Percy Jackson Tập 3: Lời Nguyền Của Thần Titan

Chương 5: Tôi gọi một cú điện thoại dưới nước




Tôi chưa bao giờ nhìn thấy Trại Con Lai vào mùa đông, và cảnh tuyết phủ làm tôi ngạc nhiên vô cùng.

Trong trại có chức năng điều khiển thời tiết. Không có gì có thể lọt qua ranh giới trừ khi giám đốc trại, ngài D, muốn thế. Tôi nghĩ trong trại sẽ có nắng ấm áp, nhưng thay vào đó tuyết đã được phép rơi lắc rắc. Sương giá phủ đầy lên đường đua và cánh đồng dâu. Các ngôi nhà được trang trí với những chiếc đen nhấp nháy nhỏ xíu, trông như những chiếc đèn Giáng sinh, nhưng khác ở chỗ hình như chúng là những quả cầu lửa thật!. Trong rừng còn có nhiều đèn lấp lánh hơn, và điều kỳ dị nhất là một quả cầu lửa đang nhấp nháy trên phòng gác của Nhà Lớn, nơi Nhà Tiên Tri bị giam giữ trong hình hài của một cái xác ướp cổ. Tôi tự hỏi không biết có phải linh hồn của Delphi đang nướng kẹo dẻo trên đó hay không.

“Oa,” Nico kêu lên khi nhảy từ trong xe buýt ra. “Đó là tường để tâp trèo à?”

“Đúng vậy,” tôi nói.

“Sao nham thạch lại chảy xuống từ đó?”

“Để thử thách một chút thôi. Đi nào. Anh sẽ giới thiệu em với bác Chiron. Zõe, cô đã gặp…”

“Tôi biết Chiron,” Zõe nói xen vào. “Nói với ông ta là chúng tôi sẽ ở Nhà số Tám. Thợ Săn, đi theo ta.”

“Để tôi chỉ đường cho,” Grover đề nghị.

“Chúng tôi biết đường rồi.”

“Ồ, thế à. Không sao. Ở đây dễ bị lạc lắm, nếu cô không….” Cậu ta vấp phải một chiếc xuồng bèn lồm cồm đứng dậy, miệng vẫn không thôi nói. “…giống như ông bố đẻ già của tôi vẫn thường nói! Đi nào!”

Zõe tròn măt, nhưng tôi đoán cô ấy không có ý cho Grover đi đời. Đám Thợ Săn đeo cung tên và hành lý lên vai rồi hành quân về phía khu nhà ở. Khi Bianca di Angelo đang chuẩn bị rời đi, cô bé cúi xuống và thầm thì điều gì đó vào tai cậu em trai. Cô bé nhìn cậu em chờ đợi một câu trả lời, nhưng Nico chỉ cằn nhằn và quay đi.

“Cẩn thận nhé, các tình yêu!” thần Apollo gọi với theo đám Thợ Săn. Anh ta nheo mắt với tôi. “Cẩn thận với những lời tiên tri đó nhé, Percy. Ta sẽ sớm gặp lại cậu.”

“Ý anh là gì?”

Thay vì trả lời, anh ta chui vào trong xe buýt. “Gặp lại sau, Thalia,” anh ta kêu to. “Và, uhm, vui vẻ nhé!”

Anh ta ném cho cô một nụ cười ranh mãnh, như thể anh ta biết một điều gì mà Thalia không biết. Sau đó anh ta đóng cửa và khởi động động cơ. Tôi quay người sang bên khi chiếc xe mặt trời lăn bánh trong luồng hơi nóng rừng rực. Khi tôi quay lại thì hồ nước đang bốc hơi. Một chiếc Maserati màu đỏ đang bay vút lên các cánh rừng, tỏa hào quang mỗi lúc thêm sáng chói và bay mỗi lúc một cao, cho đến khi chiếc xe biến mất hoàn toàn trong ánh mặt trời.

Nico trông vẫn có vẻ hằm hè. Tôi tự hỏi không biết chị cậu ta đã nói gì với cậu.

“Chiron là ai?” cậu bé hỏi. “Em không có tượng của ông ta.”

“Đó là giám đốc hoạt động của chúng ta,” tôi nói. “Bác ấy… được rồi, rồi em sẽ gặp thôi.”

“Nếu mấy cô Thợ Săn đó không thích ông ta,” Nico lầm bầm, “thì có vẻ ông ta hợp với em đấy. Đi thôi.”

Việc thứ hai làm tôi bất ngờ là sự vắng vẻ của Trại Con Lai. Ý tôi là, tôi biết hầu hết các con lai chỉ tập luyện vào mùa hè. Chỉ có những người thường trú thì mới ở đây – những người không có nhà để về, hoặc là nếu họ rời đi thì sẽ liên tục bị quái vật tấn công. Nhưng ngay cả những người như họ hình như cũng chẳng thấy đâu.

Tôi nhìn thấy Charles Beckendorf từ nhà thần Hephaestus, đang chụm lò cạnh bể lò rèn bên ngoài xưởng đúc vũ khí của trại. Anh em nhà Stoll, Travis và Conner, từ nhà thần Hermes, đang tìm mua khóa từ cửa hàng của trại. Một vài đứa trẻ khác từ nhà thần Ares đang có một cuộc chiến ném tuyết với các nữ thần cây ở bìa rừng. Chỉ có vậy, ngay cả đối thủ cũ của tôi ở nhà thần Ares, Clarisse, hình như cũng chẳng ở đây.

Nhà Lớn được trang trí với các cuỗi bóng lửa, màu vàng và đỏ, làm mái hiên ấm áp hơn nhưng có vẻ không đốt vật gì cháy cả. Bên trong, lửa đang bập bùng trong lò sưởi. Không khí có mùi như sô cô la nóng. Ngài D., giám đốc trại và bác Chiron đang lặng lẽ chơi bài trong phòng khách.

Bộ râu màu nâu của bác Chiron trông rậm rạp hơn vào mùa đông. Mái tóc loăn xoăn của bác đấy đã dài ra hơn một chút. Năm nay bác ấy không phải vào vai giáo viên nên có lẽ bác Chiron đang cố ăn mặc thoải mái hơn. Bác ấy mặt một chiếc áo len sờn với hình chiếc móng guốc in trên áo, một chiếc chăn phủ lên đùi và gần như phủ kín cả chiếc xe lăn.

Bác Chiron mỉm cười khi nhìn thấy chúng tôi. “Percy! Thalia! A, đây chắc hẳn là…”

“Nico di Angelo,” tôi nói. “Cậu ấy và chị gái đều là con lai.”

Bác Chiron thở phào nhẹ nhõm. “Vậy là cháu thành công rồi.”

“Nhưng mà…”

Nụ cười của bác chợt tan biến. “Có chuyện gì vậy? Annabeth đâu?”

“Ôi trời oi,” Ngài D nói với giọng chán nản. “Không phải lại mất một người nữa đấy chứ?”

Tôi đã cố không để ý đến Ngài D, nhưng đúng là khó mà bỏ qua ông ta với một bộ đồ da báo màu cam rực rỡ và đôi giày chạy màu đỏ tía. (Mặc dù ông ta chưa chạy ngày nào trong cả cuộc đời bất tử của mình). Một vòng nguyệt quế vàng được đội nghiêng nghiêng trên mái tóc đen gợn sóng, điều đó có nghĩa là ông ta vừa thắng ván bài gần đây nhất.

“Ý ông là gì?” Thalia hỏi. “Còn mất ai nữa?”

Ngay lúc đó, Grover bước vào phòng, cười toe toét như điên. Một bên mắt cậu ta thâm tím và những vệt đỏ hằn trên mặt trông như dấu vết của một cái tát. “Hội Thợ Săn đều vào trong rồi!”

Bác Chiron cau mày. “Hội Thợ Săn ấy à? Chúng ta sẽ có nhiều chuyện để nói đây.” Bác ấy liếc nhìn Nico. “Grover, có lẽ cháu nên đưa anh bạn trẻ này đến phòng chiếu và cho cậu ta xem cuốn phim định hướng nhé.”

“Nhưng…à, không sao. Vâng, thưa ngài.”

“Phim định hướng là cái gì?” Nico hỏi. “Đó là loại G hay PG? Bởi vì Bianca khá là khó tính…”

“Đấy là loại PG-13,” Grover nói.

“Tuyệt lắm!” Nico vui vẻ theo cậu ta ra khỏi căn phòng.

“Bây giờ,” bác Chiron nói với Thalia và tôi. “Có lẽ hai cháu nên ngồi xuống đây và kể cho chúng ta toàn bộ câu chuyện đi.”

Khi chúng tôi kể xong, bác Chiron quay sang phía Ngài D. “Chúng ta phải mở cuộc tìm kiếm Annabeth ngay lập tức.”

“Cháu sẽ đi,” Thalia và tôi đồng thanh nói.

Ngài D khịt mũi. .” Tất nhiên là không!”

Thalia và tôi cùng kêu ca, nhưng ngài D giơ tay lên. Ánh lửa giận dữ đỏ tía trong mắt ông ta có nghĩa là một điều tồi tệ sắp sửa xảy ra, nếu chúng tôi không im miệng lại.

“Theo những gì các cậu kể cho ta,” Ngài D nói. “Chúng ta đã gặp khó khăn trong cuộc phiêu lưu này. Chúng ta, thật đáng tiếc đã để mất Annie Bell…”

“Annabeth,” tôi sửa lại. Cô ấy đã vào trại từ năm lên bảy, và ngài D vẫn giả vờ như không biết tên cô ấy.

“À, đúng rồi, đúng rồi,” ông ta nói. “Và cậu đã tìm được một thằng bé phiền phức để thay thế cô ta. Nên ta thấy không cần phải liều lĩnh tính mạng của các con lai cho một cuộc giải cứu lố bịch như thế. Và có khả năng rất cao là cô Annie đó đã chết rồi.”

Tôi chỉ muốn bóp cổ ngài D. Thật là không công bằng khi thần Zeus đưa ông ta đến đây làm giám đốc trãi cả trăm năm nay đề cai rượu. Đó là án phạt mà Ngài D phải nhận do hành vi ngỗ ngược của mình trên Đỉnh Olympus, nhưng cuối cùng hóa ra đó lại là án phạt cho tất cả chúng tôi.

“Annabeth có thể vẫn còn sống,” bác Chiron nói, nhưng tôi cảm nhận được trong lời nói của bác ấy không có vẻ lạc quan. Chính bác ấy là người nuôi nấng Annabeth suốt những năm qua khi cô ấy ở nội trú trong trại, trước khi cô ấy quay lại sống với bố và người mẹ kế. Cô bé rất thông minh. Nếu… nếu kẻ địch bắt được nó thì con bé sẽ cố kéo dài thời gian. Thậm chí con bé còn giả vờ nộp hợp tác nữa

“Đúng vậy.” Thalia nói. “Luke muốn cô ấy sống.”

“Trong trường hợp đó,” Ngài D nói, “Ta e rằng con bé đủ thông minh để tự thoát khỏi đó.”

Tôi đứng phắt dậy.

“Percy.” Giọng bác Chiron đầy cảnh cáo. Trong đầu tôi, tôi biết Ngài D không phải là người để gây lộn. Ngay cả nếu bạn là một gã bị chứng tối loạn hiếu động thái quá trầm trọng như tôi thì điều đó cũng không mang lại gì tốt đẹp. Nhưng tôi quá giận nên không thèm quan tâm gì nữa.

“Ông cụ vui mừng vì chúng ta mất một người nữa chứ gì?” tôi nói. “Chắc chúng tôi biến mất hết thì ông thích lắm đấy!”

Ngài D ngáp. “Cậu có bằng chứng gì?”

“Có chứ,” tôi càu nhàu. “Chỉ vì ông bị phạt đến đây không có nghĩa ông phải là một gã lười biếng! Đây cũng là nền văn minh của ông nữa. Có lẽ ông cũng nên giúp một chút chứ nhỉ!”

Trong một khoảnh khắc, chẳng có tiếng động nào ngoài tiếng lửa lép bép. Ánh sáng phản chiếu đôi mắt hiểm ác của Ngài D. Ông ta mở miệng để nói một câu gì đó – chắc là nguyền rủa tôi bị đập ra thành trăm mảnh – đúng lúc đó Nico chạy ào vào phòng, theo sau là Grover.

“TUYỆT QUÁ!” Nico nheo nhéo, giơ tay ra phía Chiron. “Ông là... ông là nhân mã!”

Bác Chiron cố gắng nở một nụ cười lo lắng.” Đúng vậy, cậu đi Angelo à, nếu điều đó làm cậu vui lòng. Mặc dù ta thích ở trong hình dạng con người va ở trên chiếc xe lăn này để, uhm, cho những cuộc chạm trán đầu tiên.

“Và – oa!” Cậu ta nhìn Ngài D, “Ngài chính là anh chàng rượu nho? Không thể nào!”

Ngài D thôi nhìn tôi và quay sang ném cho Nico một cái nhìn ghen ghét. “Anh chàng rượu nho?”

“Thần Dionysus, đúng không? Ôi chao! Tôi có tượng của ngài.”

“Tượng của ta à?”

“Trong trò chơi bài phép thuật của cháu. Và trên một tấm card hình ảnh bóng nữa! Và mặc dù ngài chỉ đạt được 500 điểm cho một đòn tấn công và mọi người nghĩ ngài là quân bài thần thánh vô dụng nhất thì cháu vẫn nghĩ sức mạnh của ngài thật tuyệt vời!”

“À.” Ngài D có vẻ thật sự lúng túng, điều này đúng là đã cứu sống tôi. “Uhm, điều đó nghe thật… phấn khởi.”

“Percy,” bác Chiron nói nhanh, “Cậu và Thalia quay về nhà của mình đi. Báo cho mọi người trong trại là chúng ta sẽ tổ chức chơi cướp cờ vào tối mai.”

“Cướp cờ?” Tôi hỏi. “Nhưng chúng ta không có đủ…”

“Đó là truyền thống rồi,” bác Chiron nói. “Một buổi diễu hành hòa bình, mỗi khi Thợ Săn đến chỗ chúng ta.”

“Được rồi,” Thalia lẩm bẩm. “Mình cá là sẽ rất hòa bình đấy.”

Bác Chiron quay đầu sang phía Ngài D, người vẫn còn đang chau mày nghe Nico kể về tổng số điểm phòng ngự của tất cả các vị thần trong trò chơi của cậu. “Giờ thì đi đi,” bác Chiron bảo chúng tôi.

“Ồ, được rồi,” Thalia nói. “Đi nào, Percy.”

Cô ấy đưa tôi ra khỏi Nhà Lớn trước khi thần Dionysus kịp nhớ lại rằng đang muốn cho tôi chết.

“Cậu đã có thần chiến tranh Ares làm đối thủ rồi.” Thalia nhắc tôi khi cả hai cùng tiến về phía nhà mình. “Cậu còn cần thêm một kẻ địch bất tử nữa sao?”

Cô ấy nói đúng. Mùa hè đầu tiên của tôi ở Trại Con Lai, tôi đã đánh nhau với thần Ares, và giờ thì cả ông ta và đám con cái đều muốn giết tôi. Tôi không cần làm cho thần Dionysus điên lên thêm.

“Xin lỗi,” tôi nói. “Nhưng tớ không kiềm chế được, thật là không công bằng.”

Cô ấy dừng lại ở xưởng đúc vũ khí và nhìn ra xa, qua cả thung lũng, đến đỉnh ngọn Đồi Con Lai. Cây thông của cô ấy vẫn đứng nguyên ở đó. Bộ Lông Cừu Vàng lủng lẳng trên cành cây thấp nhất. Phép thuật của cái cây vẫn bảo vệ các đường ranh giới của trại, nhưng nó không còn dùng linh hồn của Thalia làm năng lượng nữa.

“Percy, mọi thứ đều không công bằng,” Thalia lẩm bẩm. “Thỉnh thoảng tớ chỉ ước là…”

Cô ấy bỏ dở câu nói, nhưng âm điệu thì vẫn buồn vô cùng, đến nỗi tôi cảm thấy tội cho cô ấy. Với mái tóc đen bù xù, bộ quần áo đen theo phong cách punk và một chiếc áo bông cũ mặc ngoài, trông cô ấy như một con quạ khổng lồ, đối lập hẳn với cảnh tuyết trắng xóa xung quanh.

“Chúng ta sẽ đưa Annabeth trở về,” tôi hứa. “Chỉ là tớ chưa biết làm cách nào.”

“Đầu tiên là Luke mất tích,” cô ấy nói. “Giờ thì là Annabeth…”

“Đừng nghĩ vậy.”

“Cậu nói đúng.” Cô ấy đứng thẳng người lên. “Chúng ta sẽ tìm ra cách.”

Ngoài sân bóng rổ, một số Thợ Săn đang chơi trò ném phạt. Một trong số họ đang tranh cãi với một cậu trai từ nhà thần Ares. Cậu trai nhà thần Ares để tay mình lên thanh kiếm và cô Thợ Săn trông có vẻ sẽ đổi ngay quả bóng rổ với một cây cung bất cứ khi nào.

“Tớ sẽ giải quyết việc đó,” Thalia nói. Cậu đi thông báo cho các nhà. Báo cho mọi người về cuộc thi cướp cờ vào ngày mai.”

“Được rồi. Chắc cậu phải làm trưởng nhóm rồi.”

“Không không” , cô ấy nói. “Cậu ở trại lâu hơn, cậu làm đi.”

“Chúng ta có thể, uhm… làm đồng trưởng nhóm.”

Cô ấy có vẻ hài lòng với điều đó, và cuối cùng cô ấy cũng gật đầu.

Khi cô ấy đi về phía sân bóng rổ, tôi kêu lên, “Thalia này,”

“Gì vậy?”

“Tớ xin lỗi về chuyện xảy ra ở Westover. Đáng lẽ tớ nên đợi các cậu.”

“Ồ, có sao đâu. Percy. Nếu là tớ chắc tớ cũng làm thế.” Cô ấy đổi chân trụ, như thể đang nghĩ xem có nên nói nữa hay không. “Cậu biết không, cậu hỏi về mẹ tớ. Tớ đã điên lên với cậu. Chỉ là vì… tớ quay lại tìm bà ấy sau bảy năm, và tớ phát hiện ra bà ấy đã chết ở Los Angeles. Bà ấy, ừm… bà ấy là một người nghiện rượu, và sau đó một đêm cách đây hai năm, bà lái xe về muộn, và….” Thalia chớp mắt liên hồi.

“Tớ lấy làm tiếc.”

“Uhm, không sao. Thật ra… hai mẹ con tớ cũng không thân thiết với nhau lắm đâu. Tớ bỏ đi khi lên mười tuổi. Hai năm đẹp nhất trong đời tớ là khi tớ phiêu bạt cùng Luke và Annabeth. Tuy nhiên…”

“Đó là lý do cho việc cậu gặp rắc rối với cỗ xe mặt trời.”

Cô ấy nhìn tôi đầy cảnh giác. “Ý cậu là sao?”

“Cái cách cậu bị căng thẳng. Chắc chắn cậu đã nghĩ đến mẹ, và không muốn ngồi sau bánh lái.”

Tôi hối hận vì những gì mình đã nói. Biểu hiện của Thalia trông nguy hiểm chẳng khác thần Zeus là bao, giống như lần tôi được chứng kiến ông ấy nổi giận. Như thể mắt cô ấy sẽ bắn ra điện cả triệu vôn bất cứ lúc nào.

“Ừ,” cô ấy lẩm bẩm. “Ừ, chắc là thế rồi.”

Cô ấy chậm chạp tiến về phía sân bóng, nơi mọi người ở nhà thần Ares và đám Thợ Săn đang cố giết nhau với một cây kiếm và một quả bóng rổ.

***

Những ngôi nhà ở trại là một bộ sưu tập những kiểu nhà kỳ dị chưa từng thấy. Những tòa nhà to màu trắng của thần Zeus và thần Hera là Nhà số Một và Hai, nằm ở một đầu, với năm nhà dành cho các nam thần ở phía trái và năm nhà cho các nữ thần ở bên phải. Chúng tạo thành hình chữ U bao quanh thảm cỏ xanh và lò nướng barbecue ở trung tâm.

Tôi đi một vòng, thông báo cho mọi người về trò chơi cướp cờ. Tôi đánh thức một nhóc nào đó ở nhà thần Ares khi nó đang ngủ trưa, và cậu bé eo éo gào thét đuổi tôi đi. Khi tôi hỏi cậu ta về Clarisse, thằng nhóc nói: “Đi làm nhiệm vụ cho bác Chiron rồi. Tối mật!”

“Cô ấy ổn chứ?”

“Một tháng rồi không nghe tin tức gì. Cô ấy mất tích giữa đường rồi! Mông anh cũng sẽ chịu chung số phận nếu không ra khỏi đây ngay lập tức!”

Tôi quyết định để cậu ta ngủ tiếp.

Cuối cùng tôi tới nhà Số Ba, nhà của thần Poseidon. Đó là một toà nhà thấp màu xám, xây bằng đá biển với vỏ trai và san hô hóa thạch in trên đá. Bên trong, nó vẫn trống huếch như mọi khi, trừ chiếc giường của tôi. Một chiếc sừng của con Minotaur được treo trên tường cạnh gối của tôi.

Tôi lấy chiếc mũ bóng chày của Annabeth ra khỏi ba lô và đặt nó lên bàn cạnh giường ngủ. Tôi sẽ đưa nó cho Annabeth khi tôi tìm ra cô ấy. Và tôi sẽ tìm được cô ấy.

Tôi cởi chiếc đồng hồ đeo tay ra và khởi động tấm khiên. Tiếng cọt kẹt phát ra inh ỏi khi chiếc khiên bắn ra. Những dao nhọn Tiến sĩ Thorn phóng ra đã làm cho nó sứt mẻ tứ tung. Một vết cắt dài và sâu khiến chiếc khiên không mở được hẳn ra, và vì thế trông nó như một chiếc pizza thiếu mất hai miếng. Những hình khắc bằng đồng đẹp đẽ mà em trai tôi khắc lên đã đi tong. Trong bức hình tôi và Annabeth đánh nhau với rắn nhiều đầu, trông như thể một ngôi sao băng đã tạo thành một cái hố trên đầu tôi vậy. Tôi treo chiếc khiên lên móc, bên cạnh chiếc sừng của con Minotaur, nhưng nó khiến tôi cảm thấy đau đớn khi nhìn nó. Có lẽ Beckendorf ở nhà thần Hephaestus có thể sửa giúp tôi. Cậu ấy là thợ binh khí giỏi nhất trại này. Trong bữa tối tôi sẽ nhờ cậu ấy vậy.

Tôi đang chằm chằm nhìn cái khiên thì bỗng nghe thấy một âm thanh lạ - tiếng nước chảy róc rách – và tôi nhận ra trong phòng có một thứ mới. Ở phía cuối căn nhà là một cái bể lớn làm từ đá xám ở biển, với một cái vòi trông như đầu cá được khắc trong đá. Miệng nó phun ra một tia nước – một dòng suối nước mặn chảy vào trong bể. Chắc chắn nuớc phải nóng lắm, vì nó bốc khói trong không khí mùa đông lạnh giá, như ở các tiệm xông hơi vậy. Nó giúp căn phòng ấm hơn và đem lại cảm giác như đang giữa mùa hè, mát mẻ với mùi biển.

Tôi bước đến chỗ cái bể. Chẳng có một mảnh giấy ghi chú hay bất cứ thứ gì, nhưng tôi biết đó chỉ có thể là món quà của thần Poseidon.

Tôi nhìn xuống nước và nói, “Cảm ơn cha.”

Mặt nước tách đôi. Ở đáy bể, các đồng xu sáng lấp lánh – khoảng một tá đồng vàng drachma. Giờ tôi đã biết cái đài phun nước này dùng để làm gì. Đó là vật dùng để liên lạc với gia đình tôi.

Tôi mở cửa sổ gần nhất và ánh nắng hiu hắt của mùa đông tạo thành một dải cầu vồng trên đám hơi nước bốc lên. Sau đó tôi nhặt một đồng xu ra khỏi bể nước nóng.

“Iris, nữ thần cầu vồng,” tôi nói, “xin hãy chấp nhận lời đề nghị của con.”

Tôi tung đồng xu vào đám hơi nước và nó biến mất. Rồi tôi chợt nhận ra mình không biết phải liên lạc với ai trước tiên.

Mẹ tôi ư? Đó sẽ là ý tưởng hay để hoàn thành vai diễn “con ngoan” , nhưng lúc này bà chưa phải lo lắng cho tôi. Mẹ đã quen với việc tôi biến mất mấy ngày trời, thậm chí cả mấy tuần liên tục.

Cha tôi ư? Đã lâu lắm rồi, có lẽ là hai năm kể từ lần cuối cùng tôi nói chuyện với ông ấy. Nhưng bạn có thể gởi một thông điệp cầu vồng đến một vị thần khác không? Tôi chưa thử bao giờ. Nó có làm họ điên lên không nhỉ? Giống như khi bị các tiếp thị viên làm phiền hoặc có ý tương tự như vậy?

Tôi do dự. Rồi sau đó đưa ra quyết định.

“Cho tôi gặp Tyson,” tôi yêu cầu. “Ở lò rèn của người Cyclops.”

Đám sương mù tan đi và hình ảnh người em cùng cha khác mẹ với tôi hiện ra. Bao quanh cậu ấy là lửa, nếu không phải là một trong số những người khổng lồ một mắt như cậu ấy thì khó có thể chịu đựng được. Tyson đang cúi gập người và nện chan chát vào một thanh kiếm đỏ rực trên cái đe, tàn lửa bay ra và lửa quấn quanh người. Đằng sau Tyson là một cửa sổ viền khung bằng đá cẩm thạch, nhìn ra ngoài là nước biển xanh đen – hình ảnh dưới đáy đại dương.

“Tyson!” Tôi gọi.

Cậu ấy không nghe thấy tôi gọi vì tiếng đập búa và tiếng lửa bập bùng.

“TYSON!”

Tyson quay lại và mở to con mắt khổng lồ. Tyson cười hăm hở. “Percy!”

Cậu ấy bỏ rơi thanh kiếm xuống và chạy lại phía tôi, cố ôm tôi một cái. Hình ảnh bỗng nhòe đi và tôi lùi lại theo phản xạ. “Tyson, đây chỉ là tin nhắn cầu vồng thôi. Anh không ở đó đâu.”

“Ồ.” Tyson lùi lại. “Được, em biết rồi, biết rồi.”

“Em khỏe không?” Tôi hỏi. “Công việc thế nào?”

Mắt cậu ấy sáng lên. “Quá ổn! Anh xem này!” Tyson nhặt một thanh kiếm còn nóng hổi lên bằng tay không. “Em đã làm nó đấy!”

“Em giỏi quá.”

“Em đã viết tên mình lên đó rồi. Đây này.”

“Tuyệt quá. Này, dạo này em có nói chuyện với cha nhiều không?”

Nụ cười của Tyson tắt dần. “Không nhiều lắm. Dạo này cha bận lắm. Ông ấy đang lo lắng về chiến tranh.”

“Thế là sao?”

Tyson thở dài. Cậu ấy đút thanh gươm ra ngoài cửa sổ, làm nổi lên một đám bong bóng sôi sùng sục. Khi Tyson đem nó vào, thanh kim loại đã nguội đi. “Những linh hồn già nua của biển cả đang gây rối. Aigaios[7]. Oceanus[8]. Chính là bọn họ.”

Tôi cũng biết cậu ấy đang nói về ai. Tyson muốn nói đến những vị thần bất tử, những người thống trị biển cả từ thời của các thần khổng lồ Titan, trước khi các vị thần trên Đỉnh Olympus tiếp quản. Việc họ quay lại cùng với chúa tể của các thần khổng lồ Titan – Kronos và bè đảng của hắn quả thực là tin không mấy tốt lành.

“Anh có giúp được gì không?” Tôi hỏi.

Tyson lắc đầu buồn bã. “Bọn em đang trang bị vũ khí cho người cá. Ngày mai họ cần hơn một ngàn thanh kiếm.” Cậu ấy nhìn lưỡi kiếm trên tay và thở dài. “Các linh hồn ngày xưa đang bảo vệ con thuyền tai họa.”

“Công chúa Andromeda?” tôi hỏi. “Con thuyền của Luke à?”

“Đúng vậy. Họ giấu con thuyền đi. Bảo vệ nó khỏi những cơn giông tố của cha. Nếu không cha sẽ đập nát nó ra.”

“Đập nát được nó ra thì tốt đấy.”

Tyson ngẩng mặt lên, như thể vừa nghĩ ra một cái gì đó. “Annabeth! Cô ấy có ở đấy không?”

“À, uhm….” Tim tôi cảm giác như một quả bóng bowling. Tyson nghĩ Annabeth là người con gái tuyệt vời nhất chỉ sau bơ đậu phụng (và cậu ấy cực kỳ yêu thích món bơ đậu phụng). Tôi không nỡ lòng nào nói với cậu ấy là cô ấy giờ mất tích. Tyson sẽ khóc như điên dại và có thể là tắt cả lửa mất. “À, không… bây giờ cô ấy không ở đây.”

“Gửi lời chào của em đến cô ấy nhé!” Cậu ấy hồ hởi, “Chào Annabeth!”

“Được rồi.” Tôi cố gắng nuốt cục nghẹn trong cổ. “Anh sẽ chuyển lời.”

“Và Percy, đừng lo về con tàu tai họa. Nó đã ra đi và đi rất xa.”

“Ý em là gì?”

“Tới kênh đào Panama. Ở cách đây rất xa.”

Tôi nhíu mày. Tại sao Luke lạo để con tàu quái vật kia tới tận đây? Lần cuối cùng chúng tôi nhìn thấy anh ta là khi anh ta chu du dọc bờ Đông, chiêu mộ con lai và luyện tập cho quân đội gớm guốc của hắn.

“Được rồi,” tôi nói, nhưng chẳng cảm thấy yên tâm chút nào. “Sẽ… ổn thôi. Anh nghĩ vậy.”

Trong lò rèn, một giọng nói từ sâu thẳm vọng lên, tôi không nhận ra là nó từ đâu. Tyson do dự. “Em phải quay lại làm việc rồi. Ông chủ sẽ điên lên mất. Chúc may mắn, anh trai.”

“Ừ, em hãy nói với Cha là…”

Nhưng trước khi tôi kịp nói hết câu thì hình ảnh đã nhòe và nhạt dần. Tôi một lần nữa lại ở một mình trong căn nhà trống không, và cảm thấy thậm chí còn cô độc hơn cả ngày xưa.

Bữa tối hôm đó tôi nhận ra mình vô cùng đau khổ.

Ý tôi là bữa ăn vẫn tuyệt như mọi khi. Bạn sẽ không thể phàn nàn với barbecue, pizza và những ly soda không bao giờ cạn. Những ngọn đuốc và lò than giữ ấm cho phòng ăn ngoài trời, nhưng tất cả chúng tôi đều phải ngồi chung với các thành viên thuộc nhà cuả mình, và điều đó có nghĩa là tôi phải ngồi một mình ở bàn dành cho thần Poseidon. Thalia cũng ngồi một mình ở bàn dành cho thần Zeus, nhưng chúng tôi không được ngồi với nhau. Đó là luật lệ. Ít ra mấy nhà như nhà thần Hephaestus, thần Ares và thần Hermes còn có thưa thớt vài người. Nico ngồi với anh em nhà Stoll, vì thường con lai sẽ kẹt lại nhà thần Hermes nếu vị thân sinh bất tử của họ còn chưa xác định. Anh em nhà Stoll có vẻ đang cố thuyết phục Nico rằng bài xì-pé chơi hay hơn bài Thần Thoại. Hi vọng Nico không còn xu nào để mất nữa.

Bàn duy nhất có vẻ như rôm rả hơn cả là bàn của vị thần Artemis. Đội Thợ Săn ăn uống cười nói như một đại gia đình hạnh phúc. Zõe ngồi ở vị trí đầu tiên, như thể là mẹ của lũ trẻ. Cô ấy không cười ha hả như những người khác, nhưng môi lúc nào cũng mỉm cười. Dải băng trợ thủ bằng bạc lấp lánh trên nền tóc đen của cô. Tôi nghĩ khi cười, trông cô ấy xinh đẹp hơn nhiều. Bianca di Angelo có vẻ đang rất vui sướng. Cô bé đang cố gắng học cách vật tay từ một đàn chị, người vừa đánh nhau với một nhóc ở nhà thần Ares trên sân bóng rổ. Cô ta đánh bại Bianca liên tục, nhưng cô bé có vẻ không mấy quan tâm.

Khi chúng tôi xong bữa, bác Chiron nâng cốc theo phong tục để chúc mừng các vị thần và chính thức chào đón các Thợ Săn của nữ thần Artemis. Một tràng vỗ tay lẹt đẹt vang lên. Sau đó bác ấy giới thiệu tinh thần trò chơi cướp cờ vào ngày mai. Việc này được hưởng ứng nhiệt liệt hơn gấp bội.

Sau cùng, tất cả chúng tôi lục tục quay về nhà đi ngủ sớm. Tôi đã kiệt sức và thiếp đi một cách nhanh chóng. Đó là điều đáng mừng. Nhưng điểm xui xẻo là tôi gặp phải một cơn ác mộng, và ngay cả đối với tôi thì cơn ác mộng thực sự vẫn rất kinh hoàng.

Annabeth đang ở bên sườn đồi tối đen như mực và bị phủ bởi màn sương. Trông cảnh vật như ở âm phủ vậy, vì tôi lập tức thấy không gian như bị thu hẹp lại và tôi không thấy bầu trời phía trên đầu mình. Chỉ có màn đêm nặng nề tăm tối, giống như tôi đang ở trong một cái động vậy.

Annabeth đang cố trèo lên đỉnh đồi. Những cột đá cẩm thạch Hy Lạp đen cũ vỡ vụn và rải rác xung quanh như thể cái gì đó vừa phá huỷ cả một toà nhà vĩ đại.

“Thorn!” Annabeth kêu gào. “Ông ở đâu? Sao ông lại đưa tôi đến đây?” Cô ấy chật vật trèo qua một đoạn tường đổ và lên đến đỉnh đồi.

Cố ấy thở hổn hển.

Ở đó có Luke. Và anh ta đang bị thương.

Anh ta đang cuộn tròn trên nền đá và cố đứng dậy. Bóng tối dường như đang phủ ngày một dày đặc xung quanh, sương mù đang bồng bềnh như ma quỷ, tranh phục của anh ta đã rách bươm và khuôn mặt đầy những vết xước, xen lẫn với mồ hôi.

“Annabeth!” anh ta gọi. “Giúp anh! Làm ơn!”

Cô ấy chạy về phía anh ta.

Tôi cố hét lên : Anh ta là kẻ phản bội! Đừng tin anh ta!

Nhưng trong giấc mơ, giọng của tôi không cất được lên.

Mắt Annabeth đầy nước. Cô ấy với tay xuống như thể muốn chạm vào khuôn mặt Luke, nhưng giây cuối cùng cô ấy lại ngần ngại.

“Chuyện gì vậy?” cô ấy hỏi.

“Họ để anh ở đây.” Luke rên rỉ. “Xin em. Anh chết mất.”

Tôi không hiểu anh ta đang bị làm sao. Dường như anh ta đang phải đối mặt với một lời nguyền vô hình nào đó, giống như màn sương đang bóp nghẹt anh ta tới chết.

“Tại sao tôi phải tin anh?” Annabeth hỏi. Giọng cô ấy đầy đau khổ.

“Em không nên tin,” Luke nói. “Anh đã đối xử với em chẳng ra gì. Nhưng nếu em không giúp, anh sẽ chết.”

Để anh ta chết đi, tôi muốn gào lên như vậy. Luke đã rất nhiều lần tìm cách giết chúng tôi, một kẻ máu lạnh. Anh ta không xứng đáng được nhận bất cứ thứ gì từ Annabeth.

Sau đó bóng tối trên đầu Luke bắt đầu tan ra, trông như trần của một cái hang khi có động đất. Từng mảng đá đen bắt đầu rơi xuống. Annabeth chạy vào ngay khi một vết nứt xuất hiện và cả cái trần sụp xuống. Cô ấy đang tìm cách giữ nó lại – giữ cả mấy tấn đá. Cô ấy đang cố giữ để trần nhà không sụp lên người cô ấy và Luke, chỉ bằng sức mạnh của chính mình. Điều đó là không thể. Bình thường cô ấy không thể làm điều đó.

Luke bò ra, hổn hển. “Cảm ơn,” anh ta trả lời.

“Giúp em giữ nó đi,” Annabeth rên rỉ.

Luke thở dốc. Mặt anh ta đầy bùn đất và mồ hôi. Anh ta lập cập đứng dậy.

“Anh biết mình có thể trông cậy vào em mà.” Anh ta bắt đầu bỏ đi khi cái khối đen sì kia đang chuẩn bị đổ ụp lên người Annabeth.

“GIÚP EM!” cô ấy khẩn khoản.

“Ồ, đừng lo,” Luke nói. “Người giúp em đang trên đường đến đấy. Đó là một phần của kế hoạch. Trong lúc đó cố đừng chết nhé.”

Bóng tối trên đầu cứ đè nặng xuống dần dần, đẩy Annabeth lún sâu xuống đất.

***

Tôi bật người ngồi thẳng dậy trên giường, bám vào tấm ga trải giường như thể chúng là những viên đá trong một cơn lở tuyết. Chẳng có âm thanh nào khác trong nhà của tôi, ngoài tiếng dòng suối nước mặn chảy róc rách. Chiếc đồng hồ trên bàn cạnh đầu giường mới chỉ hơn mười hai giờ đêm.

Chỉ là một giấc mơ, nhưng có hai thứ tôi chắc chắn. Một là Annabeth đang trong tình trạng vô cùng nguy hiểm. Hai là tất cả đều do Luke.