Người Đưa Tin

Chương 8: Venice




Đó là một nhà thờ nhỏ bằng đất nung, được xây cho một giáo xứ nghèo ở một quận của Cannaregio. Còn quá ít đất để xây dựng một quảng trường đàng hoàng cho nhà thờ, vì thế lối vào chính dẫn ngay ra con đường San Giovanni Crisosmoto nhộn nhịp. Một thời Gabriel từng có chìa khóa vào nhà thờ. Giờ đây, anh vào đây như một du khách bình thường, và dừng lại một lát tại cổng nhà thờ để đợi cho mắt mình điều chỉnh với ánh sáng yếu ớt bên trong. Một làn gió mát mang theo mùi nến thơm mơn man trên má anh. Anh nhớ lại lần cuối cùng đặt chân lên nhà thờ. Đó chính là đêm Shamron đến báo anh đã bị kẻ thù phát hiện, và đã đến lúc phải về nhà. Sẽ không còn dấu vết của cậu ở đây,Shamron đã nói. Mọi việc sẽ giống như cậu chưa bao giờ tồn tại.

Anh băng qua gian giữa ấm cúng tới nhà nguyện Thánh Jerome ở cánh bên phải của nhà thờ. Bức họa trang trí sau bàn thờ khuất trong bóng râm. Gabriel thảy một đồng xu vào máy cảm ứng ánh sáng, và các bóng đèn được bật lên, chiếu sáng kiệt tác cuối cùng của Giovanni Bellini. Anh đứng một lát, tay đỡ cằm, đầu hơn nghiêng sang một bên, ngắm bức tranh trong ánh sáng đầy đủ. Francesco Tiepolo đã làm rất tốt khi hoàn tất tác phẩm cho anh. Thật ra Gabriel không thể phân biệt chỗ nào là nét vẽ của anh ngưng lại và được bắt đầu bởi Tiepolo. Cũng không có gì đáng ngạc nhiên, anh nghĩ. Họ đều học việc với nhà phục chế tranh vĩ đại người Venice Umberto Conti.

Máy cảm ứng ánh sáng hết thời gian, những bóng đèn tự động tắt, đẩy bức vẽ lui vào màn đêm. Gabriel quay trở lại phố đi về hướng tây băng qua Cannaregio cho đến khi anh đến một cây cầu sắt, cây cầu duy nhất ở Venice. Vào thời Trung Cổ đã từng có một cánh cổng giữa cầu. Ban đêm một người lính canh theo đạo Thiên Chúa sẽ đứng gác để những người bị giam cầm đầu bên kia không thể chạy thoát. Anh băng qua cầu đi vào đoạn đường nằm dưới toà nhà. Một quảng trường lớn mở ra cuối đường, quảng trường Campo Del Ghetto Nuovo, trung tâm khu nhà cổ xưa của người Do Thái ở Venice. Hơn năm ngàn người Do Thái đã từng sống ở đây. Bây giờ nơi này chỉ có nhà của bốn trăm dân Do Thái trong thành phố, hầu hết là những người lớn tuổi sống trong khu Cộng đồng người Do Thái ở Venice.

Anh băng qua khu nhà và dừng lại trước số nhà 2899. Một tấm bảng bằng đồng có ghi dòng chữ CỘNG ĐỒNG NGƯỜI DO THÁI Ở VENICE. Anh nhấn chuông và nhanh chóng quay lưng lại với chiếc camera ở lối vào. Sau một lúc yên lặng một giọng phụ nữ quen thuộc, phát ra trên bộ đàm. “Quay người lại”, nàng nói. “Cho tôi thấy mặt anh”.

Anh ngồi chờ tại chỗ nàng chỉ, trên băng ghế gỗ trong góc khu phố tràn ngập ánh mặt trời, gần đài tưởng niệm những người Do Thái ở Venice bị tập trung tháng 12/1943 và bị giết chết ở Auschwitz. Mười phút trôi qua, sau đó thêm mười phút nữa. Cuối cùng nàng bước ra khỏi văn phòng, thong thả băng qua quảng trường. Đến cách anh mấy bước chân, nàng dừng lại tựa như không dám bước đến gần hơn. Gabriel, vẫn đang ngồi, đẩy kính râm lên trán ngắm nàng trong ánh nắng dịu dàng của mùa thu. Nàng mặc quần jeans bạc màu, bó sát cặp đùi thon thả và loe ra ở ống. Chiếc áo trắng được cắt may ôm vào cơ thể, lộ rõ những đường cong. Mái tóc nâu vàng bất trị được giữ lại bằng sợi dây sa-tanh màu chocolate. Làn da ô liu bóng mượt mà. Gabriel nghĩ nàng mới trở về từ vùng có nhiều ánh nắng. Mắt nàng to giống mắt của những người phương Đông, và có màu kẹo caramel nâu nhạt điểm vàng. Màu mắt ấy luôn thay đổi theo tâm trạng. Lần cuối Gabriel nhìn vào mắt nàng là lúc chúng đang đen sẫm lại vì giận dữ và rợp bóng nhờ mascara. Nàng khoanh tay trước ngực đầy vẻ phòng thủ và hỏi rằng anh đang làm cái quái gì ở Venice.

“Chào Chiara. Trông em thật dễ thương”.

Làn gió nhẹ thổi vài sợi tóc vương vào mặt nàng. Nàng lấy tay trái gạt ra. Bàn tay không còn chiếc nhẫn đính hôn Gabriel trao cho nữa. Trên những ngón tay giờ đây là những chiếc nhẫn khác, còn trên cổ tay nàng là một chiếc đồng hồ vàng. Gabriel tự hỏi phải chăng chúng là quà của một người nào đó.

“Em không nghe tin tức gì của anh kể từ khi em rời Jerusalem”, Chiara nói bằng giọng đều đều mà nàng luôn cố ý sử dụng mỗi khi muốn chế ngự cảm xúc. “Đã nhiều tháng rồi. Bây giờ anh xuất hiện ở đây mà không hề báo trước, và anh mong chờ em dang rộng hai tay và mỉm cười đón anh sao?”

“Không báo trước? Anh đến đây vì em yêu cầu anh đến”.

“Em? Anh đang nói cái quái gì thế?”

Gabriel nhìn sâu vào mắt nàng. Anh có thể thấy nàng không nói dối. “Tha lỗi cho anh”, anh nói. “Hình như anh bị đưa đến đây do vài người cố tình sắp xếp”.

Nàng lấy tay nghịch đầu khăn choàng cổ, rõ ràng rất thích thú khi thấy anh không thoải mái. “Vài người vào?”

Donati và Tiepolio, Gabriel thầm nghĩ. Có thể cả Giáo hoàng nữa. Anh đột ngột đứng dậy. “Chuyện ấy không quan trọng”, anh nói. “Anh xin lỗi, Chiara. Rất vui được gặp lại em”.

Anh quay người dợm chân bước đi, nhưng nàng giữ cánh tay anh lại.

“Chờ đã”, nàng nói. “Anh ở lại vài hôm đi”.

“Em sẽ cư xử lịch sự chứ?”

“Phép lịch sự là dành cho những cặp ly dị nhưng đã có con với nhau”.

Gabriel ngồi xuống lại, nhưng Chiara vẫn đứng. Một người đàn ông đeo kính đen da rám nắng vừa ra khỏi đoạn đường dưới tòa nhà. Anh ta nhìn Chiara đầy ngưỡng mộ, sau đó băng qua khu nhà rồi biến mất sau chiếc cầu dẫn tới giáo đường cổ của dân Do Thái ở châu Âu ở cuối phía khu nam Do Thái. Chiara dõi theo người đàn ông, sau đó nghiêng đầu ngắm kỹ vẻ bề ngoài của Gabriel.

“Có ai nói với anh là trông anh giống người đã cứu mạng Đức Giáo hoàng chưa?”

“Anh ta là người Ý”, Gabriel đáp. “Em không đọc tin về anh ta trên báo à?”

Nàng phớt lờ. “Khi xem đoạn quay phim trên truyền hình, em nghĩ mình đang gặp ảo giác. Em biết người đó là anh. Đêm hôm ấy, sau khi mọi chuyện lắng xuống, em kiểm tra với Rome. Shimon bảo anh đã đến Vatican”.

Một chuyển động đột ngột trong khu nhà khiến nàng quay đầu. Nàng nhìn người đàn ông có bộ râu điểm bạc đội mũ phớt đi nhanh về phía lối vào trung tâm cộng đồng. Đó chính là cha nàng, giáo sỹ Do Thái chính ở Venice. Nàng nhấc mũi ủng phải lên chuyển trọng tâm về gót. Gabriel biết tư thế này rất rõ. Điều này nghĩa là sắp có sự khiêu khích.

“Tại sao anh đến đây, Gabriel Allon?”

“Có người bảo em muốn gặp anh”.

“Thế nên anh tới. Chỉ thế thôi sao?”

“Chỉ như thế”.

Khóe môi nàng nhếch lên nở thành nụ cười.

“Chuyện gì khiến em vui thế?”. Anh hỏi.

“Tội nghiệp Gabriel. Anh vẫn còn yêu em, đúng không?”

“Hồi trước anh từng như thế”.

“Nhưng không yêu đủ để cưới em?”

“Chúng ta có thể tranh cãi chuyện này ở chỗ riêng tư hơn không?”

“Bây giờ chưa được. Em cần phải trông coi văn

phòng. Công việc kia là của em”, nàng nhại lại giọng Gabriel ngày trước.

“Cho anh gửi lời chào Giáo sỹ Zolli”.

“Em không nghĩ đây là ý kiến hay đâu. Giáo sỹ Zolli vẫn còn đang rất giận dữ với anh”.

Nàng móc chìa khóa trong túi áo ra thảy cho Gabriel. Anh nhìn chiếc chìa khóa một lúc. Thậm chí sau nhiều tháng chia tay, Gabriel vẫn không hình dung được Chiara sống một mình như thế nào.

“Nói luôn để anh khỏi thắc mắc, em sống ở đó một mình. Thực ra anh cũng không có quyền được biết, nhưng sự thật là thế. Anh cứ nghỉ ngơi thoải mái. Trông anh phờ phạc quá”.

“Ngày hôm nay chúng ta toàn dành cho nhau những lời khen”. Anh nhét chìa khóa vào túi. “Địa chỉ là gì?”

“Anh biết không, so với một gián điệp, anh nói dối rất dở”.

“Em đang nói về chuyện gì thế?”

“Anh biết địa chỉ của em, Gabriel. Anh có địa chỉ từ tổ chức, nơi mà anh lấy số điện thoại của em”.

Nàng cúi người đặt một nụ hôn lên má anh. Khi tóc nàng xòa xuống mặt Gabriel, anh nhắm mắt lại hít sâu mùi hương vani ngọt ngào.

Toà nhà của nàng nằm ở bên kia đại kênh đào ở Santa Croce trong một khu đất nhỏ được bao kín và chỉ duy nhất một con đường để ra vào. Gabriel có cảm giác được quay trở lại quá khứ khi bước vào căn hộ của Chiara. Phòng khách như thể chỉ được trang hoàng bằng vô số các bức ảnh. Tạp chí và các tờ báo cũ cũng được sắp xếp một cách gọn gàng đầy tính nghệ thuật. Anh bước đến bàn phòng khách nhìn những bức ảnh đóng khung: Chiara chụp với cha mẹ; Chiara chụp cùng anh trai đang sống ở Padua; Chiara chụp cùng người bạn trên bãi biển Galilee. Chính trong chuyến đi này, khi mới hai mươi lăm tuổi nàng lọt vào tầm ngắm của một người chiêu mộ nhân tài của Văn phòng. Sáu tháng trôi qua, sau khi được huấn luyện và đánh giá, người ta gửi trả nàng về châu Âu làm bat leyha, nữ nhân viên tháp tùng. Không có bức ảnh nào Chiara chụp cùng Gabriel, vì họ chưa bao giờ chụp ảnh với nhau.

Gabriel đến bên cửa sổ, nhìn ra ngoài. Bên dưới ba mươi bộ, dòng Rio del Megio với làn nước xanh ngắt lấp lánh lười biếng chảy qua. Dây phơi đồ căng ngang sang dãy nhà đối diện. Quần áo phơi xiên xẹo trên dây, và ở đầu bên kia một phụ nữ lớn tuổi ngồi bên cửa sổ mở tay đặt lên khung. Bà có vẻ ngạc nhiên khi nhìn thấy Gabriel. Anh giơ chìa khóa lên bảo mình là bạn Chiara, vừa từ Milan đến.

Anh hạ màn cửa và đi vào bếp. Trong bồn rửa là lưng chén sữa và vụn bánh mì nướng. Chiara vốn gọn gàng trong mọi việc, nhưng nàng lại luôn để chén bát ăn sáng trong bồn cho đến cuối ngày. Gabriel rất bực mình về chuyện này, anh cứ để nguyên chén dĩa không rửa và đi vào phòng ngủ của nàng.

Anh quăng túi lên chiếc giường chưa trải, và vào phòng tắm bật vòi hoa sen, sau khi cưỡng lại mong muốn lục lọi tủ quần áo và ngăn kéo. Anh mở tủ thuốc tìm lưỡi lam, nước hoa, hay bất cứ bằng chứng nào khác về sự hiện diện của đàn ông. Có hai thứ anh chưa bao giờ thấy: Thuốc ngủ và thuốc an thần. Anh trả chúng về đúng vị trí cũ. Chiara cũng giống như Gabriel đã được huấn luyện để biết cách lưu ý đến những thay đổi nhỏ nhặt nhất.

Anh cởi đồ quăng vương vãi trên đường đi, sau đó đứng tắm rất lâu dưới vòi hoa sen. Tắm xong, anh quấn khăn quanh eo đi vào phòng ngủ. Chiếc chăn lông vịt còn vương mùi cơ thể Chiara. Khi ngả đầu lên gối của Chiara, chuông Santa Croce điểm báo giữa trưa. Anh nhắm mắt đi vào giấc ngủ sâu không mộng mị.

Gabriel thức dậy buổi chiều tà vì nghe tiếng chìa khóa tra vào ổ, theo sau là tiếng giầy của Chiara trên lối vào. Nàng không cần thông báo mình đã về. Nàng biết anh luôn tỉnh dậy khi nghe tiếng động hay tiếng di chuyển nhẹ nhất. Khi vào phòng ngủ, nàng hát khe khẽ, một bài nhạc pop Ý ngớ ngẩn mà nàng biết anh rất ghét.

Chiara ngồi ghé vào mép giường, đủ gần để cạ eo vào đùi Gabriel. Anh mở mắt nhìn nàng cởi giầy và quần jeans. Nàng ấn lòng bàn tay vào ngực anh. Khi anh gỡ dải ruy băng ra khỏi tóc, những lọn tóc nâu vàng xòa xuống mặt và vai nàng. Chiara lặp lại câu hỏi đã đặt cho anh khi ở khu nhà của người Do Thái: Tại sao anh đến đây, Gabriel Allon?

“Anh tự hỏi không biết chúng ta có thể thử lại lần nữa hay không”, Gabriel đáp.

“Em không cần thử. Em đã thử một lần, và rất thích”.

Anh tháo chiếc khăn choàng khỏi cổ nàng và chầm chậm cởi từng nút áo. Chiara cúi xuống hôn anh. Giống như nụ hôn của Đức mẹ Alba trong tranh Raphaet.

“Nếu anh làm tổn thương em một lần nữa, em sẽ ghét anh mãi mãi”.

“Anh sẽ không làm em tổn thương”.

“Em cứ mơ thấy anh mãi”.

“Giấc mơ đẹp à?”

“Không”, nàng đáp. “Em toàn mơ thấy cái chết của anh”.

Dấu vết duy nhất chứng tỏ sự hiện diện của Gabriel trong căn nhà là tập vẽ phác họa. Anh lật sang trang mới và ngắm Chiara bằng con mắt chuyên nghiệp. Nàng đang ngồi cuối ghế sô pha, đôi chân dài gấp lại bên dưới người và cơ thể choàng trong miếng trải giường bằng lụa. Khuôn mặt nàng hướng về phía cửa sổ và sáng lên bởi ánh chiều tà. Gabriel nhẹ nhõm khi thấy những nếp nhăn đầu tiên xung quanh mắt Chiara. Anh luôn sợ nàng quá trẻ so với anh và một ngày nào đó, khi anh già, nàng sẽ bỏ anh theo người khác. Anh chỉnh tấm vải giường để lộ bộ ngực của nàng. Nàng nhìn anh giây lát, sau đó nhắm mắt lại.

“Anh gặp may khi em vẫn còn ở đây đấy”, nàng nói. “Nhỡ đâu em đã đi làm nhiệm vụ ở nơi khác rồi thì sao”.

Nàng là một người hay nói. Từ lâu Gabriel đã biếtâ không thể yêu cầu nàng im lặng khi ngồi làm mẫu cho anh vẽ.

“Sau phi vụ ở Thụy Sĩ, em đã ngừng làm việc rồi”.

“Sao anh biết về vụ đó?”

Gabriel nhìn nàng bí hiểm qua tập vẽ phác thảo và yêu cầu nàng không được cử động.

“Thông tin như vậy là trên mức cần thiết. Xem chừng anh có thể bước vào Tổ chức bất cứ lúc nào anh thích và tìm hiểu xem em đang làm gì”. Nàng dợm quay đầu, Gabriel liền ngăn lại bằng tiếng suỵt suỵt. “Nhưng em cũng không ngạc nhiên. Họ đã giao cho anh chức Giám đốc chưa?’

“Chức Giám đốc nào?” Gabriel cố tình không hiểu.

“Lực lượng Đặc nhiệm”.

Gabriel thú thật rằng vị trí đó đã được đề nghị và chấp nhận.

“Như vậy bây giờ anh là sếp của em”, nàng trỏ tay ra cửa. “Em cho rằng chúng ta vừa vi phạm nửa tá sắc lệnh của Văn phòng về mối quan hệ giữa cán bộ cao cấp và nhân viên”.

“Có lẽ”, Gabriel đồng ý. “Nhưng anh vẫn chưa chính thức nhậm chức”.

“Ồ, cám ơn Chúa. Em không muốn Giám đốc Gabriel gặp nhiều rắc rối vì đời sống tình dục của mình. Chúng ta còn được hưởng thụ cơ thể của nhau bao lâu nữa trước khi gặp rắc rối với phòng Nhân sự?”

“Bao lâu tùy thích. Miễn là chúng ta phải báo cáo với họ vào một lúc nào đó”.

"Thế còn Chúa thì sao, Gabriel? Lần này anh sẽ thông báo với Chúa như thế nào?”. Căn phòng bỗng rơi tõm vào thinh lặng, chỉ còn tiếng bút vẽ soạt soạt trên giấy. Nàng đổi chủ đề. “Anh biết bao nhiêu thông tin về vụ em làm ở Thụy Sĩ?”

“Anh biết em đi Zermatt để quyến rũ một tay buôn bán vũ khí người Thụy Sĩ sắp sửa ký hợp đồng với một đối tượng gây bất lợi cho chúng ta. Văn phòng đại lộ King Saul muốn biết khi nào chuyển hàng và chuyển đi đâu”.

Sau một hồi im lặng, anh hỏi nàng đã ngủ với gã người Thụy Sĩ chưa.

“Sự việc không phải như anh nghĩ đâu. Em thực hiện nhiệm vụ cùng một nhân viên khác. Em chỉ làm nhiệm vụ cầm chân tên bán vũ khí lại quán bar trong khi tay nhân viên ấy đột nhập phòng hắn lục lọi máy tính. Thêm nữa, anh cũng biết bat leveyha không phải là quan hệ tình dục. Chúng ta thuê những người chuyên nghiệp làm việc này”.

“Không phải lúc nào cũng vậy”.

“Em không bao giờ đối xử với thân thể mình như thế được. Em là cô gái ngoan đạo”. Chiara cười tinh nghịch. “Vụ đó bọn em đã thành công. Chiếc thuyền bị đắm một cách bí ẩn gần bãi biển Crete. Vũ khí bây giờ đang nằm dưới đáy đại dương”.

“Anh biết”, Gabriel đáp. “Em nhắm mắt lại đi”.

“Anh thử bắt em xem”, nàng nói rồi làm theo điều Gabriel yêu cầu. “Anh không hỏi xem em có ở cùng với ai khác sau khi chúng ta chia tay không à?”

“Điều ấy chả liên quan gì đến anh”.

“Nhưng chắc anh sẽ tò mò muốn biết. Em có thể hình dung anh làm gì với căn hộ của em sau khi bước chân qua cửa”.

“Nếu ý em muốn nói là anh lục lọi đồ đạc của em, thì xin thưa, anh không làm”.

“Ồ, thôi nào”.

“Tại sao em mất ngủ?”

“Anh thật sự muốn em trả lời câu hỏi này ư?”

Anh không đáp lại.

“Chẳng ai khác cả, Gabriel, nhưng anh biết điều ấy, đúng không? Bất khả thi?”. Nàng nhìn anh, cười cay đắng. “Họ không mảy may đề cập khi gọi chúng ta tham gia câu lạc bộ đặc biệt này. Họ không hề nhắc đến khả năng phải dối trá mãi mãi, hay sự cảnh giác với những người không phải là thành viên. Phải chăng đó là lí do duy nhất khiến anh yêu em, Gabriel? Bởi vì em cùng thuộc Văn phòng?”

“Anh thích món fetuccini và nấm của em. Em nấu fetuccini và nấm ngon nhất Venice”.

“Thế còn anh thì sao? Anh có chung đụng với người phụ nữ nào khác khi vắng mặt em không?”

“Anh dành hết thời gian cho một bức vẽ rất lớn”.

“À, phải, em quên mất nỗi đau buồn của anh. Anh không thể làm tình với một phụ nữ khi cô ta không biết anh giết người vì đất nước. Em chắc anh có thể tìm người phù hợp nếu anh thật sự muốn. Mọi phụ nữ trong Văn phòng đều thèm muốn anh”.

“Em nói nhiều quá. Anh sẽ không thể vẽ xong nếu em cứ nói luôn như thế”.

“Em đói. Anh không nên nhắc đến thức ăn. Nhân tiện, Leah thế nào rồi?”

Gabriel dừng bút vẽ trừng mắt nhìn Chiara qua bản phác thảo, tựa như muốn bảo nàng anh không thích nói về hai chủ đề liền nhau không mấy dễ chịu là thức ăn và vợ anh.

“Em xin lỗi”, Chiara nói. “Chị ấy như thế nào rồi?”

Gabriel nói Leah vẫn khỏe, và kể rằng một tuần anh lái xe đến bệnh viện tâm thần trên núi Herzl hai hoặc ba lần thăm cô. Nhưng khi kể những điều này, trí óc anh lại quay về nơi khác: trên một con đường nhỏ ở Viên cách Judenplatz không xa; một vụ nổ bom xe hơi đã giết con trai anh và lực đẩy đã tàn phá cơ thể cũng như cướp đi trí nhớ của Leah. Suốt mười ba năm cô yên lặng. Gần đây, tại khu vườn bệnh viện, cô đã hỏi anh cùng câu hỏi giống Chiara. “Anh có người phụ nữ nào khác khi em mất trí nhớ không”. Anh đã trả lời cô thật lòng.

“Anh có yêu cô gái này không, Gabriel?”

“Anh yêu cô ấy, nhưng anh đã bỏ cô ấy vì em”.

“Tại sao anh phải làm điều đó, anh yêu? Nhìn em này. Em không còn gì cả. Không còn gì ngoài kỷ niệm”.

Chiara chìm vào im lặng. Ánh sáng trên khuôn mặt nàng đang nhạt dần, chuyển từ màu đỏ san hô sang xám. Người phụ nữ to béo lại xuất hiện bên cửa sổ đối diện bắt đầu kéo quần áo phơi ở ngoài vào. Chiara kéo miếng vải lên cổ.

“Em làm gì vậy?”

“Em không muốn bà Lorenzetto thấy em khỏa thân”.

Gabriel để lại một nét vẽ trên ngực nàng khi đến kéo tấm vải xuống vị trí cũ.

“Em nghĩ mình phải quay trở lại Jerusalem, trừ phi anh nói với Shamron anh không thể đảm đương Lực lượng Đặc nhiệm, vì anh phải quay trở lại Venice”.

“Việc này có vẻ thú vị đấy”.

“Thú vị, nhưng không thể. Anh là một người lính trung thành, Gabriel. Anh luôn làm điều được ra lệnh. Trước đây luôn là thế”. Nàng lau vệt đen của cây cọ vẽ trên ngực. “Ít nhất em không phải trang trí lại căn hộ”.

Mắt Gabriel vẫn nhìn xuống bản vẽ. Chiara quan sát biểu hiện của anh, sau đó cất tiếng hỏi. “Gabriel, anh đã làm gì căn hộ của chúng ta?”

“Anh cũng cần một nơi làm việc chứ”.

“Vậy anh chỉ di chuyển vài thứ thôi à?”

“Em biết không, anh đang đói ngấu”.

“Gabriel Allon, còn gì trong căn hộ không?”

“Tối nay trời ấm áp”, anh nói. “Chúng ta đón thuyền đến Murano ăn món cá đi”.