Percy Jackson Tập 4: Cuộc Chiến Chốn Mê Cung

Chương 6




Chúng tôi đi được hơn ba mươi mét thì bị lạc hoàn toàn.

Đường hầm không giống cái mà Annabeth và tôi đã ngã xuống trước đó. Bây giờ nó tròn như một cái cống được xây bằng gạch đỏ, cứ cách hơn ba mét lại có một ô cửa sổ có chấn song bằng sắt. Tò mò, tôi soi đèn pin vào một trong những cái ô cửa, nhưng không thấy gì cả. Nó thông với một màn đen vô tận. Tôi nghĩ tôi đã nghe được nhiều giọng nói ở phía bên kia, nhưng đó có thể chỉ là gió lạnh.

Annabeth cố gắng hết sức để dẫn đường cho chúng tôi. Cô ấy nảy ra ý kiến rằng chúng tôi nên bám theo bờ tường bên trái.

“Nếu chúng ta đặt một tay lên tường bên trái và men theo nó,” cô ấy nói, “chúng ta có thể tìm lối ra bằng cách đi ngược lại.”

Thật không may, ngay khi cô ấy vừa nói điều này, bức tường bên trái biến mất. Chúng tôi thấy mình đứng trong một căn phòng hình tròn với tám đường hầm dẫn ra ngoài, và chẳng biết bằng cách nào mà chúng tôi đã vào được đây.

“Ừm, chúng ta đã vào đây bằng đường nào vậy?” Grover nói một cách lo lắng.

“Quay lại thôi,” Annabeth nói.

Mỗi chúng tôi quay lại theo một lối khác nhau. Thật buồn cười. Chẳng trong số chúng tôi có thể quả quyết lối nào dẫn về trại.

“Tường bên trái thật xấu xa,” Tyson nói. “Lối nào bây giờ?”

Annabeth lướt ánh đèn pin qua cổng vòm của tám đường hầm. Với chừng mực tôi có thể nói, chúng giống y hệt nhau. “Lối đó,” Annabeth nói.

“Sao cậu biết?” Tôi hỏi.

“Lập luận suy diễn.”

“Vậy... cậu chỉ đang đoán?”

“Cứ đi tiếp xem nào,” Annabeth nói.

Đường hầm Annabeth chọn nhanh chóng thu hẹp lại.

Các bức tường chuyển sang xi-măng màu xám, và trần thấp đến mức chúng tôi phải gập người lại, còn Tyson buộc

phải bò.

Chứng thở gấp của Grover là âm thanh lớn nhất trong mê cung. “Tớ không chịu được nữa,” cậu ấy thì thầm. “Chúng ta đến nơi chưa?”

“Chúng ta mới xuống đây được khoảng năm phút,” Annabeth nói với Grover.

“Nhiều hơn năm phút rồi,” Grover khẳng định. “Và tại sao thần Pan lại xuống đây nhỉ? Nơi này trái ngược hoàn toàn với tự nhiên.”

Chúng tôi tiếp tục lê chân tiến về phía trước. Ngay khi tôi chắc mẩm rằng đường hầm sẽ trở nên hẹp đến nỗi có thể ép chúng tôi thành nước, nó lại thông ra một căn phòng rất lớn. Tôi chiếu đèn pin lên tường và thốt lên “Oa!”

Toàn bộ căn phòng được lát đá khảm. Các bức tranh bám đầy bụi và đã phai màu, nhưng tôi vẫn có thể nhận ra màu của chúng – đỏ, xanh lá cây, xanh da trời và có cả vàng thật. Trên trụ ngạch có hình các vị thần trên đỉnh Olympus trong một bữa tiệc. Cha tôi, thần Poseidon đang dùng cây đinh ba đưa nho cho thần Dionysus để ông ấy biến chúng thành rượu vang. Thần Zeus đang vui vẻ uống rượu với các thần rừng, và thần Hermes đang bay lượn với với đôi sandal có cánh. Các bức tranh rất đẹp, nhưng không được chính xác lắm. Tôi đã trông thấy các vị thần. Thần Dionysus không đẹp trai đến thế, và mũi của thần Hermes cũng không to như vậy.

Ở giữa căn phòng là một đài phun nước ba tầng. Có vẻ như nó đã không chứa nước trong một thời gian dài.

“Đây là nơi nào?” Tôi lẩm bẩm. “Trông nó

“Chúng được những người La Mã tạo nên,” Annabeth nói. “Những bức khảm trai đó khoảng hai ngàn năm tuổi.”

“Làm sao chúng có thể là đồ của người La Mã được?” Tôi không giỏi lịch sử cổ đại, nhưng tôi dám chắc là đế quốc La Mã không thể trải dài đến tận Long Island được.

“Mê Cung là một công trình chắp vá,” Annabeth nói. “Tớ đã nói với cậu, nó luôn mở rộng và thêm nhiều bộ phận. Nó là công trình kiến trúc duy nhất có khả năng tự lớn lên.”

“Cậu nói nghe như nó đang sống vậy.”

Một tiếng rên rỉ vọng lại từ đường hầm phía trước chúng tôi.

“Xin đừng nói đến việc nó còn sống,” Grover nhăn nhó. “Xin các cậu đấy?”

“Được rồi,” Annabeth nói. “Đi thẳng nào.”

“Thẳng tới nơi có âm thanh xấu đó sao?” Ngay cả Tyson cũng có vẻ lo lắng.

“Ừ,” Annabeth nói. “Các công trình kiến trúc càng lúc càng cổ xưa hơn. Đó là một dấu hiệu tốt. Xưởng của Daedalus sẽ nằm ở nơi cổ nhất.”

Nghe có lý đấy. Nhưng chẳng bao lâu sau, mê cung lại đùa giỡn chúng tôi – chúng tôi đi được hơn mười lăm mét và đường hầm trở lại chất liệu xi măng với ống đồng chạy dọc hai bên. Trên tường là là các chữ graffiti được phun sơn. Một biển báo neon có dòng chữ: MOZ RULZ.

“Tớ nghĩ đây không phải là La Mã,” tôi nói với tinh thần giúp đỡ.

Annabeth hít một hơi thật sâu, và đi tiếp về phía trước.

Cứ cách một vài mét, các đường hầm lại thay đổi và phân nhánh. Sàn nhà bên dưới chân chúng tôi thay đổi từ xi măng đến bùn, sang gạch rồi quay lại. Chẳng thể dự đoán được gì. Chúng tôi rơi vào một hầm rượu – một lô chai lọ đầy bụi trên những chiếc giá gỗ – cứ như chúng tôi đang đi qua tầng hầm nhà ai đó vậy, chỉ có điều không có lối ra ở phía trên, mà là những tầng hầm dẫn đi tiếp.

Sau đó, trần nhà chuyển sang ván gỗ, và tôi có thể nghe thấy nhiều giọng nói ở phía trên và tiếng bước chân, như chúng tôi đang đi dưới một quán rượu nào vậy. Nghe thấy tiếng người thật yên tâm, nhưng một lần nữa, chúng tôi không thể đến gần họ. Chúng tôi đang mắc kẹt ở dưới này không lối ra. Sau đó chúng tôi thấy bộ xương đầu tiên.

Bộ xương khoác y phục trắng, giống như một loại đồng phục nào đó. Bên cạnh là một thùng gỗ lớn chứa các chai thủy tinh.

“Một người giao sữa,” Annabeth nói.

“Gì cơ?” Tôi hỏi.

“Họ từng đi giao sữa.”

“Ừ, tớ hiểu họ làm gì, nhưng... đó là khi mẹ tớ còn là một đứa trẻ, kiểu như một triệu năm trước vậy. Anh ta làm gì ở đây?”

“Một số người tình cờ lạc vào đây,” Annabeth nói. “Một số đi thăm dò có mục đích và không bao giờ quay trở lại. Từ rất lâu rồi, những người Crete thậm chí còn đưa người xuống dưới này như vật hiến tế.”

Grover nuốt xuống. “Anh ta đã ở đây lâu lắm rồi.” Cậu ấy chỉ vào những chiếc chai phủ bụi trắng bên cạnh bộ xương. Các ngón tay của bộ xương đang cào vào bờ tường, giống như anh ta đã cố tìm đường ra cho đến chết.

“Chỉ là xương thôi mà,” Tyson nói. “Đừng lo, anh bạn dê. Người giao sữa này đã chết rồi.”

“Tớ không bận tâm về người giao sữa,” Grover nói. “Ý tớ là mùi. Những con quái vật. Cậu không ngửi thấy sao?”

Tyson gật đầu. “Rất nhiều quái vật. Nhưng dưới lòng đất lúc nào cũng có mùi như vậy. Những con quái vật và xác chết của người giao sữa.”

“Ồ, hay đấy,” Grover rên rỉ. “Tớ cứ tưởng là mình nhầm.”

“Chúng ta phải đi sâu hơn và mê cung,” Annabeth nói. “Phải có một lối dẫn đến tâm của nó.”

Cô ấy dẫn chúng tôi về bên phải, sau đó là trái, qua một hành lang bằng thép không gỉ giống như một kiểu ống thông gió, và chúng tôi quay trở lại căn phòng La Mã lát khảm có đài phun nước. Và lần này thì không chỉ có chúng tôi.

Điều đầu tiên tôi chú ý là những khuôn mặt của hắn. Cả hai khuôn mặt, chúng nhô ra từ hai bên đầu, và mắt hắn nhìn qua hai vai, vì vậy đầu hắn to hơn bình thường, giống như đầu của con cá mập đầu búa. Nhìn thẳng vào hắn, tất cả những gì tôi trông thấy là hai tai chồng lên nhau và những lọn tóc mai trông như hình phản chiếu qua gương.

Hắn ăn mặc trông như một người gác cổng ở thành phố New York: một áo khoác ngoài màu đen, giày bóng lộn, và một cái mũ chóp cao không hiểu sao có thể nằm yên trên cái đầu rộng gấp đôi bình thường.

“Thế nào, Annabeth?” khuôn mặt bên trái nói. “Nhanh lên nào!”

“Đừng để ý đến hắn,” khuôn mặt bên phải nói. “Hắn rất thô lỗ. Bên này, thưa cô.”

Annabeth há miệng kinh ngạc. “Ừ... Tôi không...”

Tyson nhíu mày. “Cái gã nực cười đó có hai mặt kìa.”

“Gã nực cười đó cũng có tai đấy, ngươi biết không!” khuôn mặt bên trái hậm hực. “Bên này, thưa cô.”

“Không, không,” khuôn mặt bên phải nói. “Bên này. Nói chuyện với tôi, làm ơn.”

Gã hai mặt xem Annabeth là người thích hợp nhất để nói chuyện xét từ góc nhìn của gã. Mỗi khi nhìn vào mặt hắn, người ta chỉ có thể nói chuyện được với một trong hai khuôn mặt. Và đột nhiên tôi nhận ra điều hắn yêu cầu – hắn muốn Annabeth lựa chọn.

Đằng sau hắn là hai lối ra bị chặn bởi hai cánh cửa gỗ với hai cái khóa bằng sắt to đùng. Lần đầu tiên khi chúng tôi vào căn phòng, chúng không có ở đó. Gã gác cửa với hai khuôn mặt giữ một chìa khóa bằng bạc và chơi trò tung từ tay này sang tay kia. Tôi băn khoăn liệu đây có phải là một căn phòng hoàn toàn khác không, nhưng trụ gạch với tranh vẽ các vị thần trông hoàn toàn giống nhau.

Phía sau chúng tôi, ô cửa dẫn vào đã biến mất và được thay thế bằng nhiều miếng đá lát khảm hơn. Chúng tôi không thể thoát ra bằng con đường đã đưa chúng tôi vào đây.

“Các lối ra đã bị đóng rồi,” Annabeth nói.

“Đúng rồi!” Khuôn mặt bên trái nói.

“Chúng dẫn đi đâu?” Cô ấy hỏi

“Một lối có lẽ dẫn đến nơi cô muốn đến,” khuôn mặt bên phải nói giọng đầy khích lệ. “Lối còn lại đương nhiên dẫn đến cái chết.”

“Tôi – tôi biết ông là ai,” Annabeth nói.

“Ồ, cô thông minh đấy!” Khuôn mặt bên trái cười nhạo. “Nhưng cô có biết nên chọn lối nào không? Ta không đứng đây cả ngày đâu.”

“Sao ông cứ muốn phá rối tôi thế?” Annabeth hỏi.

Khuôn mặt bên phải cười. “Cô là người chịu trách nhiệm, cô gái. Tất cả các quyết định đều đặt lên vai cô. Đó chẳng phải là những gì cô mong muốn sao?”

“Tôi...”

“Chúng tôi biết cô, Annabeth,” khuôn mặt bên trái nói. “Chúng tôi biết hàng ngày cô phải đấu tranh với những gì. Chúng tôi hiểu sự do dự của cô. Sớm muộn gì cô sẽ phải đưa ra sự lựa chọn. Và sự lựa chọn đó có thể lấy đi mạng sống của cô.”

Tôi không biết họ đang nói về điều gì, nhưng nghe có vẻ không đơn thuần là sự lựa chọn giữa hai cánh cửa.

Khuôn mặt Annabeth thất sắc. “Không... tôi không...”

“Hãy để cô ấy được yên,” tôi nói. “Nhưng mà ông là ai vậy?”

“Tôi là người bạn tốt nhất của cậu,” khuôn mặt bên phải nói.

“Ta là kẻ thù đáng sợ nhất của ngươi,” khuôn mặt bên trái nói.

“Ta là Janus(6),” hai khuôn mặt đồng thanh. “Thần giữ cửa. Khởi đầu. Kết thúc. Lựa chọn.”

“Ta sẽ nói chuyện với cậu sớm thôi, Perseus Jackson,” khuôn mặt bên phải nói. “Nhưng bây giờ là lượt Annabeth,” Hắn cười đến nỗi đứng không vững. “Vui thật!”

“Câm miệng!” khuôn mặt bên trái nói. “Việc này nghiêm túc đấy. Một lựa chọn sai lầm có thể hủy hoại cả cuộc đời ngươi. Nó có thể giết chết ngươi và tất cả bạn bè ngươi. Nhưng không phải căng thẳng đâu, Annabeth. Hãy chọn đi!”

Đột nhiên tôi rùng mình nhớ đến một câu trong Lời Sấm Truyền: sự kháng cự cuối cùng của đứa con nữ thần Athena...

“Đừng làm điều đó,” tôi nói.

“Ta e cô ta phải làm điều đó,” khuôn mặt bên phải nói đầy phấn khởi.

Annabeth liếm môi. “Tôi... tôi chọn...”

Trước khi Annabeth kịp chỉ vào một cánh cửa thì một ánh sáng chói lòa tràn ngập căn phòng.

Janus đưa tay lên hai bên đầu để che mắt mình lại. Khi luồng sáng vụt tắt, một người phụ nữ đã đứng ở đài phun nước.

Ng đó cao lớn và duyên dáng với mái tóc màu sôcôla, được tết đuôi sam cùng những sợi ruy-băng bằng vàng. Bà ta mặc một chiếc váy màu trắng đơn giản, nhưng khi di chuyển, những sợi vải tỏa ánh sáng giống như màu của dầu trên mặt nước.

“Janus,” bà ta nói, “Chúng ta lại gây rắc rối ư?”

“Kh-không, thưa quý bà!” Khuôn mặt bên phải của Janus lắp bắp.

“Đúng vậy!” Khuôn mặt bên trái nói.

“Im miệng!” Khuôn mặt bên phải nói.

“Làm ơn nhắc lại?” Người phụ nữ hỏi.

“Không phải nói bà, thưa quý bà! Tôi chỉ đang nói với chính mình.”

“Ta hiểu,” người phụ nữ nói. “Ngươi biết rất rõ là ngươi đã đến quá sớm mà. Thời điểm của cô gái này chưa đến. Vì vậy ta cho ngươi một lựa chọn: để những người hùng này lại với ta, hoặc ta sẽ biến ngươi thành một cánh cửa và đập vỡ ngươi ra đấy.”

“Loại cửa nào vậy?” Khuôn mặt bên trái hỏi.

“Câm miệng!” Khuôn mặt bên phải nói.

“Vì cửa kiểu Pháp rất đẹp,” khuôn mặt bên trái tư lự. “Có được nhiều ánh sáng tự nhiên.”

“Câm ngay!” khuôn mặt bên phải thét lên. “Không phải nói bà, thưa quý bà! Tất nhiên tôi sẽ đi. Tôi chỉ đùa một chút thôi mà. Làm công việc tôi vẫn làm. Đưa ra những lựa chọn.”

“Gây ra sự hoang mang,” người phụ nữ chữa lại. “Nào, bây giờ thì đi đi!”

Khuôn mặt bên trái lẩm bẩm, “Đồ phá đám,” sau đó hắn nhấc chiếc chìa khóa bạc lên, tra vào không khí, và biến mất.

Người phụ nữ quay lại phía chúng tôi, và tôi sợ điếng người. Mắt bà ta sáng lên đầy quyền lực. Hãy để những người hùng này lại cho ta. Câu này nghe không được hay cho lắm. Trong một giây, tôi lại ước gì chúng tôi đã tận dụng cơ hội với Janus. Nhưng sau đó người phụ nữ mỉm cười.

“Chắc hẳn các cô cậu đói rồi,” bà ta nói. “Ngồi xuống và nói chuyện với ta nào.”

Bà ta vẫy tay, và đài phun nước kiểu La Mã cổ bắt đầu chảy. Những tia nước trong mát phun vào không trung. Một chiếc bàn bằng đá cẩm thạch xuất hiện, chất đầy các đĩa lớn bánh sandwich và những bình nước chanh.

“Bà... bà là ai?” Tôi hỏi.

“Ta là Hera.” Người phụ nữ mỉm cười. “Nữ hoàng của bầu trời.”

Tôi từng trông thấy nữ thần Hera ở hội nghị các thần, nhưng tôi không chú ý cho lắm. Lúc đó tôi đang được vây quanh bởi một nhóm các thần khác, những người đang tranh cãi liệu có nên lấy mạng tôi hay không.

Tôi không nghĩ bà ấy trông bình thường đến thế. Tất nhiên, các vị thần thường cao khoảng hơn sáu mét khi họ ở trên đỉnh Olympus, và điều đó khiến họ trông chẳng bình thường chút nào. Nhưng giờ đây, nữ thần Hera trông như một bà mẹ bình thường.

Nữ thần Hera mời bánh sandwich và rót nước chanh cho chúng tôi.

“Grover yêu quý,” bà ta nói. “Hãy dùng khăn ăn. Đừng ăn nó.”

“Vâng, thưa bà,” Grover nói.

“Tyson, cậu gầy đi đấy. Có muốn thêm một chiếc bánh sandwich bơ đậu phộng nữa không?”

Tyson nén một tiếng ợ. “Có, quý bà xinh đẹp.”

“Nữ hoàng Hera,” Annabeth nói. “Con không thể tin nổi. Người đang làm gì trong Mê Cung vậy?”

Nữ thần Hera mỉm cười. Bà ta búng nhẹ một ngón tay và tóc của Annabeth được chải mượt. Mọi bụi bặm và vết bẩn biến mất khỏi khuôn mặt cô ấy.

“Đương nhiên là ta đến thăm các con,” nữ thần nói.

Grover và tôi nhìn nhau lo lắng. Thông thường khi các vị thần đến tìm bạn, đó không phải do lòng tốt gì cả. Chỉ là vì họ muốn một điều gì đó.

Tuy vậy, sự lo lắng cũng không cản tôi nuốt trọn mấy cái sandwich gà tây và pho-mát Thụy Sĩ cùng khoai tây chiên và nước chanh. Tôi không biết là mình lại đói đến thế. Tyson đang ăn sandwich bơ đậu phộng, hết cái này đến cái khác, và Grover thì thích nước chanh, cậu ấy đang nhai một chiếc cốc nhựa như một cây kem ốc quế vậy.

“Con không nghĩ...” Annabeth ấp úng nói. “À, con không nghĩ rằng Người lại thích những anh hùng.”

Nữ thần Hera cười một cách bao dung. “Vì cái vụ cãi nhau vặt vãnh giữa ta và Hercules sao? Thực tình, ta bị nghĩ xấu rất nhiều chỉ vì một sự bất hò

“Không phải Người đã cố giết Hercules rất nhiều lần sao?” Annabeth hỏi.

Nữ thần Hera xua tay phủ nhận. “Chuyện đã qua lâu lắm rồi mà, con gái. Ngoài ra, Hercules còn là một trong những đứa con của chồng yêu quý của ta với người phụ nữ khác. Sức chịu đựng của ta không được như trước nữa, ta phải công nhận điều đó. Nhưng từ đó ta và Zeus đã có những buổi bàn bạc trao đổi về hôn nhân rất thành công. Chúng ta đã trút hết bầu tâm sự và hiểu nhau hơn – đặc biệt là sau vụ việc xô xát nho nhỏ cuối cùng đó.”

“Ý bà là khi thần Zeus sinh ra Thalia phải không ạ?” Tôi đoán, và ngay lập tức ước rằng tôi đã không làm thế. Ngay khi tôi nói tên bạn mình, đứa con lai của thần Zeus, nữ thần Hera quay sang nhìn tôi đầy lạnh nhạt.

“Percy Jackson, phải không nhỉ? Một trong... những đứa con của Poseidon.” Tôi có cảm giác bà ta đang nghĩ đến một từ khác khi nhắc đến “những đứa con”. “Ta nhớ rằng mình đã ‘bỏ phiếu’ cho cậu được sống vào hồi Đông Chí. Ta hy vọng ta đã lựa chọn đúng.”

Nữ thần Hera quay lại nở một nụ cười thật ấm áp với Annabeth. “Dù sao đi nữa, ta đương nhiên không có ý đồ gì xấu, con gái ạ. Ta đánh giá cao sự khó khăn của cuộc tìm kiếm này. Đặc biệt khi phải đối phó với những kẻ gây rối như Janus”.

Mắt Annabeth trùng xuống. “Tại sao hắn lại ở đó? Hắn làm con phát điên.”

“Hắn đã cố làm vậy,” Hera đồng ý. “Con phải hiểu rằng, những tiểu thần như Janus luôn tức tối vì vai trò nhỏ của họ trong vũ trụ này. Một vài, ta sợ là, có rất ít tình yêu với đỉnh Olympus, và rất dễ bị thuyết phục chạy sang phe của cha ta.”

“Cha của bà ư?” Tôi nói. “Ồ, phải rồi nhỉ.”

Tôi quên rằng Kronos là cha của nữ thần Hera, cùng với thần Zeus và thần Poseidon, và tất cả các vị thần già nhất của đỉnh Olympus. Nói vậy thì Kronos cũng là ông nội của tôi nhỉ, nhưng ý nghĩ này quá kỳ cục nên tôi gạt ngay nó ra khỏi đầu.

“Chúng ta phải để ý các tiểu thần,” nữ thần Hera nói. “Janus. Hecate. Morpheus(7). Ngoài miệng thì chúng nói là phục vụ cho đỉnh Olympus, tuy nhiên...”

“Đó là nơi thần Dionysus đến,” tôi nhớ lại. “Thần Dionysus đang kìm hãm các tiểu thần.”

“Thực vậy.” Nữ thần Hera nhìn những miếng đá lát khảm về các vị thần trên đỉnh Olympus. “Các ngươi thấy đấy, khi có khó khăn, thì đến cả các vị thần cũng mất lòng tin. Họ bắt đầu đặt niềm tin vào những điều sai lầm, những điều vụn vặt. Họ ngừng việc nhìn vào toàn cảnh và trở nên ích kỉ. Nhưng ta là nữ thần của hôn nhân. Ta đã quen với việc nhẫn nại. Chúng ta phải vượt qua việc cãi nhau ầm ĩ, những lộn xộn và giữ vững niềm tin. Chúng ta phải luôn kiên trì với mục đích của mình.”

“Mục đích của Người là gì?” Annabeth hỏi.

Nữ thần Hera mỉm cười. “Dĩ nhiên là giữ cho gia đình ta, các vị thần trên đỉnh Olympus, gắn bó với nhau. Vào thời điểm này, cách tốt nhất ta có thể làm điều đó là giúp các ngươi. Ta e là Zeus không cho ta can thiệp sâu. Nhưng mỗi một thế kỷ hoặc chừng đó, đối với một cuộc tìm kiếm mà ta thực sự quan tâm đến, Zeus cho phép ta ban một điều ước.”

“Một điều ước?”

“Trước khi các ngươi đưa ra điều ước của mình, hãy để ta cho các ngươi một vài lời khuyên, đây là điều ta có thể tự do thực hiện. Ta biết các ngươi đang tìm Daedalus. Mê Cung của hắn đối với ta cũng huyền bí chẳng khác gì các ngươi. Nhưng nếu muốn biết số phận của ông ta, ta sẽ đến lò rèn tìm con trai Hephaestus của ta. Daedalus là một nhà phát minh vĩ đại, một người trần khá hợp với Hephaestus. Chưa bao giờ có một người trần nào mà Hephaestus ngưỡng mộ hơn thế. Nếu có ai đó vẫn còn liên lạc với Daedalus và có thể nói cho các ngươi về số phận của ông ta, thì đó chính là Hephaestus.”

“Nhưng làm thế nào chúng con đến đó được?” Annabeth hỏi. “Đó là điều con mong muốn. Con muốn tìm ra cách đi qua Mê Cung.”

Hera trông có vẻ thất vọng. “Thế đấy. Con ước một điều mà con đã có rồi.”

“Con không hiểu.”

“Phương tiện đã nằm ngay trong tay con.” Hera nhìn tôi. “Percy biết câu trả lời đấy.”

“Tôi ư?”

“Nhưng như thế là không công bằng,” Annabeth nói. “Người không nói cho chúng con biết đó là gì!”

Nữ thần Hera lắc đầu. “Việc có được một thứ gì đó và việc có đủ trí khôn để dùng nó... đó là hai việc hoàn toàn khác nhau. Ta chắc rằng mẹ Athena của con cũng đồng ý điều này.”

Cả căn phòng rung ầm ầm như có sấm từ đằng xa. Nữ thần Hera đứng dậy. “Đó là gợi ý của ta đấy. Zeus hết kiên nhẫn rồi. Hãy suy nghĩ về những điều ta vừa nói, Annabeth. Hãy tìm Hephaestus. Con sẽ phải đi qua một nông trại, ta nghĩ thế. Nhưng hãy đi tiếp. Và sử dụng tất cả các phương tiện sẵn có, dù chúng có bình thường đến thế nào đi chăng nữa.”

Bà ta chỉ tay vào hai cánh cửa và chúng biến mất, để lộ ra hai hành lang mở giống nhau và tối đen như mực. “Một điều cuối cùng, Annabeth. Ta đã hoãn lại ngày con phải lựa chọn, chứ không phải là hủy bỏ. Thời khắc đó sắp đến rồi, như Janus đã nói, con sẽ phải quyết định. Tạm biệt!”

Bà ta vẫy tay và biến thành một làn khói trắng. Thức ăn cũng vậy, ngay cả chiếc bánh Tyson đang nhai rào rạo biến thành làn sương tan trong miệng cậu ấy. Đài phun nước chảy nhỏ lại rồi dừng hẳn. Những bức tường lát đá khảm mờ đi và chuyển về trạng thái bám đầy bụi và phai màu như cũ. Căn phòng không còn là nơi ai đó muốn đi dã ngoại nữa.

Annabeth dậm chân. “Giúp đỡ cái kiểu gì vậy? ‘Này, ăn bánh sandwich đi. Ước đi. Ôi, ta chả giúp được đâu!’ Pốp! Biến mất.”

“Pốp, biến mất,” Tyson buồn bã tán thành khi nhìn vào cái đĩa trống trơn.

“Thôi nào,” Grover thở dài, “bà ta nói Percy biết câu trả lời. Chắc chắn điều này có nghĩa gì đó.”

Mọi người quay sang nhìn tôi.

“Nhưng tớ không biết,” tôi nói. “Tớ còn chẳng hiểu bà ấy nói về cái gì nữa.”

Annabeth thở dài. “Được rồi. Vậy chúng ta cứ đi tiếp đi.”

“Đi đường nào chứ?” Tôi hỏi. Tôi thực sự muốn hỏi tại sao nữ thần Hera lại nói như vậy – về lựa chọn mà Annabeth cần phải thực hiện. Grover và Tyson đều đang căng thẳng. Họ đứng lên cùng một lúc giống như đã được tập dượt từ trước vậy. “Bên trái,” cả hai đồng thanh nói.

Annabeth nhíu mày. “Làm sao các cậu chắc chắn thế?”

“Bởi vì có một cái gì đó đang tiến lại từ bên phải,” Grover nói.

“Một thứ gì đó rất lớn,” Tyson đồng ý. “Và đang rất vội.”

“Bên trái à? Nghe cũng hấp dẫn đấy,” tôi quyết định. Và chúng tôi cùng nhau lao vào hành lang tối tăm