Phồn Hoa Thịnh Khai

Chương 4-2: Hạ




*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Edit: Tĩnh Nguyệt



Thiên Thai Tự nằm ở giữa sườn núi, không bao lâu, hai người đã tới nơi.

Sơn môn mộc mạc trang nghiêm, liễu xanh vươn cành che đi tường hồng ngói xanh, cạnh bên có thanh tuyền róc rách chảy, dọc theo mặt nước trong vắt, từng phiến hoa  đỏ thẫm đang lững lờ trôi, đâu đó trên ngọn cây, những chú chim nho nhỏ cùng nhau líu ríu cất tiếng hoan xướng, hết sức uyển chuyển êm tai, làm tăng thêm vẻ u tĩnh tịch mịch của nơi này.

Nhắm mắt cảm nhận gió xuân đang lướt qua mặt, ngửi được hương vị của cỏ non mơn mởn, tâm tình Chung Nhuận bất chợt thả lỏng, “Nếu có thể được ở một nơi thanh tịnh như thế này, đời này chẳng còn gì vui hơn.”

Triệu Tường Dư cười nói: “Liệu Chung công tử có bỏ được công danh lợi lộc, như hoa mỹ quyến (sắc đẹp, hoài ức) hay không?”

Tâm tình vui  sướng làm cho y thiếu đề phòng, “Trước mắt ta không có công danh lợi lộc, lại càng không như hoa mỹ quyến, thì làm sao luyến tiếc cho được? ‘

“Nếu có thì sau?” Triệu Tường Dư tiến thêm một bước, hỏi.

Y cười sang sảng, “Công danh lợi lộc như phù vân thoảng qua, cần gì phải để tâm trông chờ? Như hoa mỹ quyến à, dù cho có ba nghìn con sông đi chăng nữa, ta đây chỉ cần một bầu là tốt rồi.” (chỉ cần một người tốt là đủ, mặc cho xung quanh có bao nhiêu người đẹp đi chăng nữa.)

Triệu Tường Dư  có chút đăm chiêu, không nói lời nào.

Chung Nhuận một mình tiến vào tự miểu. Bên trong có một hòa thượng đang vội vàng đi ra, gặp y, vái chào một tiếng rồi yên lặng quay bước về.

Triệu Tường Dư đều đem tất cả để vào mắt.

Cũng giống như tất cả tự miễu khác,  Thiên Thai Tự cũng  từ sơn môn, Thiên vương điện, Đại Hùng bảo điện cùng với một số các kiến trúc khác cấu thành chủ thể, đi qua Thiên vương điện, Chung Nhuận đột nhiên hỏi: “Ngươi có cảm nhận được chỗ nào không ổn hay không?”

Triệu Tường Dư nhìn quanh, nói: “Trong điện này không có phật Di Lặc.” Đúng là vậy, trong đây thiếu tượng phật Di Lặc, còn dư ra một vòng linh quang lẻ loi đứng đó.

“Ngươi cũng biết nguyên do trong đó?” Chung Nhuận nhìn khoảng không trong bảo các, lại hỏi.

Triệu Tường Dư lắc đầu, “Chuyện này ta thật sự không biết.”

“Ta có quen với phương trượng của Thiên Thai Tự này, tuy biết nhau không lâu, nhưng giao đàm lại rất hợp. Có một lần ta hỏi người nguyên nhân. Người nói cho ta biết,  mười mấy năm trước đây, ngôi chùa này có trùng tu một lần, đáng lẽ ban đầu dự định dùng gỗ mộc để khắc phật Di Lặc, nhưng đến khi trùng tu thì lại không có, là ý của phương trượng trụ trì lúc đó, Không Trúc đại sư. Lúc ấy rất nhiều người đã phản đối, nhưng Không Trúc đại sư vẫn rất kiên trì, người nói, kiếp sau mờ mịt vô thường, chẳng thà cố gắng tu chỉnh bản thân để sinh ra phúc, còn hơn cả đời làm công đức, chấm dứt quả của kiếp này. Thật ra, Không Trúc đại sư rất thú vị, phật môn thường nói nhân quả báo ứng, luân hồi chuyển thế, kiếp này tu hành, người là sư, nhưng so với phổ la đại chúng thì người lại không tin vào lời này.”

“Kỳ thật Không Trúc đại sư là người hiểu rõ nhất.” Ánh mắt Triệu Tường Dư từ bảo các rơi xuống trên người y, “Người không tạo tượng phật Di Lặc, không phải khuyên các tín đồ không nên tin vào kiếp sau, mà là người hy vọng thế nhân không nên cảm thấy những khổ cực mà mình trải qua kiếp này là do kiếp trước mà ra, vô luận là nhân của  kiếp trước, hay là quả của kiếp sau, thì kiếp này vẫn nên thanh thản mà sống. Khi còn tại thế, Không Trúc đại sư là bằng hữu với  thúc phụ của ta,  bởi vậy chuyện của người,   ta có biết một phần, ngoài ra người cũng không giống với các đại sư khác, cả đời người không đọc kinh niệm pháp, không tu thành phật, cũng không tu kim thân, suốt ngày người bôn tẩu dân gian, độ người qua ải.”

Y từ từ nghe xong, thở dài: “Thì ra là thế, không coi nặng tiền căn hậu quả, chỉ coi trọng cuộc đời này, Không Trúc đại sư mới là người am hiểu nhất  a!”

Triệu Tường Dư thầm đồng cảm trong lòng.

Hai người không nói lời nào, chìm đắm trong cảm hóa từ đức hạnh của Không Trúc đại sư.

Dừng ở trong bảo các trống vắng một hồi lâu, Chung Nhuận mở miệng: “Ngươi khác hẳn với đại quan quý nhân mà ta đã từng gặp.”

Triệu Tường Dư cười nói: “Nguyên nhân chính là ta không phải đại quan hay quý nhân gì.”

Chung Nhuận cười khổ, “Triệu Tường Dư, ngươi đừng trêu ta, ta biết địa vị ngươi cao quý bức người, bất quá chỉ là ngươi không muốn nói ra tục danh của mình, ta  biết ngươi không muốn bị thân phận trói buộc, cho nên cũng không hỏi tới làm gì.”

Nụ cười trên gương mặt Triệu Tường Dư dần dần liễm hạ, “Quả thật,  ngươi rất hiểu ta, không uổng cho ta ——” hắn vội vàng dừng lời, cũng không nói thêm gì nữa.

Y không để tâm đến việc Triệu Tường Dư im lặng bất ngờ, vẫn tiếp tục nói, “Ban đầu ta cho rằng ngươi chỉ là một đại nhân thích tùy hứng đi trêu đùa người khác, lấy đó làm vui,  hôm nay mới biết được nguyên lai ngươi thật lòng muốn kết giao với một kẻ nghèo hèn như ta, đúng là lúc trước ta đã lấy dạ tiểu nhân đo lòng quân tử.” Y quay đầu, mỉm cười, “Ta danh Nhuận, tự Phi Khanh, nếu đại nhân không chê cười, ngài có thể gọi thẳng tục danh của ta. Nếu đại nhân có hứng thì  hàn xá lúc nào cũng mở rộng cửa chờ ngài quang lân, tại hạ hâm rượu tương đãi!”

Thần sắc Triệu Tường Dư đầy vẻ phức tạp.

“Đại nhân chê ta trèo cao?” Chung Nhuận nhạy bén cảm nhận được hắn đang do dự, nhíu mày hỏi.

“Không, không.” Triệu Tường Dư vội vàng điều chỉnh  tâm tình của mình, cười nói: “Ta chỉ  đang nghĩ, nếu chúng ta là bằng hữu mà ngươi vẫn gọi ta『 đại nhân 』 thì có vẻ xa cách qua, Phi Khanh, năm nay ngươi bao nhiêu?”

“Năm nay ta hai mươi mốt.” Y trả lời.

Triệu Tường Dư nói: “Ta lớn hơn ngươi tám tuổi, nếu ngươi xem trọng ta, thì sau này gọi ta một tiếng đại ca là được? Lúc ấy nghe nó mới thân thiết, ngươi nói có phải hay không, Phi Khanh?”

Không biết tại sao, khi Triệu Tường Dư mở miệng ân cần gọi tự của y, tâm Chung Nhuận hơi hơi dao động, một loại cảm giác cổ quái lan tràn khắp người, khiến cho y hoảng loạn gật đầu mấy cái.

Khóe miệng nhếch lên, là cười, lại tựa hồ cười không nổi, rốt cục y cũng như nguyện tiếp nhận hắn, nhưng còn bí mật hắn đang giữ thì sao, trong lòng hắn vẫn còn đang lo lắng, biểu tình của Triệu Tường Dư tối nan giải.

Chung Nhuận còn đang cúi đầu nên không nhìn thấy.

Ấy là sau giờ ngọ một ngày xuân ấm áp,  ngoài cửa sổ,  dương liễu phiêu phiêu lay động, cơn gió nhẹ nhàng thổi qua, vấn vương bên cành lá,  Chung Nhuận và Tuyết Yên cùng ở trên Phiêu Tuyết Lâu, một người làm thơ, một người ca xướng, không khí vui vẻ ấm áp.

“Tốt, hai người các ngươi, chẳng thèm quan tâm đến khách nhân gì hết,  một mình  phong lưu xướng hoạ, hoàn toàn lơ đi kẻ mãng phu như ta!” Ôn Thanh Hạc đứng ở đợi ở đại môn một hồi lâu, chờ tiếng đàn dứt một đoạn  mới cất bước đi vào, nhìn thấy hai người kia ăn ý liếc nhìn nhau, trong lòng hắn có chút tư vị không thoải mái, nếu không phải biết trước giữa hai người họ quả thật chỉ có hữu tình, mà hắn lại cực kỳ tin tưởng nhân cách của Chung Nhuận, chỉ sợ là đã ném bàn đập ghế tung quyền tung cước với nhau rồi.

Hai người đều quay đầu lại.

Tuyết Yên khẽ cười, buông tỳ bà trong tay xuống, mời hắn thượng tọa.

Chung Nhuận cất tiếng cười sang sảng, “Ôn đại ca là trọng thần trong triều, mỗi ngày công vụ đều ngập đầu, muốn chạy cũng không chạy nổi, chúng ta những kẻ rảnh rang, nhàn nhã vô sự lo lắng, nên chỉ biết tùy tiện làm vài thứ giết thời gian mà thôi.”

Ôn Thanh Hạc sau khi nghe xong, ngoài cười nhưng trong không cười nói: ” Hiền đệ thật có tài ăn nói, nếu có thể dùng nó để kết giao với mấy vị đại nhân trong triều  thì tốt rồi.” Hắn nhớ tới  mấy ngày trước đây,  hắn cố công cố sức thuyết phục Chung Nhuận đi gặp Tướng gia, ai ngờ người này lại nhất quyết cự tuyệt, khiến hắn vốn đã nói đỡ  trước vài lời với Tướng gia để người đồng ý, nay lại muối mặt đi xin lỗi, may mắn là cữu gia không có so đo. Nhưng trong bụng hắn vẫn còn chất chứa rất nhiều oán khí, vì thế lời nói không khỏi tránh chút mỉa mai, móc máy người khác.

“Đại ca, đệ biết huynh có hảo tâm, nhưng mà cùng quyền quý tương giao không phải là chuyện đệ thích, xin huynh đừng làm đệ khó xửa.” Chung Nhuận cười khổ.

“Nàng nghe đi, được kết giao với các đại quan trụ cột trong triều là chuyện người khác mơ cũng không được, mà y ngược lại dám bảo ta làm khó xử y!” Ôn Thanh Hạc tức giận, hướng sang tố khổ với Tuyết Yên.

Tuyết Yên cười cười, rót một chung trà, “Huynh đó, đâu phải là huynh đâu biết tính cách của y, y vốn là người hung vô chí lớn, chỉ cầu có một bát cơm, đạm bạc sống qua ngày là đủ rồi, huynh muốn y đi kết giao với quyền quý chẳng phải là duyến mộc cầu ngư?” (trèo cây tìm cá, ý nói nhầm việc)

“Tuyết Yên thật hiểu ta.” Chung Nhuận mỉm cười.

“Hảo hảo, hai người các ngươi là tiên nhân thánh nhân, chỉ có ta là tục nhân thôi!” Ôn Thanh Hạc có chút căm giận.

“Ai, sao huynh lại cứ suy nghĩ theo kiểu tiêu cực ấy chứ.”  Tuyết Yên không biết phải làm sao, người này bình thường tính tình rất tốt, nhưng mỗi khi giận dỗi lại giống như con nít phùng mang trợn má..

“Ý tốt của Ôn đại ca đệ xin nhận, nhưng chuyện đến nhà bái thiếp đại quan không phải là thứ mà đệ muốn làm.” Tính tình Chung Nhuận có phần cường trực, muốn cho y thỏa hiệp, hầu như không có khả năng.

“Ta không bảo ngươi phải đi nịnh bợ người khác, chẳng qua là muốn để chi Tướng gia gặp mặt ngươi,  hóa giải khoảng cách thôi!” Cơn tức của Ôn Thanh Hạc cũng đã hạ gần nữa, nhưng vẫn lầu bầu cằn nhằn.

Chung Nhuận và Tuyết Yên liếc mắt nhìn nhau, Tuyết Yên lắc đầu, y đành phải buông tay, bày ra một bộ dạng bất đắc dĩ.

Nhìn hai người, Ôn Thanh Hạc lại lên tiếng cảm thán: “Phi Khanh, huynh biết đệ không thích chốn quan trường, nhưng mà chẳng lẽ đệ định vĩnh viễn sống như thế này? Đệ từ Chiết Giang ngàn dặm xa xôi, vượt bao khó khăn đến kinh thành này, chẳng lẽ chỉ để hưởng thụ phồn vinh chốn kinh thành? Tuy rằng huynh biết đệ không lâu, cũng hiểu đệ chỉ có thú vui điền viên nhã nhạc, nhưng cuối cùng đệ vẫn lựa chọn  vào kinh ứng thí. Là vì cái gì? Ta Lúc trước, huynh có từng hỏi đệ thử, đệ không muốn nói, huynh hiểu, mỗi người đều chuyện mà mình luôn ghi khắc tâm khảm không thể nói, cho nên huynh không có gặng éo. Thế nhưng, hôm nay huynh vẫn phải hỏi lại một lần nữa, đệ tới đây với mục đích gì? Đệ có thể không cần trả lời, huynh chỉ hy vọng để hảo hảo suy nghĩ cẩn thận một chút.”

Nụ cười trên mặt Chung Nhuận chợt biến, thần sắc y nghiêm túc hẳn lên, đối với câu hỏi của Ôn Thanh Hạc y chỉ  có thể cười trừ cho qua, nhưng y không thể lơ đi chân thành trong đó. Y biết, Ôn Thanh Hạc thật tâm lo lắng cho y. Hơn nữa —— cũng đã lâu rồi  thiến ảnh ( nhân dáng xinh đẹp)  kia không  xuất hiện trong đầu y, Chung Nhuân  âm thầm thở dài, từ sau khi lạc đệ, y vốn hiểu mình và người kia có duyên không phận, sao còn ôm mối hoài tưởng làm chi?

“Ôn đại ca, lòng tốt của huynh, đệ thực cảm kích, lời huynh nói, đệ đều để trong tâm, cũng sẽ hảo hảo cân nhắc lại.” Sau một lúc lặng im suy nghĩ, y chậm rãi nói.

“Huynh hơn đệ vài tuổi, cho nên vốn xem đệ như là đệ đệ ruột của ta, vì thế khó tránh khỏi có lúc nhiều lời,  Đệ hảo hảo suy ngẫm, hiểu rõ được cái gì quan trọng với đệ nhất. Huynh không phải muốn bức đệ đi làm quan, nhưng huynh cũng không nguyện ý đệ buông xuôi chính mình, ngây ngốc sống như vậy cả đời” Ôn Thanh Hạc thành tâm nói.

Chung Nhuận chỉ yên lặng gật đầu.

“Hì hì!” Tuyết Yên cười rộ lên, đánh vỡ trầm mặc, “Xem hai người kia, cực kỳ giống như lão phu tử không quản công dạy dỗ với  tiểu học đồng ngoan ngoãn ngồi nghe giảng!”

Hai người nghi hoặc liếc nhìn nhau, lập tức bật cười.

“Tuyết Yên thật là một nữ tử tuyệt vời nha, Ôn đại ca, chừng nào huynh mới thú nàng về làm đại tẩu cho ta?” Chung Nhuận nửa đùa nửa thật nói.

“Chỉ cần nàng gật đầu, ta tùy thời đều đạp đại môn, nghênh thú nàng về, chỉ có điều nàng vẫn không chịu, cứ như đang đùa ta vậy.” Ôn Thanh Hạc miệng vẫn đùa vui, nhưng lời nói lại cực kỳ chân thành.

“Muội nào dám trêu đùa Ôn tướng quân? Để Lý mụ mụ nghe được, nhất định bà sẽ bị dõa cho vỡ mật.” Tuyết Yên khéo léo cười đùa lảng tránh câu hỏi.

Ôn Thanh Hạc vẫn duy trì nét cười trên mặt, nhưng Chung Nhuận thấy được vẻ thất vọng lướt qua ẩn trong nụ cười ấy, rồi quay đầu lại nhìn Tuyết Yên, nàng cũng đang cười nhưng nụ cười thêm vài phần miễn cưỡng.

Người hữu tình với nhau, lại không thể cùng sống, người ngoài nhìn  cũng cảm chút đơn côi. Y nhìn ra ngoài cửa sổ, có một đôi chim nhỏ bay qua, ngươi thượng ta hạ, chầm chậm đuổi theo nhau, được đôi chim liền cánh, còn gì hạnh phúc bằng.

Đang ngẩn người ta, thì ngoài cửa đã vang lên tiếng nói giòn tan của Tiểu Linh, “Tiên sinh, ngài có thư.”

Chung Nhuận vừa mở đã thấy, mở đầu chính là hai chữ “Phi Khanh” nét bút long phi phượng vũ, lướt mắt đọc nhanh, gương mặt y lộ lên vẻ tươi cười, “Tiểu Linh, người đưa thư còn ở đó không?”

“Còn, đang ở cửa chờ hồi âm của tiên sinh đó.” Tiểu Linh đáp lời.

“Vậy thì phiền muội đi chuyển lời giúp ta, nói ta sẽ ra gặp hắn ngay.” Tâm tình Chung Nhuận trở nên tốt hẳn.

Ngày ấy ở Thiên Thai Tự, đôi bên hợp ý trò chuyện với nhau, thẳng đến lúc mặt trời ngã về tây mới lưu luyến tự chia tay. Ngày qua ngày cứ như thoi đưa, mỗi rảnh bọn họ ra ngoài du ngoạn, ngày thường cũng tín thư tới lui không ngừng. Thường thường mỗi tối người kia đều sai kẻ hầu truyền thư đến, có đôi khi chỉ là tham thảo thi cú,  lại có lúc bàn về nhạc thanh, lúc nãy y mới hồi âm, vừa mới tẩy rửa xong, thư đáp của hắn đã tới.

“Vâng” Tiểu Linh tuân mệnh rời khỏi.

“Ôn đại ca, đệ có việc nên cáo từ trước, hôm nào lại cùng nhau đối ẩm tiếp.” Xin lỗi vài câu, Chung Nhuận vội vội vàng vàng rời đi.

“Y có hẹn với ai thế?” Ôn Thanh Hạc nhìn bóng dáng hấp tấp của y, ngạc nhiên nói. Vị huynh đệ này của hắn,  thái độ làm người có chút quái gở, hắn cũng phải dùng một chút công phu mới được y thật lòng coi hắn như huynh trưởng, nhưng bây giờ là ai có năng lực nhanh như như vậy  đã đánh vỡ tâm phòng của y?

“Muội cũng không biết nữa.” Tuyết Yên lắc đầu, “Cả hai mới kết giao một hai tháng gần đây. Hình như là người đó tên là Tường Dư, muội không có gặp, chỉ nghe Chung Nhuận nói qua, dựa vào ngôn ngữ của y, tựa hồ rất có hảo cảm với người này.”

“Tường Dư?” Hắn nhíu mày, “Có lẽ ta từng nghe qua.”

Tuyết Yên cười rộ lên, “Huynh đừng có đa tâm quá, Chung Nhuận cũng không phải là tiểu hài tử, nên lui tới với người nào, y biết cân nhắc.”

Ôn Thanh Hạc cũng cười, “Xem ra ta thật giống như mẫu kê vội vàng che chở cho tiểu kê.”

Xuân phong  ấm áp. Không tốn nhiều sức, Chung Nhuận đã tìm thấy người kia trong đoàn người bên bờ đê.

Triệu Tường Dư ngạo nhiên khoanh tay đứng dưới tàng cây, không chút để ý lướt mắt nhìn bốn phía. Tuy nhìn người, nhưng bên trong mắt lại không chứa nhân ảnh nào. Mặc dù vẫn thượng bạch y, nhưng cái lãnh nhiên mà bản thân hắn sở độc,  vẫn làm hắn tách biệt hoàn toàn với đám người còn lại.

Chung Nhuận liếc mắt một cái đã thấy được người kia. Khí chất duy ngã độc tôn, có lẽ là do hắn rất xuất sắc, hoặc là vì nguyên nhân khác.

Còn chưa chờ y lên tiếng, Triệu Tường Dư đã ngẩng đầu thấy được, chợt lộ ra nét cười, đã không còn là chàng trai xuân phong phơi phới, nhưng là nụ cười kia vẫn  ấm áp như vậy, giống như gió xuân,  có lẽ đây mới là tiếu dung chỉ thuộc về loại người già dặn như hắn, còn những người trẻ tuổi, luôn luôn để lộ một chút sắc bén khó gần bên ngoài

Nhịp tim y chợt loạn, vội bước nhanh tới.”Chờ lâu không?” Y tùy ý hỏi. Tuy rằng nam nhân này hơn y vài tuổi, nhưng trong lòng  y không thể xem hắn như trưởng bối mà đối đãi được.

“Vừa mới tới thôi.” Nam nhân cũng không bận lòng với sự tùy ý của y,  thậm chí còn cảm thấy vui.

“Hôm nay chúng ta đi đâu? Lên núi hay là du hồ?” Chung Nhuận hưng trí bừng bừng hỏi han. Y đến Đông kinh đã hơn một năm, vì hoàn cảnh đẩy đưa nên chưa có dịp thăm thú cảnh sắc nơi đây. Mấy ngày nay, dưới sự dẫn dắt của người ấy, y đã được du ngoạn tới rất nhiều địa phương thú vị.

“Hôm nay chúng ta ra khỏi thành, đi đâu thì tới nơi đệ sẽ biết.” Khó có khi Triệu Tường Dư lộ ra vẻ mặt bí hiểm như thế này, hắn vẫy tay một cái, nô bộc dắt đến hai con ngựa cao to, bộ lông bóng loang, vừa thấy liền biết ngay đó là lương câu.”Lên ngựa đi.” Triệu Tường Dư nhảy lên trước tiên, bỗng thấy y do dự không tiến, bèn hỏi, “Có chuyện gì sao?”

Nhìn con ngựa đang thở phì phò, Chung Nhuận có chút xấu hổ, y ngẩng đầu nói: “Hôm nay chỉ sợ là không thể phụng bồi huynh được.”

Triệu Tường Dư nghi hoặc nhìn nhìn con ngựa, lại thấy đôi tai y đỏ lựng lên, bừng tỉnh đại ngộ, “Hóa ra là đệ không biết kỵ mã.”