bông hoa lộng lẫy, bàn ăn sắp xếp đẹp đẽ và thức ăn hảo hạng. Việc Faith không có chủ đề rõ ràng cũng không phải rắc rối gì, và cô đã nhanh chóng trở thành tuýp cô dâu ưa thích nhất của Autumn.

Một cô dâu có gu tốt và không hạn hẹp ngân sách. Khó khăn duy nhất nảy sinh là quỹ thời gian cấp bách. Đa số các đám cưới mất đến tám tháng để lên kế hoạch. Faith muốn tất cả mọi thứ xong trong ba tháng. Nhìn vào những bình hoa đặt giữa bàn kết từ các sắc hồng và mẫu đơn khác nhau xen kẽ với hoa kim ngân, Autumn tự hào với những gì cô và nhân viên của mình đã tạo nên.

Điều duy nhất sẽ biến đám cưới trở nên hoàn hảo là Faith cho phép báo chí địa phương và toàn quốc đưa ảnh đám cưới lên khắp các trang báo của họ. Đám cưới của cầu thủ xuất sắc, Ty Savage, người đã từ bỏ thể thao để cưới một cựu người mẫu Playboy mà sau đó trở thành chủ đội khúc côn cầu, là một tin động trời. Đặc biệt là trong giới thể thao. Đó sẽ là thứ quảng cáo mà Autumn không thể mua nổi. Thứ quảng cáo sẽ đẩy công việc kinh doanh của cô lên nấc cao hơn. Thứ đột phá mà cô vẫn chờ đợi, nhưng Faith không muốn đám cưới của mình được đưa lên bất kỳ đâu. Cô muốn giữ nó trầm lắng. Không một bức ảnh nào được truyền ra cho bất kỳ ai.

Autumn nói vào chiếc micro nhỏ trước miệng, và đội nhân viên phục vụ, mặc vest tuxedo, xếp hàng đi xuống cầu thang từ nhà bếp bên trên. Mỗi người mang một khay đầy ly Moet et Chandon hoặc các đồ khai vị. Họ đi vào sảnh lớn và tỏa vào giữa các vị khách dự đám cưới.

Qua cánh cửa để mở, Autumn nhìn nhiếp ảnh gia, Fletcher Corbin, và trợ lý của mình, Chuck, trườn người để chụp những bức ảnh chân thật. Fletcher cao và gầy, với đuôi tóc mỏng. Anh là một trong những nhiếp ảnh gia giỏi nhất ngành này, và Autumn luôn đặt chỗ với anh khi anh có thời gian và cô dâu có tiền. Cô thích làm việc với anh bởi vì cô không phải bảo anh cần làm gì hay cô dâu muốn bức ảnh như thế nào. Cô thích điều đó ở Fletcher và đa số các nhà cung cấp trong lĩnh vực đặc biệt này. Họ biết họ đang làm gì. Họ điều chỉnh, thích ứng và không gây ra rắc rối.

Cô dâu và chú rể đứng giữa sảnh lớn, được bao quanh bởi một nhóm khách. Autumn xoay cổ tay lại và đẩy tay áo dài của chiếc áo len đen kiểu cổ mà cô đã tìm thấy ở một trong những cửa hàng thời trang ưa thích của mình ở trung tâm Seattle. Nó có những hạt cườm nhỏ quanh cổ áo, và cô xem nó là một món hời với giá bốn mươi đô.

Cô nhìn đồng hồ và kéo ống tay áo xuống. Kể từ công việc đầu tiên là làm nghề trang trí nhà cửa, đồ vật, cô vẫn đeo mặt đồng hồ vào trong cổ tay để tránh làm xước mặt nó. Trong năm năm qua, cô đã đeo một chiếc đồng hồ có mặt lớn và bản rộng vì một lý do hoàn toàn khác.

Đám cưới đang chậm hơn kế hoạch năm phút. Không tệ, nhưng cô biết quá rõ rằng năm phút có thể dễ dàng biến thành mười. Mười thành hai mươi, và rồi cô sẽ gặp rắc rối để kết hợp với nhà bếp.

Cô ấn một nút trên bộ đàm móc dưới thắt lưng và đi tới phía bên kia phòng. Cô kẹp cặp tài liệu dưới một cánh tay và với tay lấy một chai rượu táo lấp lánh đang nằm trong xô đá bạc ở bàn của cô dâu.

“Tôi ở đây,” trợ lý của cô, Shiloh Turner, nói qua tai nghe.

“Đây là đâu?” Cô xé tấm bọc kim loại ra khỏi nắp và cầm tay quanh cổ chai.

“Ở phòng Du Thuyền.”

“Có người lảng vảng ở đấy à?”

“Phù dâu và phù rể danh dự đang trò chuyện cạnh lò sưởi. Trông họ không có vẻ vội vã muốn rời đi.”

Vào cái ngày mẹ cô dâu khăng khăng rằng con chó con lắm mồm của bà phải là một phần lễ cưới, cô đã ngờ rằng bà có thể đem đến rắc rối. Đêm qua, ở bữa tối tổng duyệt, bà mẹ đã xuất hiện trong bộ đồ bó sát màu hồng cùng giày cao gót của vũ nữ thoát y và xác nhận lại nghi ngờ của Autumn. “Cho họ thêm vài phút nữa, rồi làm những gì cô có thể làm để đưa họ đi nhé,” cô nói, và đẩy nút bần cho tới khi nó rời ra cùng một tiếng nổ nhẹ.

Bong bóng ga nhỏ xíu lấp đầy không khí bằng tiếng xì xèo nhẹ khi cô rót rượu vào hai ly pha lê. Có quá nhiều thứ phải làm, và cô thầm nhẩm lại danh sách. Có rất nhiều thứ dính dáng tới việc tổ chức một đám cưới, kể cả những thứ nhỏ nhặt. Mọi thứ phải được lên thời gian một cách hoàn hảo, và kể cả những rối loạn nhỏ nhất cũng có thể biến một đám cưới trong mơ thành một đám cưới địa ngục.

Mải mê với danh sách những việc phải làm trong đầu, Autumn nhét chai rượu vào lại trong xô và cầm lấy hai chiếc ly. Cô quay vào phòng và suýt nữa đâm đầu vào một bờ ngực rộng khoác áo sơ mi trắng, cà vạt sọc xanh nước biển và áo khoác xanh. Chiếc cặp da của cô tuột khỏi tay khi cô nâng mắt khỏi bờ ngực rộng, đi qua nút thắt dưới một cái cổ rộng. Cô nhìn lên trên quai hàm vuông và đôi môi sạm, dọc lên một cái mũi hơi khoằm, và dừng lại ở một đôi mắt có màu của bầu trời mùa hè nóng nực.

Gần thế này, Sam còn đẹp trai hơn ở xa. Đẹp trai như cái đêm lần đầu tiên cô gặp anh trong một quán rượu đông đúc ở Las Vegas. Một vị thánh cao ráo, tóc vàng, mắt xanh được đưa từ thiên đường xuống. Cái mũi, vết sẹo trên gò má cao và nụ cười chất chứa những ý định xấu xa của anh đáng ra phải là một dấu hiệu to đùng cho thấy anh chẳng phải là thiên thần mới đúng.

Dạ dày cô thít lại, nhưng cô mừng khi khám phá ra rằng đó không phải là một cơn giận đang bùng phát. Cô cũng không cảm thấy khao khát được lên gối anh. Dù cô không thích Sam, anh cũng đã trao cho cô thứ tuyệt vời nhất trong đời cô. Cô không biết cuộc đời mình sẽ thế nào nếu không có Conner. Cô thậm chí còn không thích tưởng tượng đến điều đó, và vì lý do ấy, độc nhất lý do ấy, cô hít mạnh và dán một nụ cười lên mặt. Cùng nụ cười cô dùng với các cô dâu muốn có hổ trắng hay được đưa dọc lối đi trên một cái ngai màu hồng. Cô sẽ tỏ ra dễ chịu cho dù điều ấy có giết cô đi nữa.