Phá Quán Tử Phá Suất

Quyển 3 - Chương 39: Loạn điểm uyên ương




“Ăn cơm đê, qua ăn chung nào” A Đẩu cẩn thận đẩy cửa ra.

Trầm Kích đang xoay tới xoay lui cây sáo mua trên sạp giữa các ngón tay.

“Lữ đẹp trai” A Đẩu lại nói: “Ngươi đánh tới phát ngốc luôn rồi hả?”

Trầm Kích trừng mắt nhìn, A Đẩu cười nói: “Thưởng công cho ngươi được không? Qua ăn chung đi”

Trầm Kích đứng dậy theo A Đẩu băng qua hoa viên, Triệu Vân ôm quyền thi lễ với hắn, đứng lên nhường ghế, Trầm Kích nhìn một hồi rồi gật gật đầu, không nhún nhường nữa, ngồi vào bàn.

Bên trong nồi đất ninh mấy loại thực phẩm khô như măng tre, nấm đầu khỉ; thịt bò cắt thành miếng lớn, thịt khô cá khô, hầm nguyên một nồi, hương thơm nứt mũi. A Đẩu giơ tay muốn châm rượu cho Trầm Kích, Trầm Kích vội chắn chung rượu lại.

“Ngươi là hầu gia, ta bất quá chỉ là vương thế tử tầm thường thôi” A Đẩu cười nói.

Trầm Kích mới thả tay, nhìn vào chiếc nồi kia, giống như đang nhớ tới chuyện xưa.

Triệu Vân nói: “Công phu của Trầm Kích lão đệ tuyệt thật, kính ngươi một chung” Bèn nâng ly, hai người kính nhau uống cạn.

Trầm Kích nói: “Rượu không phải thứ tốt” Nói xong tự mình châm rượu, châm luôn cho Triệu Vân.

Ba chung vừa cạn, Trầm Kích dần dần nói nhiều hơn, cũng chẳng còn câu thúc nữa, tán gẫu về võ nghệ với Triệu Vân, quả thật đã tìm đúng người rồi.

Triệu Vân học rất nhiều thứ, đao, thương, côn, kiếm, cưỡi ngựa bắn cung không gì không biết; còn Lữ Bố thì học nghệ chuyên tinh, cũng đạt tới cảnh giới nhất kỹ mà thông trăm điều. Đôi bên giao lưu võ học lẫn nhau, tránh né chuyện cũ, nói chuyện thật vui vẻ, ngược lại gạt A Đẩu sang một bên.

A Đẩu nghe đến choáng đầu hoa mắt, chỉ còn biết gắp thức hai cho hai người bọn họ, khi bàn tới trận tỷ võ ban ngày, Trầm Kích chợt nói: “Chủ công, lúc ngươi ở bên ngoài giáo trường tụ tập mọi người đặt cược, vì sao biết hòa nhau?”

Đây là lần đầu tiên Lữ Bố chính thức gọi tiếng “Chủ công” này, làm cả người A Đẩu mất tự nhiên, đến tận bây giờ hắn vẫn chưa từng có khái niệm về chủ tớ hay quân thần, chỉ ngượng ngùng nói: “Hãy cứ gọi ta là Công Tự đi, trước giờ ta chưa từng coi ngươi như bộ hạ, kêu đại là được rồi…”

Trầm Kích cười cười, không nói gì nữa, tỏ vẻ ngầm đồng ý với ý kiến của A Đẩu, A Đẩu lại nói: “Ta cho rằng sư phụ sẽ thắng, không biết tại sao nữa, ta cứ cảm thấy cho dù sư phụ không thắng, cũng sẽ tuyệt đối không thua”

Lời này đích thực là xuất phát từ chân tâm, trong ấn tượng bất biến của A Đẩu, vô luận là Triệu Vân đơn đấu hay quần đấu đều chưa bao giờ có bại tích, là người có thể cho hắn cảm giác an toàn nhất. A Đẩu ngẫm nghĩ, sợ Lữ Bố tức giận, cuối cùng còn thành thật nói rằng: “Ta nghĩ nếu sư phụ thắng, thì theo như tính tình của y, nhất định sẽ bảo là hòa nhau. Nếu sư phụ không thắng, cùng lắm cũng hòa thôi”

Triệu Vân phụt một tiếng phun rượu ra ngoài, cùng Trầm Kích liếc mắt nhìn nhau, hai người đều lắc đầu bất đắc dĩ cười khổ.

“Cười cái gì?” Khóe miệng A Đẩu co giật, tức giận nói: “Có gì đáng cười chứ”

Lữ Bố trầm ngâm nửa ngày, nói: “Bình sinh bại tích của ta rất nhiều, nhưng cũng đâu đánh mất danh tiếng”

Triệu Vân nói: “Theo Vân thấy thì không hẳn vậy đâu, từ sau trận Lạc Dương trừ tặc, Ôn hầu đâu còn bại tích gì nữa”

Lữ Bố gật gật đầu: “Trận đó quả thật là do ta quá khinh địch”

A Đẩu hiếu kỳ nói: “Cái gì? Lạc Dương?”

Triệu Vân nói: “Thắng bại là chuyện thường tình của binh gia, không hề tổn hại uy danh” Đang muốn khéo léo chuyển đề tài, ai ngờ A Đẩu cứ hiếu kỳ hỏi tới không ngừng.

Lữ Bố nói: “Năm đó ta và Vương Doãn trừ Đổng Trác, vốn tưởng rằng loạn cục đã định, bèn không lưu tâm nữa…”

Giờ A Đẩu mới hiểu lời của Lữ Bố và Triệu Vân, hai người đang nhắc tới cú hồi mã thương* của Lý Nho. Sau khi Lữ Bố đâm chết Đổng Trác, bộ hạ của Đổng Trác là Lý Nho, Quách Tỷ quýnh quáng bỏ trốn, mang theo đại quân rời khỏi Lạc Dương, giải tán quân đội. Lữ Bố tiến phong Ôn hầu, nhậm chức võ tướng quân, lễ nghi sánh ngang tam ti**. Cùng Vương Doãn chia nhau chấp chưởng văn võ đại quyền. [*quay đầu lại bất ngờ đâm ngọn thương vào kẻ địch; **chỉ ba chức quan cao cấp nhất trong triều đình phong kiến Trung Quốc, gồm: thừa tướng, thái úy, ngự sử đại phu]

Nào ngờ hai tháng sau, Lý Nho trốn chạy khỏi Lạc Dương gặp gỡ Giả Hủ, Giả Hủ hiến kế cho loạn quân. Hai người nghe kế xong triệu tập bộ hạ cũ tấn công về Lạc Dương. Lữ Bố bị đánh trở tay không kịp, đành phải trốn khỏi kinh thành.

“…Hôm đó trên triều không có việc gì cả, Hiến Đế không tới, ta nghe phản tặc nhập kinh, thầm nghĩ nay đã như rắn mất đầu, ắt sẽ bại dưới tay địch, bèn lệnh cho Văn Viễn đi thủ Nam môn, ta trở về nhà thăm chừng, sợ loạn binh động tới…người nhà” Lữ Bố thản nhiên nói.

Phản quân vào thành, chuyện đầu tiên Lữ Bố làm không phải là đi thủ Hán đế, mà là về nhà bảo vệ vợ con, sợ Điêu Thiền bị kinh hoảng, A Đẩu nghe tới đây không khỏi mỉm cười, Lữ Bố coi việc nhà quan trọng hơn việc nước, đúng là có tinh thần của một võ tướng bất tuân thời đại này.

Lại nghĩ nếu không phải vậy, thì hắn sẽ chẳng là Lữ Bố nữa. A Đẩu hiểu ý cười nói: “Ai dám ức hiếp nàng ta chứ, nàng chính là đồ đệ của lão Tả Từ sống dai kia đấy”

Lữ Bố hơi giận nói: “Lúc ấy có biết đâu, chỉ tưởng nàng là một nữ tử yếu đuối”

Triệu Vân cười hỏi: “Sau đó thế nào?”

Lữ Bố nói: “Quả nhiên đã có không ít người xông vào trong phủ, ta nghĩ Văn Viễn thủ thành môn không được, chắc chắn sẽ trở về cầu viện, bèn giết sạch đám tiểu binh vào phủ, ở nhà chờ hắn”

“Trong nhà chết vài người thị tỳ, Điêu Thiền núp trong hoa viên, thấy ta về nhà thì không sợ hãi nữa; vẫn có không ít binh sĩ ùn ùn tiến vào, ta bèn cùng nàng dựa vào tường viện, một tay gối sau gáy nói chuyện cười với nàng, một tay cầm kích quét sạch đám tiểu binh kia”

Sau khi tử thi đã chất muốn cao gần bằng nửa bức tường rồi mà Văn Viễn vẫn chưa tới, ta mới cảm thấy không ổn” Lữ Bố nhởn nhơ nói: “Đành phải đứng dậy kêu Xích Thố đến, mang theo Điêu Thiền ra ngoài xem thử”

“Kết quả người đông nghìn nghịt lấp kín cửa phủ ta, ta bèn xông giết ra ngoài, trên đường đầy nhóc kỵ binh, Lý Nho đoán được ta sẽ xông trận, nhưng Lạc Dương có binh mà vô tướng, không kẻ nào đỡ nổi được một thương của ta, đành phải đem binh tới vây”

A Đẩu hít vào một hơi, Lữ Bố lại nói: “Hắn tưởng ta giết nhũn tay rồi sẽ đầu hàng. Nhưng cái hắn không ngờ tới chính là, ta còn mang theo một người. Nếu chỉ có một mình xông quân, không chừng ta thật sự sẽ nhận thua”

“Nhưng khi nàng ôm lấy eo ta, tựa đầu vào lưng ta, ta liền có sức mạnh dùng mãi không hết” Lữ Bố nhìn sang Triệu Tử Long.

Triệu Vân gật gật đầu, thản nhiên nói: “Tâm có vương vấn, đương nhiên sẽ anh dũng gan dạ hơn những lúc chỉ có một mình”

Cả bàn lặng yên.

A Đẩu biết Triệu Vân cũng đã từng trải qua hoàn cảnh giống như Lữ Bố. Thật lâu sau mở miệng hỏi: “Rồi sao nữa?”

Lữ Bố đáp: “Tay ta còn chưa nhũn mà binh lính đã chết sạch cả rồi. Văn Viễn ở cổng thành hội hợp cùng ta, một đường liều mạng giết ra, trải qua trận chiến đó, Điêu Thiền bị sinh non”

A Đẩu thất thanh nói: “Nàng mang thai?”

Lữ Bố mỉm cười, không nhắc tới chuyện cũ nữa. Triệu Vân chuyển đề tài, hai người lại bàn về chiến thuật binh pháp một hồi, ăn cơm xong Trầm Kích về phòng nghỉ ngơi.

Tiếng địch dằng dặc xuyên qua hoa viên truyền tới, đêm đông trong viện tuyết trắng nhẹ bay, Triệu Vân nổi thêm lửa cho lò than nhỏ, đun ấm trà ngon từ Kiến Nghiệp mang tới, lá trà chìm chìm nổi nổi, hương thơm ngập phòng.

A Đẩu bưng chung sứ bò lên giường Triệu Vân, tựa vào cánh tay y nghe chốc lát rồi nói: “Khúc gì vậy, bi thương quá, Ách ba không thể thổi khúc nào vui hơn chút sao?”

Triệu Vân mỉm cười nói: “Ngươi nghĩ là sầu ư? Hãy nghe kỹ vào. Khúc này do Thái Văn Cơ sáng tác, giai điệu thổi ra toàn là lời hay ý đẹp”

Khúc điệu kia trầm khàn mỏi mệt, A Đẩu nghe nửa ngày, chợt nhận ra một chút ý vui.

Triệu Vân nói: “Mưa gió mù mịt, gà gáy không dứt; đã gặp quân tử, cớ gì không vui”

“Sư phụ cũng hiểu âm luật à?”

Triệu Vân mỉm cười nói: “So với Chu Công Cẩn thì y như mây với bùn vậy”

A Đẩu đúng là đang nhớ tới điển cố “Khúc hữu lệch, Chu lang cố(1)”, Triệu Vân dường như tâm ý tương thông với hắn, nói toạc một câu ra, sư đồ hai người đều bật cười.

Ánh đèn bên phòng đối diện tắt phụt. Triệu Vân nói: “Đêm đông dài, ngủ thôi”

A Đẩu cũng không ở lại giường Triệu Vân, đi vào gian trong, lại nghe thấy tiếng sáo vang lên một cách đứt quãng.

Lần này chẳng biết tại sao, hắn nghe không ra khúc phong, nhưng lại hiểu thâm ý của tiếng sáo, dường như xuất phát từ trực giác.

“Kẻ hiểu ta bảo rằng lòng ta sầu, kẻ không hiểu bảo ta cầu điều chi” A Đẩu nhẹ giọng nói: “Trời xanh xa thẳm…hỏi người nơi đâu”

Ngoài cửa sổ đại tuyết vô cùng vô tận khẽ phát ra tiếng vang “Sàn sạt”

Hôm sau, ngàn gốc hoa lê, thềm ngọc chạm trổ, đập vào mắt đều là một lớp tuyết thật dầy.

Sáng sớm, A Đẩu đang ăn điểm tâm, chợt nghe tiếng thiếu niên cất vang trong viện: “Ai nha_____”

A Đẩu húp một miếng cháo, suýt nữa bị cháo gạo tẻ làm bỏng lưỡi, nuốt lẹ lẹ vào, ló đầu ra nhìn, dở khóc dở cười: “Vu Cát?”

Vu Cát đứng trong viện, băng vụn khắp người rơi ào ào xuống đất, đi được vài bước đã ngã nhào ụp mặt vào lớp tuyết, kêu một tiếng “Ai nha”, xong bò dậy, kiên trì cố gắng, lại té tiếp.

“…”

“Nãi Cát ngươi đang làm cái gì vậy hả!!” A Đẩu phát điên nói: “Đống tuyết trong viện kia là để tiểu gia đắp người tuyết đó! Bị ngươi làm tè le rồi kìa!”

Vu Cát vừa té vừa đáp: “Tiểu Lượng kêu ngươi ăn điểm tâm xong qua đó kìa”

A Đẩu “Ờ” một tiếng, Vu Cát lại cười nói: “Hôm nay tốt nhất ngươi đừng đi”

A Đẩu lau mặt, ra ngoài hỏi: “Sao vậy?” Xong bắt chước theo Vu Cát ngã nhào ra đất.

“Wow! Thoải mái quá!” A Đẩu hắt hơi một cái, đang định ngồi dậy thì chợt có một quả cầu tuyết bay ngang qua đập vô mặt hắn, làm hắn kêu to một tiếng, té phịch xuống đất.

Triệu Vân cười sặc sụa, liên tục lách mình trốn, A Đẩu vừa cào cầu tuyết vừa mắng to đuổi theo.

Triệu Vân chỉ núp tới núp lui, thình lình trượt té trên nền tuyết, A Đẩu đắc ý xông lên cưỡi trên lưng Triệu Vân, cầm cầu tuyết nhét vào trong cổ áo Triệu Vân.

“Ai nha_____đồ đệ, ngươi mau…mau đi gặp quân sư, không thể chậm_____ai nha_____” Triệu Vân vội cầu xin, A Đẩu hung ác cười to, đang âm mưu chỉnh chết y thì lại có thêm một quả cầu tuyết bay vèo tới, nện hắn ngã nhào.

Trầm Kích phì cười lách mình ra sau cột.

“Khốn kiếp, cả đám thông đồng với nhau! Khốn kiếp!” A Đẩu phẫn nộ mắng, kéo cổ áo ngay ngắn đi theo Vu Cát tới gặp Gia Cát Lượng.

Trong phòng nghị sự, Gia Cát Lượng và Pháp Chính, Bàng Thống, Lý Nghiêm bốn vị mưu sĩ không biết đang thương nghị chuyện gì đó, thấy Lưu Thiện tới bèn ngừng nói chuyện, đồng loạt nhìn sang hắn.

A Đẩu hành đệ tử lễ với bốn người, Gia Cát Lượng vui vẻ đón nhận, nhưng ba người còn lại không dám vượt quá bổn phận, vội khiêm nhường đồng thời xưng tiểu chủ công.

A Đẩu vừa ngồi xuống, Gia Cát Lượng đã nhíu mày nói: “Sao cả người đầy tuyết thế kia?”

A Đẩu cười đáp: “Ăn cơm no xong chơi ném tuyết ấy mà”

Gia Cát Lượng không vui nói: “Hiện giờ thân là Trữ quân, thái tử giám quốc, sao lại đi làm mấy trò con nít đó?”

Mới tới đã bị giáo huấn, A Đẩu thầm nghĩ Vu Cát bảo không nên xuất môn, đúng là thần cơ diệu toán mà, bèn trưng ra vẻ mặt vâng dạ nói: “Tại tên tiểu hỗn đản Vu Cát kia hại…”

Tuy Vu Cát mang dáng dấp tiểu hài, nhưng luận về vai vế lại ngang hàng với bốn người trong phòng, A Đẩu gọi hắn “Tiểu hỗn đản” rõ ràng là đã chiếm tiện nghi của mấy vị đại thần này. Khổng Minh biết tranh luận với tên vô lại này sẽ chả được kết quả tốt đẹp gì, đành từ bỏ, nói tiếp: “Ngươi hãy viết bát tự của mình lên tấm thiếp này đi?”

A Đẩu không thèm ngó tới tấm thiếp, nói: “Muốn làm gì?”

Khổng Minh đáp: “Chủ công nhiễm trọng bệnh, ngươi thân là đích tử, đương nhiên phải chọn ngày thành hôn cho vi phụ vui”

Trong đầu A Đẩu kêu ông một tiếng, thất thanh nói: “Thành hôn?!”

Ý niệm đầu tiên của hắn không phải là thành thân với nữ tử, mà đã bay tuốt qua Tào Chân bên Lạc Dương, dở khóc dở cười nói: “Người…Sao các người không nói cho ta biết trước?”

Pháp Chính thấy vẻ mặt khó tin của Lưu Thiện, chỉ tưởng rằng thiếu niên cao hứng, cười nói: “Hiếu Trực làm mai mối cho tiểu chủ công có được không?”

A Đẩu hỏi: “Thiếp bát tự kia là của ai đấy?”

Khổng Minh đáp: “Con gái của Tam thúc ngươi, Trương Tinh Thải”

A Đẩu hít một hơi khí lạnh, nói chắc như đinh đóng cột: “Đùa kiểu gì vậy, ta không lấy nàng đâu!”

Lần này đến phiên chúng mưu sĩ ngũ lôi oanh đỉnh, Gia Cát Lượng nhíu mày nói: “Không lấy nàng? Ngươi có biết bản thân đang nói gì không?”

A Đẩu căm phẫn nói: “Ta không yêu nàng, hoàn toàn chẳng quen biết Tinh Thải gì gì đó, sao mà lấy được?”

Lý Nghiêm và Pháp Chính nhìn nhau mỉm cười, Lý Nghiêm cười nói: “Trương tướng quân tuy trước giờ hành sự không câu nệ, nhưng gia giáo lại cực nghiêm, Chính Phương và Hiếu Trực tiên sinh đứng ra đảm bảo sẽ không lấy phải một kẻ chua ngoa đâu”

Pháp Chính cười nói: “Tiểu chủ công hãy yên tâm, diện mạo và tính tình của vị hiền thê chưa xuất giá kia tuyệt đối không hề giống Dực Đức tướng quân, mà ngược lại ôn nhu hiền thục. Mai sau có phiền toái gì cứ tìm đám mai mối chúng ta là được”

Gia Cát Lượng vốn định trách mắng Lưu Thiện mấy câu, nghe Pháp Chính và Lý Nghiêm hòa giải xong cũng đành phải nể mặt, hòa nhã nói: “Chủ công bệnh nặng, mong mỏi ngươi thành gia, chuyện này không thể kéo dài được nữa. Mới nãy ta và Vu đạo trưởng đã chọn ngày lành cho ngươi rồi, tháng giêng năm nay…”

A Đẩu ngẩng đầu lên nói: “Tiên sinh, ta không lấy, không thể lấy”

Trong phòng im lặng, Bàng Thống vẫn chưa lên tiếng lúc này mới hỏi: “Tiểu chủ công có thể nói cho chúng ta biết vì sao không lấy không?”

Nhưng Gia Cát Lượng xem như không nghe thấy lời của Bàng Thống, lạnh lùng nói: “Đồ đệ, chớ có hành động theo cảm tính”

A Đẩu trầm mặc.

Gia Cát Lượng ném tấm thiếp trong tay đi, tờ giấy nhẹ bay đột nhiên nổi phong nhận, thổi tới A Đẩu, lướt xoẹt qua gò má hắn, lưu lại một vết máu.

“Lệnh phụ mẫu, lời mai mối, đâu đến lượt ngươi không lấy!”

Mãi đến lúc này A Đẩu mới giật mình nhận ra, hôn nhân vào thời đại Tam Quốc vốn không phải chuyện mình có thể tự làm chủ được.

Gia Cát Lượng bảo mình tới đây nào phải thăm dò ý kiến, mà là để báo cho mình biết quyết định.

Thật lâu sau, Lý Nghiêm phá vỡ sự im lặng, cười nói: “Công Tự, chuyện này chỉ nói riêng với ngươi thôi, nếu ngươi đã có nữ tử trong lòng, ngày sau nạp thêm cũng được mà, Tinh Thải vốn rất tốt, Trương tướng quân lại là người một nhà với ngươi…”

A Đẩu biết lúc này nếu muốn cự tuyệt hôn nhân thì tuyệt đối không thể ngang bướng được, chợt nói: “Lệnh phụ mẫu? Mẹ ta đã chết từ lâu rồi, lệnh mẫu ở đâu ra thế? Sao các người biết nàng trên trời linh thiêng muốn Trương Tuệ làm con dâu nàng? Sao không tìm Vu Cát tới bói một quẻ trước? Hỏi thử ý tứ người chết xem thế nào?”

Gia Cát Lượng như sớm đoán được A Đẩu sẽ nói như vậy, cười lạnh nói: “Truyền Triệu Tử Long”

Thị vệ trong phòng lĩnh mệnh rời đi, Bàng Thống thấy bầu không khí lúc này nặng nề quá, đành phải nói: “Công Tự vừa ý thiên kim nhà nào, nếu môn đăng hộ đối cũng được” Nói xong nhìn sang Gia Cát Lượng, nháy mắt ra hiệu.

A Đẩu nhìn nền nhà, thấp giọng nói: “Chả vừa ý ai hết…Ta không muốn làm lỡ Trương Tuệ, cũng không muốn miễn cưỡng chính mình, thế thôi”

Đang lúc giằng co thì Triệu Vân đã vội vã chạy tới, Gia Cát Lượng nói sơ lược cho Triệu Vân rõ, sau cùng bảo: “Năm xưa Tử Long và Cam phu nhân đã từng kết nghĩa huynh muội”

A Đẩu rùng mình trong lòng, ngẩng đầu liếc nhìn Triệu Vân một cái, nói: “Ngươi là cậu của ta à? Sao không nói sớm?”

Nhưng Triệu Vân mắng: “Chớ có vô lễ, bao giờ đến lượt ngươi lên tiếng?!”

Gia Cát Lượng nói: “Thấy cậu như thấy mẹ, mẹ ngươi mất sớm, Tử Long có thể quyết định thay, hiện giờ lệnh phụ mẫu đã có đủ, Pháp Chính tiên sinh làm mai mối, mười lăm tháng giêng…”

Triệu Vân trầm giọng nói: “Khoan đã!”

Gia Cát Lượng giống như hết sức bất ngờ, cùng Triệu Vân nhìn nhau thật lâu, nhíu mày nói:

“Chủ công bệnh nặng, Tử Long tướng quân còn lời gì muốn nói nữa?”

————————————-

Chú giải:

(1) Khúc hữu ngộ, Chu lang cố (cố nghĩa là ngoảnh lại nhìn):  Khi Chu Du nghe người ta trình diễn, cho dù đã uống nhiều rượu, hơi say rồi, nhưng nếu trình diễn sai sót một chút thôi cũng nhất định thoát không khỏi tai ông. Mỗi lần phát hiện sai sót, ông sẽ nhìn về phía người diễn tấu, khẽ mỉm cười, nhắc nhở người đánh đàn rằng sai âm rồi.