Nữ Thám Tử Nancy Drew - Chạy Đua Với Thời Gian

Chương 11: Nước rút lúc nửa đêm




“Ở ĐÂY? SĨ QUAN RAINEY Ở ĐÂY SAO Ạ?” tôi hỏi. Thật không thể tin vào tai mình. Đôi khi một thám tử phải tìm tòi, điều tra, học hỏi và nghiên cứu chán chê mới ra được. Nhưng đôi khi lại chỉ đơn giản gặp may là xong.

“Ừ,” bà Mahoney trả lời bằng nụ cười ấm áp. “Cậu ấy đang báo cáo cho ta về vụ trộm và diễn biến của nó. Vào uống trà luôn nhé cháu. Ba cái đầu thể nào chẳng tốt hơn hai.” Nói rồi bà dẫn tôi đến một trong những căn phòng tôi yêu thích nhất ở River Heights này. Dù là vào thời điểm nào trong năm thì nơi đây cũng chẳng khác gì một thiên đường. Đó là một căn phòng tròn cao hai tầng với một mái vòm lớn. Tất cả các bức tường và mái vòm hoàn toàn được làm bằng những tấm kính lớn bọc trong khung bằng đồng. Khung đồng đã chuyển sang màu xanh xám tai tái. Đa số các tấm kính đều đã rất cũ, với các mẫu hoa văn gợn sóng, và thậm chí còn có cả bong bóng bên trong.

“Sĩ quan Rainey, sẵn có cậu ở đây thật hay,” bà Mahoney nói lớn khi chúng tôi bước vào phòng.

Bà đưa tôi đi qua hàng ngàn đóa hoa đang nở, hàng tá những cây cao và những loại cây trong chậu khác đang đua nhau khoe sắc. Chúng tôi đi tránh qua những bộ bàn ghế uống trà nhỏ để đến cái bàn chính đặt giữa phòng.

“Đây là Nancy Drew!” Bà Mahoney giới thiệu tôi với sĩ quan Rainey. Tôi hơi bối rối trước sự nhiệt tình của bà. Tôi đã hy vọng sẽ giữ một lý lịch khiêm tốn với người đàn ông này, và tôi càng không mong đợi sẽ được hộ tống đến thẳng trước mặt anh ta như thế này. Đôi khi bạn phải nhận luôn cả cái không may đi kèm với may mắn.

Bà Mahoney ngồi gần chỗ pha trà. Tôi ngồi cạnh bà. Sĩ quan Rainey - đã lịch sự đứng lên khi chúng tôi bước tới - ngồi phía đối diện. Tôi thích như thế. Ngồi ngay đối diện nhau, tôi có thể theo dõi nét mặt anh ta trong khi nói chuyện. Anh ta vẫn đang mặc đồng phục nhân viên an ninh của mình.

“Chào sĩ quan Rainey,” tôi nói. “Thật vui được gặp anh ở đây. Em đã muốn được nói chuyện với anh ngay từ lúc nghe về chuyện vụ trộm sáng nay.” Tôi biết chả cần phải quanh co làm gì.

Bạn có thể nhìn vào khuôn mặt của sĩ quan Rainey để học về những biểu hiện nét mặt ở con người. Anh ta dường như đi từ choáng váng, đến hoang mang, đến bực tức, đến khó xử, đến cam chịu - tất cả chỉ trong một giây ngắn ngủi.

“Nhưng làm sao cô biết được về...” anh ta bắt đầu.

“Dào, gì mà Nancy chẳng biết,” bà Mahoney nói đầy vẻ thấu hiểu. Bà thậm chí còn không ngẩng lên khi rót trà.

“Ồ, không đâu ạ,” tôi nhanh nhảu đáp lời. “Em thì biết gì chứ. Thế nên em mới muốn nói chuyện với anh, sĩ quan Rainey.”

Tôi dựa lưng vào ghế, nhấp ngụm trà đầu tiên. Tôi nhận ra hương vị của nó ngay. Đó là trà Darjeeling của Ấn Độ - tôi khoái loại này nhất, vì đối với tôi, nó có vị hơi giống sô-cô-la.

“Cô bé thậm chí còn biết cả việc ông Ralph Holman đã bị bắt,” bà Mahoney vừa nói vừa chuyền một chiếc đĩa bạc đựng bánh sandwich nhỏ xếp ngay ngắn trên một tấm khăn ăn bằng vải lanh có thêu hoa văn. Một cái đĩa bạc hai tầng khác đựng bánh quy và bánh tạc nhân việt quất.

“Nancy đến đây với một tư cách hoàn toàn chuyên nghiệp,” bà Mahoney nói tiếp, “dù cô bé là bạn tôi. Cô bé với cậu là đồng nghiệp đấy, Nancy cũng là một điều tra viên chứ chẳng phải đùa đâu.”

“Cháu biết rồi,” Sĩ quan Rainey đáp. Vẫn có vẻ hoang mang, anh ta cắn một miếng lớn sandwich kẹp bò, rồi uống một ngụm trà.

“Tôi thật sự không biết cô thuộc đội thám tử mặc thường phục hay đội thám tử ngầm nào, cho nên tôi nghĩ rằng sự tham gia của cô trong vụ này là không chính thức, có đúng không?”

“Nancy đã giải quyết nhiều vụ án mà chính sở cảnh sát của chúng ta đã gặp phải không ít khó khăn,” bà Mahoney nói. Bà ghé người qua, hạ giọng như thể đang tiết lộ một bí mật. “Tin tôi đi, cô bé biết mình đang làm gì mà.”

“Và lý do chính xác mà cô muốn nói chuyện với tôi là gì?” Sĩ quan Rainey nói sau khi khẽ mỉm cười với bà Mahoney. “Cô biết là tôi không thể tiết lộ bất cứ chi tiết nào trong khi cuộc điều tra chính thức vẫn còn đang tiếp diễn mà.”

“Dĩ nhiên rồi,” tôi nuốt thức ăn và đáp. Món bánh sandwich bò ngon tuyệt, nhất là từ trưa đến giờ tôi vẫn chưa ăn gì ngoài một miếng bánh xốp nhỏ xíu. “Em không nghĩ đến việc yêu cầu anh tự làm tổn hại công việc của mình trong vụ này đâu,” tôi tiếp tục. “Em chủ yếu quan tâm đến kẻ mà em thấy anh đã đuổi khỏi sân khấu hồi sáng nay. Cái tên đi xe đạp mặc quần soóc đỏ đã nhảy lên sân khấu để nhìn gần hơn số tiền trong két sắt ấy.”

Sĩ quan Rainey lại nhấp trà và có vẻ như đang suy nghĩ. Thật ra anh chàng này dường như đang xem xét tôi, như thể đang tự hỏi xem nên nói cho tôi biết tới mức nào.

“Phải, tôi nhớ cậu ta rất rõ,” cuối cùng anh ta nói. “Tôi cho rằng cậu ta là cua-rơ của một đội đua nào đó.”

“Anh không nghĩ hắn nhảy lên sân khấu như thế là rất lạ sao?” tôi hỏi. “Lúc đó dù anh đang quay sang nói chuyện với ai đó ở bên hông sân khấu, nhưng vẫn là ở rất gần cái két sắt. Thế mà hắn chẳng có vẻ lo lắng gì về điều đó cả. Hắn vẫn cứ nhảy lên.”

Sĩ quan Rainey mỉm cười với tôi, nhưng nụ cười thật kỳ cục. Nụ cười như muốn nói rằng, “Đừng làm phiền cái đầu nhỏ bé, xinh đẹp của cô vì những điều mà cô còn quá trẻ, quá thiếu kinh nghiệm hoặc không đủ thông minh để hiểu được.” Khiếp thật.

“À, đôi khi các vận động viên quá hăm hở nhảy vào một trò chơi, một cuộc đua hoặc gì gì đó,” anh ta nói, như thể đang dạy tôi một trong những quy tắc đầu tiên của cuộc đời. “Sự nhiệt tình và hồ hởi khiến họ làm những điều ngớ ngẩn. Tôi nghĩ cậu ta chỉ muốn nhìn cho rõ số tiền đó để tự nhắc mình nhớ mục đích thi đua mà thôi.”

“Số tiền ủng hộ năm nay nhiều hơn những năm trước đây,” bà Mahoney nói. Bà gật gù và cho một chiếc bánh quy nhân quả hạnh bọc đường vào miệng.

“Vấn đề là ở chỗ đó,” tôi nói với cả hai. “Chính cháu đã nói chuyện với tên đó rồi. Tên hắn là Jasper, và hắn thật sự không phải là thành viên của đội nào hết. Hắn có một chiếc xe đạp leo núi...”

“Xe đạp leo núi thì chắc chắn là không đua được rồi,” bà Mahoney cắt ngang lời tôi. “Cần phải có một chiếc xe đạp chạy đường trường loại tốt mới tham gia cuộc đua này được chứ.”

“Chính xác ạ,” tôi nói. “Hắn chưa từng là thành viên của bất kì đội đua nào và cũng không hề có ý định tham gia cuộc đua. Vì thế, có lẽ hắn quan tâm đến món tiền đó là vì lý do khác.”

“Tôi hiểu ý cô,” Sĩ quan Rainey nói. Anh ta đặt tách trà xuống và nhoài người về trước, khuỷu tay tì trên tấm khăn trải bàn có đăng-ten. “Và tôi không chỉ ngạc nhiên thôi mà còn thật sự biết ơn cô. Tôi được biết cậu ta là một trong những tay đua đấy.”

“Ai nói vậy?” tôi hỏi.

“Chính cậu ta,” Sĩ quan Rainey nói, vung tay lên không. “Chiều nay tôi đã theo dõi cậu ta ngay khi biết số tiền đã bị mất. Tất nhiên, đối với việc cậu ta dám nhảy lên sân khấu cũng làm tôi thắc mắc y như cô vậy. Phải nói là tôi rất bối rối vì việc ấy đã xảy ra ngay trước mũi tôi - xảy ra ngay dưới sự kiểm soát của tôi.” Mặt anh ta lại lộ vẻ lo lắng.

“Nào, nào,” bà Mahoney vỗ nhẹ cánh tay anh chàng sĩ quan. “Tự trách mình về những chuyện đã xảy ra thế là đủ rồi. Mục tiêu của chúng ta bây giờ là tìm lại số tiền và đưa tên trộm ra trước vành móng ngựa.”

“Vâng, cảm ơn bác. Nhưng từ giờ cho đến khi chính cháu tìm ra được thủ phạm thì cháu vẫn cảm thấy có lỗi lắm lắm.” Sĩ quan Rainey nói. “Đáng lý không nên có chuyện như vậy xảy ra trong khi cháu phụ trách canh chừng cái két sắt đó, và cách duy nhất để cháu lấy lại danh dự là đưa tên trộm ra trước pháp luật.”

“Còn ông Ralph Holman thì sao?” Tôi hỏi. “Hình như cảnh sát River Heights kết tội ông ấy về điều gì đó. Anh có biết là tội gì không?”

“Ta không bao giờ tin ông ấy có liên quan gì đến vụ trộm,” bà Mahoney nói. “Ta biết Ralph rất rõ. Ừ thì, gần đây ông ấy có gặp một số vấn đề về tài chính, ai mà chẳng có lúc như vậy! Nhưng ông ấy không phải loại người sẽ làm điều phạm pháp để bù đắp cho những thất bại của mình. Ta tin chắc sẽ chẳng bao giờ có thể kết tội ông ấy đã lấy cắp số tiền ủng hộ của giải đâu. Đó chẳng qua là kiểu làm việc của cảnh sát trưởng McGinnis thôi: bắt ai đó ngay lập tức, chẳng cần biết người ta có phạm tội hay không.”

“Anh nói đã theo dõi tên Jasper đó ạ,” tôi nói với sĩ quan Rainey. “Hắn có sống trong thị trấn không? Em không nhớ là có gặp hắn ở đây rồi.”

“Không hẳn vậy,” Rainey nói. “Tôi nghĩ cậu ta sống đâu đó phía Nam River Heights. Tôi cũng không rõ lắm, nhưng khi nói chuyện với Jasper thì cậu ta vẫn đang loanh quanh trong thị trấn.”

“Và sau khi nói chuyện anh vẫn xem hắn là kẻ tình nghi chứ?” tôi hỏi.

“Đúng vậy. Và cô không cần lo lắng về vụ án này đâu. Tôi sẽ tìm thấy tên trộm, cứ tin tôi đi. Tôi sẽ tìm thấy số tiền và trả chúng vào lại két sắt.”

“Chúc anh may mắn,” tôi nói, rồi đứng lên. “Cám ơn bác nhiều lắm ạ, bác Mahoney. Bác không cần tiễn đâu, cháu tự về được mà.”

“Cám ơn vì cháu đã đến, Nancy,” bà nói. “Lúc nào ta cũng rất vui khi được gặp cháu.”

Tôi chậm rãi đạp xe rời khỏi khu nhà của bà Mahoney. Giọng chú Luther vang vang trong đầu, mách bảo tôi đi theo hướng dòng sông. Rồi tôi nghe giọng chị Susie nói Jasper sống đâu đó mé đầu sông, còn sĩ quan Rainey thì lại nói anh ta nghĩ Jasper sống ở phía nam River Heights. Hừm.

Sân bay quốc tế gần nhất nằm ở thủ phủ của bang, phía dưới cuối sông. Sẽ là nơi lý tưởng để biến mất hay để tẩu thoát nếu vừa mới chôm được hàng chục ngàn đô từ một quỹ từ thiện...

Tôi chỉ còn cách con sông khoảng ba dãy nhà. Khi đến nơi, tôi rẽ qua hướng nam. Hầu hết các dặm đất đai dọc theo nơi đây là những khu còn hoang sơ, các con đường công cộng, và các công viên. Không có nhiều người sống ở đó. Nếu Jasper thật sự sống ở phía nam dọc theo sông, tôi nhất định sẽ tìm ra hắn - dù có phải kiểm tra từng căn nhà một hay phải đi lang thang dọc lối đó, tôi cũng sẽ làm.

Tôi cũng lên kế hoạch kiểm tra các điểm neo tàu khuất khỏi tầm nhìn, cũng như canh chừng bất cứ ai di chuyển trên sông vào đêm nay. Tôi có tấm hình chụp dấu bánh xe của chiếc xe đạp leo núi, biết đâu cái đó sẽ có ích thì sao. Nếu may mắn, tôi sẽ tìm được cùng một dấu bánh xe giống y vậy dọc theo bờ sông đầy bùn này, rồi chỉ cần lần theo dấu vết từ chỗ đó thôi là được.

Giờ tôi đã có nhiều thứ để kể với Bess, George, và Ned. Thế là tôi thò tay ra sau yên xe lấy điện thoại. Tôi không biết chỗ họ có bắt được sóng điện thoại không, thế nên tôi thực sự phấn khởi khi nghe tiếng Ned trả lời ngay sau hồi chuông đầu tiên.

“Nancy, cuối cùng em cũng gọi!” Ned nói. “Có chuyện gì thế hả? Em đang ở đâu? Em đang làm gì thế?”

“Em đang chạy về hướng nam dọc theo dòng sông,” tôi nói. “Đội mình đi được tới đâu rồi anh?”

“Chưa tới được hồ Thiên Nga,” Ned nói. “Nhưng Bess khá lắm. Đội mình chỉ chậm hơn vài khúc cua thôi, không nhiều lắm... chậm hơn đội Deirdre khoảng hai mươi phút. George rốt cuộc cũng đã đột nhập được vào hệ thống GPS, nên bọn anh đã biết chính xác đội Deirdre đang cắm trại ở đâu.”

“Thế còn đội mình đang ở đâu?”

“Bọn anh ở chỗ bờ sông, gần Mũi Đá.”

“Em đang chạy về hướng đó đây. Một tiếng nữa là em tới nơi.”

“Em đang chạy về hướng đó đây. Một tiếng nữa là em tới nơi.”

“Được rồi, khi nào đến thì nhớ giữ yên lặng,” Ned nhắc. “Đội Deirdre ở không xa lắm, và tụi anh không muốn bọn nó biết là em đang đến đâu.”

“Em sẽ làm như vậy,” tôi nói. Tôi tắt máy, thấy mừng vì sắp gặp lại các bạn - hơn hết là sẽ được thay đồ và có dịp nghỉ ngơi.

Khi đến gần Mũi Đá, tôi không đạp nữa mà thả dốc hết quãng đường còn lại hướng xuống bờ sông. Tôi thấy như được tiêm một lượng vừa đủ chất gây phấn khích và có cảm giác ấm áp khi nhìn thấy đám lửa trại nhỏ mà các bạn tôi nhóm lên.

Vừa gặp là cả bọn túm tụm nói chuyện ngay - nhưng là nói trong yên lặng. Chúng tôi biết giọng mình có thể vang xa đến tận điểm cắm trại phía trên sông. Và dĩ nhiên chúng tôi không muốn Deirdre hay băng đảng của con nhỏ đó nghe lén được gì.

“Bess cừ lắm đấy,” George kể. “Nó chạy sát nách Deirdre luôn. Còn tao đang rất sung sức cho vòng đua sáng mai. Khi đua ngược dòng, tao phải vùi thằng Thad Jensen đó xuống bùn mới được!”

“Em đã phát hiện được gì rồi, Nancy?” Ned hỏi. “Kể cho tụi anh biết chuyện gì đang diễn ra đi.”

Tôi kể lại cả ngày của mình cho các bạn nghe: nói chuyện với chú Luther, bị cảnh sát trưởng McGinnis bắt gặp trong lúc đang lảng vảng ở cửa sau của ngân hàng, thấy ông Holman bị còng tay dắt đi, đào vết bánh xe đạp leo núi, nói chuyện với Quần Đỏ tại tiệm của chị Susie, và phỏng vấn sĩ quan Rainey ở nhà bà Mahoney.

“Vậy là vẫn chưa thu hoạch được gì nhiều, hả?” George cười nói.

“Ừ, phải,” tôi gượng cười đáp lời.

“Hình như Quần Đỏ là thủ phạm đấy, bà có nghĩ thế không?” Bess hỏi.

“Có vẻ là vậy,” tôi trả lời. “Nhưng cũng không biết... hắn không hành động giống như một người đang toan tính một cuộc tẩu thoát lớn. Điều đó làm tôi hơi băn khoăn. Còn ông Holman sao lại dính dáng vào vụ này chứ? Tôi có cảm giác thiếu mất chi tiết quan trọng nào đó, nhưng lại không thể chạm tay tới được.”

“Em có chắc là không muốn tụi anh cùng tham gia không, tụi mình sẽ cùng nhau tìm ra kẻ xấu đó,” Ned thêm vào. “Biết đâu tụi anh giúp được thì sao.”

“Em biết chứ, tuy vẫn còn nhiều điều đáng nghi nhưng chúng ta vẫn phải để tâm vào cuộc đua. Em sẽ phải giải quyết vụ này - trong khi đó, đội chúng ta vẫn cần hoàn thành những phần đóng góp của mình.”

“Và nghiền nát con nhỏ Deirdre với mấy thằng kia xuống đường luôn,” George nói thêm. Luôn luôn có tinh thần tranh đấu, đó chính là George.

“Nhưng nếu bà không tìm được số tiền đó thì ai thắng cuộc đua cũng đâu quan trọng gì nữa,” Bess chỉ ra.

“Tôi sẽ tìm ra số tiền đó,” tôi nhấn mạnh. “Còn ba người thì sẽ thắng cuộc đua!”

Nói như vậy, tôi lại cảm thấy có một luồng phấn khích khác. Một sự thôi thúc chảy rần rật bên trong tôi. Tôi phải làm tốt lời hứa của mình.

Tôi thay nhanh bộ đồ đua khác, rồi tròng thêm bên ngoài một cái áo khoác và một cái quần tập thể dục. Không khí ban đêm đã trở lạnh.

“Tôi đã chuẩn bị cho bà một cái sandwich, bánh snack, một chai nước tăng lực, và vài thanh kẹo bỏ trong ba lô của bà ấy nhé,” Bess nói.

“Cám ơn Bess,” tôi đáp. “Đặc biệt là vì đã chuẩn bị thêm một bộ đồ đua này nữa!”

Cả bọn siết tay nhau và vung lên cao để bày tỏ sự quyết tâm, lần này không reo hò gì, đề phòng mấy cây dại gần đó có tai. Sau những vòng tay siết chặt, và một nụ hôn cho Ned, tôi lại lên đường. Bây giờ đã là mười một giờ mười lăm.

Tôi bỏ qua đường chính dành cho xe đạp - con đường sáng hôm sau các tay đua sẽ đi, thay vào đó là men theo lối mòn cũ nằm giữa đường chính và dòng sông.

Lối mòn cũ đó bị cỏ và những bụi cây thấp che khuất đi. Nó hơi gập ghềnh hơn đường chính, nhưng chẳng có gì mà chiếc xe dự phòng và tôi lại chẳng xử lý được cả. Với lại tôi cũng cho rằng nếu đi bằng xe leo núi, nhiều khả năng người ta sẽ đi theo lối mòn này. Tôi cũng chẳng muốn lôi kéo sự chú ý nào, vì tôi biết những tay đua khác có thể đang cắm trại dọc bờ sông và sẽ thắc mắc không biết đèn xe đạp của ai đang chạy về phía mình.

Thoạt tiên cả bóng tối trước mặt lẫn ánh đèn pha của xe đạp đều gây cảm giác khó chịu khi tôi chạy xa dần ánh sáng tưng bừng của lửa trại. Nhưng rồi dần dần mắt tôi cũng quen được với cả hai thái cực đó. Tôi thận trọng nhìn con đường mòn phía trước.

Tôi đi được hơn ba dặm một chút thì trông thấy nó trong đám bùn bên bờ sông - dấu vết ngoằn ngoèo của bánh xe đạp leo núi.