Sói Thảo Nguyên

Chương 3




Tôi đi ngang qua một vũ trường; tiếng nhạc Jazz dữ dội hắt vào tôi, nóng bỏng và sống sượng như làn hơi bốc lên từ thịt sống. Tôi dừng lại một lúc; dù ghê tởm loại nhạc này đến đâu, nó vẫn âm thầm quyến rũ tôi. Tôi ghét cay ghét đắng nhạc Jazz, nhưng vẫn thích nó gấp chục lần mọi thứ âm nhạc hàn lâm ngày nay; tính cuồng nhiệt sống sượng của nó chạm tới tận bản năng sâu thẳm trong tôi, toát ra một dục tính hồn nhiên và chân thật.

Tôi đứng hỉnh mũi đánh hơi thứ âm nhạc chói tai này, cáu kỉnh và thèm thuồng đoán trước bầu không khí trong những căn phòng ấy. Một nửa điệu nhạc, cái phần du dương, thì lâm ly, ngọt xớt, ủy mị đến chảy nước, nửa kia hoang dại, bất thường và mạnh liệt, tuy vậy cả hai nửa lại hợp với nhau thật hồn nhiên, hòa thành một tổng thế. Đó là thứ âm nhạc suy đồi, thời các hoàng đế La Mã cuối cùng hẳn cũng có thứ âm nhạc tương tự. Tất nhiên so với Bach, với Mozart và âm nhạc đích thực, nó chỉ là thứ nhăng cuộc – nhưng tất cả nghệ thuật của chúng ta, tư tưởng của chúng ta, văn hóa giả tạo của chúng ta đều như thế cả, nếu so sánh với nền văn hóa chân chính. Và thứ âm nhạc này có ưu điểm là rất chân thành kiểu người da đen, đáng mến, vui tươi hồn nhiên chứ không giả trá. Đối với người Âu chúng ta, thứ âm nhạc này mang nét gì đấy của người da đen và người Mỹ, mạnh bạo nhưng hồn nhiên và tươi mát tựa trẻ thơ đang lớn. Châu Âu sẽ thành như vậy chăng? Nó đang dần như thế rồi chăng? Chúng ta, những kẻ am tường và hâm mộ Châu Âu thuở trước, nền âm nhạc đích thực thuở trước, thơ ca đích thực thuở trước, chẳng lẽ chúng ta chỉ là một nhúm thiểu số ngu xuẩn gàn dở mắc bệnh loạn thần kinh phức tạp, mai đây sẽ bị lãng quên và nhạo báng? Phải chăng đó là thứ mà chúng ta gọi là “văn hóa”, trí tuệ, tinh thần và coi là đẹp, là thiêng liêng; phải chăng đó chỉ là một bóng ma đã chết từ lâu mà chỉ dăm kẻ ngớ ngẩn chúng ta vẫn còn coi là đích thực? Phải chăng nó không hề đích thực và sống động? Phải chăng những gì lũ ngớ ngẩn chúng ta ra công suy nghĩ, tìm tòi vốn luôn chỉ là một bóng ma?

Khu phố cổ tiếp nhận tôi, ngôi giáo đường nhỏ bé đứng tàn lụi và hư ảo trong khung cảnh màu xám. Đột nhiên tôi nhớ lại câu chuyện hồi chiều với cái cửa chóp nhọn bí ẩn, với tấm biển bí ẩn phía trên, với những chữ chiếu sáng nhảy múc giễu cợt. Hàng chữ ấy viết gì nhỉ? “Không phải ai muốn vào xem cũng được” và “Chỉ dành cho những người điên”. Để thẩm tra, tôi nhìn qua bức tường cổ, thầm mong màn ảo thuật nọ tái diễn với hàng chữ mời mọc tôi, một gã điên, và cánh cổng để tôi vào. Có thể điều tôi ước mơ đang ở trong đó, có thể trong đó đang trình diễn thứ âm nhạc của tôi?

Bức tường đá bình thản nhìn tôi, nó đen sẫm bóng chiều, khép kín, chìm đắm trong mơ. Chẳng thấy đâu một cái cổng, chẳng thấy đâu vòng chóp nhọn, chỉ bức tường tối đen, im lìm, không một kẽ hở. Tôi mìm cười tiếp tục bước đi, thân mật gật đầu chào bức tường. “Ngủ ngon, tường nhé, ta không đánh thức mi đâu. Sé đến lúc người ta giật sập mi hoặc dán lên mi những bảng hiệu tham lam của họ, nhưng tạm thời mi vẫn còn đó, mi vẫn đẹp, vẫn im ắng và ta ưa thích mi”.

Chợt tôi giật bắn người vì từ một ngõ đen ngòm có một người, một kẻ trở về nhà muộn màng và lẻ loi với bước chân mệt mỏi, nhô ra quan sát nách tôi; y đội mũ lưỡi trai, khoác áo choàng xanh, vác một thanh gỗ gắn bích chương, trước bụng quàng dây đai mang một chiếc hòm con để mở, giống những người bán hàng rong ở các chợ phiên. Y mệt mỏi bước qua trước mặt tôi, chẳng ngoái nhìn, bằng không tôi đã chào và mời y một điếu thuốc. Tôi cố thử đọc cái cờ hiệu của y, tấm bích chương đó gắn trên thanh gỗ, dưới ánh sáng ngọn đèn đường cạnh đấy, nhưng tấm bích chương cứ chao qua đảo lại nên tôi chẳng đọc được gì. Tôi liền gọi và yêu cầu y cho tôi xem. Y dừng bước, giữ thanh gỗ cho thẳng hơn, lúc ấy tôi có thể đọc được những chữ chao đảo nhảy múa:

Giải trí hỗn loạn buôi tối!

Hí viện ma thuật!

Không phải ai muốn vào xe…

“Tôi đang tìm ông đây” tôi thích thú kêu lên. “Buổi giải trí ban tối của ông như thế nào? Ở đâu ? Bao giờ?”

Y đã bước đi rồi.

“Không phải ai muốn vào xem cũng được” y thờ ơ nó, giọng ngái ngủ và đi tiếp. Y chán rồi, muốn về nhà.

“Khoan đã”, tôi chạy theo gọi “Ông bán những gì thế? Tôi muốn mua chút ít”.

Không dừng lại, người đàn ông ấy máy móc thò tay vào hòm, rút ra một tập sách mỏng, chìa cho tôi. Tôi chụp ngay lấy, cất đi. Trong lúc tôi cởi cúc áo măng tô tìm tiền, y đã ngoặt vào một cái cổng bên đường, rồi đóng lại và biến mất. Mới đầu tôi nghe tiếng chân y nặng nề trên mặt đường đá, rồi trên một cầu thang gỗ, rồi không nghe gì nữa. Đột nhiên tôi thấy cũng quá mệt và cảm tưởng đã khuya lắm rồi, về là vừa. Tôi bước rảo hơn, chẳng mấy chốc đã vượt qua những con hẻm vùng ngoại ô đang say ngủ, về tới nhà. Nhà tôi nằm giữa khi thành lũy, nơi các công chức và những người hưu trí cáp thấp ngụ trong những ngôi nhà thuê cho nhỏ sạch sẽ, phía trước có bãi cỏ và khóm thường xuân. Qua khỏi đám thường xuân, bãi cỏ và bụi thông nhỏ tôi về tới của nhà, mò lỗ khóa, tìm nút bật đèn, lách qua tấm cửa kính, đi qua những cái tủ bóng lộn và những chậu cây, mở cửa phòng mình, chốn giả làm quê hương bé nhỏ của tôi, nơi chiếc ghế bành và lò sưởi có nghiên mực và hộp vẽ, có Novalis và Dostoyevsky chờ đợi tôi, hệt như bà mẹ hay người vợ, lũ con, các cô người làm, chó, mèo chờ đợi những con người khác, những con người đích thực, khi họ về nhà.

Khi cởi chiếc áo măng tô ướt át, tôi chợt thấy lại tập sách nhỏ kia, liền rút ra. Đó là loại sách mỏng, in lem nhem trên giấy xấu bán ở các chợ phiên, giống như tập “Tử vi cho người sinh ra trong tháng Giêng” hay “Làm cách nào trẻ lại hay mươi tuôi trong tám ngày?”

Nhưng khi đã ngồi yên trong ghế bành và đeo kính, tôi sửng sốt đọc và đột nhiên cảm thấy về một số phận đang xảy đến qua nhan đề trên bìa tập sách chợ phiên ấy: Luận thuyết về Sói Thảo Nguyên. Dành riêng cho những người điên.

Và đây là nội dung của nó mà tôi đã đọc liền một mạch, mỗi lúc một hồi hộp thêm:

LUẬN THUYẾT VỀ SÓI THẢO NGUYÊN

Dành riêng cho những người điên

Thuở ấy có một tay tên là Harry, biệt danh Sói Thảo Nguyên.Hắn đi ha chân, hắn mặc áo quần, hắn là người, nhưng thật ra hắn đích thị là một con sói thảo nguyên. Hắn học được nhiều thứ mà những người có đầu óc đều có thể học được và hắn là một kẻ khá thông minh. Nhưng cái hắn không học được là: hài lòng về mình và cuộc đời mình. Điều ấy hắn không học được, hắn là một kẻ bất đắc chí. Sở dĩ như thế có lẽ vì lúc nào trong thâm tâm hắn cũng biết (hoặc tưởng là biết) rằng thật ra hắn không phải là ngườ, mà là một con sói từ thảo nguyên. Các nhà thông thái cứ việc tranh cãi xem hắn có thật là sói hay không, biết đâu đã có lần, trước cả khi hắn chào đời cũng nên, hắn được phù phép biến từ sói thành người, hoặc giả hắn sinh ra là người, nhưng lại được phú cho hồn một con sói thảo nguyên và bị nó chế ngự hoặc giả điều hắn tin rằng hắn thật ra là sói chỉ do trí tưởng tượng hoặc một thứ bênh của hắn mà thôi. Chẳng hạn có thể thời thơ dại con người này rất hiếu động, bất kham và vô kỷ luật; những người dạy dỗ hắn đã tìm cách diệt trừ tính dã thú trong con người hắn và chính vì thế đã tạo cho hắn ấn tượng và niềm tin rằng thật ra hắn là một dã thú, chỉ khoác một lớp vỏ mỏng tanh của giáo dục và nhân tính thôi. Nếu muốn, người ta có thể nói tràng giang đại hải và tiêu khiển về điều này, thâm chí viết thành sách; nhưng chẳng ích gì cho Sói Thảo Nguyên, vì hắn chẳng mảy may quan tâm đến chuyện con sói nhập vào hắn là do bùa chú hoặc roi vọt, hay đó chỉ là tưởng tượng của tâm hồn hắn. Người khác, thậm chí ngay cả hắn nữa, muốn nghĩ gì về điều ấy, hăn cũng mặc kệ, vì sự nghĩ ngợi đó không trục nổi con sói ra khỏi hắn được.

Vậy là Sói Thảo Nguyên có hai bản chất, một người và một sói; đó là số kiếp của hắn, và có thể số phận này chẳng phải đặc biệt và hiếm hoi gì lắm. Người ra đã từng thây sbao kẻ mang trong mình nhiều tính chất của chó hoặc chồn, của cá hoặc rắn nhưng không vì thế mà họ gặp khó khăn gì ghê gớm. Ở những kẻ đó người và chồn, người và cá đúng là sống cạnh nhau, không bên nào làm khổ bên nào, thậm chí còn tương trợ lẫn nhau; lắm kẻ tiến xa và đáng ganh tị nhờ được sức chồn hoặc khỉ đem lại cho họ phúc lộc nhiều hơn sức người trong họ. Điều này ai cũng biết. Nhưng ở Harry lại khác, người và sói trong hắn không tiến song đôi hoặc giúp đỡ nhau, mà thường trực là kẻ tử thù của nhau, phần này sống chỉ để làm khổ phần kia, và khi hai phần trong cùng một dòng máu và một tâm hồn coi nhau như kẻ từ thù thì đó là một cuộc sống khốn khổ. Thế đấy, ai cũng có số phận riêng và chẳng số phận nào nhẹ nhàng cả.

Về phần Sói Thảo Nguyên của chúng ta thì lúc hắn cảm thấy mình sống giống sói, lúc lại giống người, như ở mọi sinh vật lai tạp; nhưng khi hắn là sói thì phần người trong hắn thường xuyên nằm rình rập, nhóm ngó, bình phẩm và phán xét – con những lúc hắn là người thì phần sói cũng làm y như thế. Chẳng hạn khi Harry là người, có một ý tưởng hay ho, một cảm xúc tinh tế cao quý hoặc có một hành vi gọi là thiện, con sói trong hắn liền nhe nhanh, ra sức chế nhạo, chỉ cho hắn thấy rằng tất cả cái vở kịch cao quý kia, nực cười sao, lại rất thích hợp với một con thú thảo nguyên, một con sói, nó biết rất rõ trong thâm tâm điều gì khiến nó hài lòng, đó là đơn độc rong ruổi qua thảo nguyên, thỉnh thoảng uống máu tươi hoặc chạy theo một con sói cái – và, dưới nhãn quan của con sói, mọi hàng động của con người đều kỳ cục, vụng về, ngu xuẩn và kiêu căng phát sợ. Cũng y như vậy khi Harry cảm thấy mình là sói, khi hắn đe dọa người khác, khi hắn thù ghét và coi mọi người cùng cung cách xử thế cũng như tập quan suy đồi, giả trá của họ là kẻ tử thù; lúc ấy phần người trong hắn sẽ rình rập, theo dõi con sói, gọi nó là đồ súc vật, đồ dã thú, khiến nó chán chường, hết cả hứng thú trong bản tính sói chất phác, lành mạnh và hoang dã của nó.

Bản chất Sói Thảo Nguyên như vậy đấy, và ta có thể hình dung cuộc đời Harry chẳng thoải mái và hạnh phúc chút nào. Nhưng như thế không hàm nghĩa hắn đặc biệt bất hạnh (mặc dù tự hắn cảm thấy thế, giống như ai cũng cho rằng nỗi đau khổ mình phải hứng chịu là ghê gớm nhất). Ta không nên nói như thế về ai. Ngay cả người không mang phần sói trong mình cũng không nhất thiết hạnh phúc. Ngay cả cuộc sống bất hạnh nhất cũng có những giờ phút rạng rỡ ánh hồng và những đóa hoa hạnh phúc nở bừng giữa cát sỏi. Với Sói Thảo Nguyên cũng thế. Phần lớn cuộc đời hắn rất bất hạnh, không thể phủ nhận điều ấy, và hắn có thể làm người khác bất hạnh theo, đó là khi hắn yêu thương họ và họ yêu thương hắn. Vì hết thảy những kẻ yêu thương hắn chỉ thấy một khía cạnh của hắn thôi. Có những người yêu thương hắn là một kẻ tế nhị, thông minh và đọc đáo, nên khi họ đột nhiên phát hiện phần soi trong hắn, họ liền đâm ra kinh hoàng và thất vọng. Họ phải phát hiện ra thôi, vì Harry, như mọi sinh vật khác, muốn được thương yêu trọn vẹn, nên không thể che giấu và lấp liếm phàn sói của hắn, nhất là trước tình thương yêu của những kẻ hắn rất trân trọng. Nhưng cũng có những kẻ thương yêu chính cái phần sói trong hắn, cái chất tự do, hoang dã, không thể thuần hóa, ngủy hiểm, mạnh bạo, nên chính họ lại cực kỳ thất vọng lẫn đau đớn khi thấy con sói hoang dại, hung ác đột nhiên cũng là một con người, cũng khao khát điều tốt và sự dịu dàng, nghe cả nhạc Mozart, cũng đọc thơ và muốn có người này đâm ra đặc biệt thất vọng và phẫn nộ, thế là Sói Thảo Nguyên đã truyền bản tính kép và đối nghịch của chính hắn vào mọi số kiếp xa lạ mà hắn tiếp xúc.

Giờ đây ai tưởng rằng mình biết rõ Sói Thảo Nguyên và có thể hình dung được cuộc đời tội nghiệp và đau lòng của hắn, người ấy rất nhầm, người ấy còn lâu mới biết hết. Người ấy không biết rằng (chẳng quy tắc nào không có ngoại lệ và trong hoàn cảnh nhất định Chúc ưng kẻ duy nhất phạm tội hơn chín mươi chín kẻ công chính) ở Harry cũng có ngoại lệ và những may mắn tình cờ, rằng đôi khi hắn có thể thở, suy nghĩ và cảm thấy lúc như sói, lúc như người, rõ ràng chức không lẫn lộn, đúng thế, và đôi khi, vào những giờ khắc rất hiếm hoi, phần sói và phần người sống hòa hoãn, thân ái với nhau, chứ không chỉ bân này ngủ, bên kia thức, mà tăng cường lẫn nhau, bên nọ giúp cho bên kia trở thành gấp đôi. Cũng trong cuộc đời người đàn ông này, như khắp nơi trên thế gian, dường như đôi lúc mọi thói quen, mọi việc thường nhật, mọi điều được nhìn nhận, mọi sự điều độ chỉ nhằm mục đích ngưng nghỉ ở đâu đó một đôi giây ngắn ngủi, rồi bị phá bỏ, nhường chỗ cho cái phi thường, phép lạ và ân sủng. Những giờ phút hạnh phúc ngắn ngủi, hiếm hoi này có đền bù và xoa dịu được số phận hẩm hiu của Sói Thảo Nguyên, khiến cuối cùng hạnh phúc cân bằng được khổ đau không, hay thậm chí niềm hạnh phúc ngắn ngủi nhưng mãnh liệt trong vài giờ ít ỏi ấy vượt xa sự hóa giải khổ đau, điều này hãy để cho những kẻ nhàn cư tha hồ ngẫm nghĩ. Chính Sói Thảo Nguyên cũng thường suy ngẫm về chuyện ấy, và đó là những ngày nhàn rỗi lẫn vô bổ của hắn.

Ở đây cần phải nói thêm một điều. Có khá nhiều người cùng loại như Harry, đặc biệt là các nghệ sĩ. Những người này đều mang song song trong lòng họ hai linh hồn, hai bản chất vừa thù nghịc vừa phức tạp, cả thần thánh lẫn quỷ sứ, cả dòng máu me lẫn dòng máu cha, cả khả năng tiếp thu hạnh phúc lẫn khả năng tiếp nhận khổ đau, giống như Harry mang trong con người hắn phần sói và phần người vậy. Những con người có cuộc sống rất không thanh thản ấy đôi khi cảm thấy một vẻ đẹp và sự mãnh liệt khôn tả trong những khoảnh khắc hạnh phúc đôi khi phụt cao chói loại trên đại dương đau khổ, làm xúc động và lôi cuống người khác. Mọi công trình nghệ thuật đều đã ra đời như thế, như làn bọt hạnh phúc quý giá thoắt ran trên bể khổ, chính nhờ những công trình ấy mà một cá nhân đau khổ đã vương lên khỏi số phận cảu mình được trong một giờ, đến mức hạnh phúc của người ấy rạng rõ như một vì sao, khiến ai trông thấy cũng đều ngỡ là thứ gì vĩnh cửu và là giấc mơ hạnh phúc riêng tư của mình. Nói chung tấ cả những con người này, dù việc họ làm và tác phẩm của họ mang tên gì đi nữa, đều không có đời sống thật sự, nghĩa là đời sống của họ không phải là sự hiện hữu, nó không có gì rõ rệt, họ không phải là những anh hùng hay nghệ sĩ hoặc nhà tư tưởng như kiểu những người khác là thẩm phán, thẩy thuốc, thợ giày hay thầy giáo, mà cuộc đời họ là một dòng biến dịch triền miên, đau khổ và sóng gió, bất hạnh, bị giằng xé đầy đau đớn, khủng khiếp và vô nghĩa, ngay từ người ta không chịu nhìn thấy ý nghĩa của nó trong chính những sự kiện, những hành động, những tư tưởng và những tác phẩm hiếm hoi rực sáng trên sự hỗ loạn của một cuộc đời như thế. Giữa những người thuộc loại này đã nảy sinh ý tưởng nguy hiểm và đáng sợ rằng biết đâu toàn thể đời người chỉ là một lầm lẫn phũ phàng, một sự sẩy thai khốc liệt và bất hạnh của bà mẹ nguyên thủy, một thử nghiệm man dại và thất bại khủng khiếp của tự nhiên. Những giữa những người ấy cũng đã nảy sinh một ý tưởng khác, rằng con người có thể không chỉ là thú vật tương đối có lý trí, mà là con của thần thánh, mang số phận bất tử.

Mỗi loại người đều có những dấu hiệu đặc trưng, những biểu tượng, những phẩm hạnh cùng tật xấu và tội trọng riêng của họ. Dấu hiệu đặc trưng của Sói Thảo Nguyên là sống về đêm. Hăn sợ buổi sáng, vì đó là khoảng thời gian tệ hại trong ngày, chẳng khi nào đem lại cho hắn điều tốt lành. Hắn chưa từng thật thoải mái vào bất cứ một buổi sáng nào trong đời, hắn chưa hề làm được điều gì tốt đẹp gì khả dĩ khiến hắn và người khác vui. Chỉ trong lúc xế trưa hắn mới ấm dần và sinh động và chỉ khi gần tối, vào những ngày hắn thoải mái, hắn mới nghĩa ra được nhiều chuyện, trở nên linh hoạt, đôi khi hào hứng và vui vẻ. Điều này liên quan đến nhu cầu được cô đơn và độc lập của hắn. Chưa ai từng khát vọng độc lập sâu xa và mãnh liệt như hắn. Thuở thiếu thời, lúc hà vi phải vất vả kiếm sống, hắn thà chịu ăn đói, mặc rách chỉ để khỏi mất đi chút độc lập nhỏ nhoi. Hắn chưa hề bán mình cho đàn bà hoặc những kẻ lắm quyền nhiều thế hay vì tiền bạc hoặc cuộc sống phong lưu, hắn đã trăm lần vất bỏ và cự tuyệt những thứ được coi là lợi lộc và hạnh phúc trong mắt thế gian, chỉ cốt giữ lấy tự do. Hắn không thù ghét và ghê tởm gì hơn là nhận một chức vụ này đấy, giữ đúng thời gian biểu của ngày, của năm và phải tuân lệnh kẻ khác. Hắn thù ghét bàn giấy, văn phòng, công sở như thù ghét cái chết và điều khủng khiếp nhất, mà hắn trải qua trong mơ, là bị giam hãm trong trại lính. Hắn biết cách thoát khỏi những điều này, nhưng thường phải chịu nhiều hy sinh. Đây là mặt mạnh và đức tính của hắn, ở điểm này hắn bất khuất và không thể bị mua chuộc, ở điểm này hắn kiên định và cứng rắn. Có điều nỗi đau khổ và số phận của hắn lại gắn bó mật thiết với đức tính ấy. Đối với hắn thì cũng như đối với mọi người thôi: những gì hắn tìm kiếm và kiên trì tột bậc vươn tới vì một sự thôi thúc thâm sâu nhất từ bản chất, hắn đều đạt được, nhưng những điều ấy lại quá mức cho sự tốt lành của con người ta. Thoạt tiên điều ấy là ước mơ và hạnh phúc của hắn, nhưng rồi trở thành số phận đắng cay, Kẻ tham quyền lực sẽ tàn đời vì quyền lực, kẻ tham tiền vì tiền, kẻ quỵ lụy vì khúm núm, kẻ ham lạc thú vì dục lạc. Thành ra Sói Thảo Nguyên đã tàn đời vì sự độc lập của hắn. Đạt mục đích rồi, hắn càng độc lập thêm; không ai ra lệnh cho hắn được nữa, hắn chẳng phụ thuộc vào ai và hắn tự do quyết định việc làm hay không làm. Mọi kẻ xuất sắc đều chắc chắn đạt được điều mà lòng khát khao đích thực của họ thúc đẩy. Nhưng giữa lúc đạt được tự do, Harry chợt nhận thấy tự do của hắn yên thân một cách đáng sợ, hắn chẳng còn chút liên quan gì nữa với con người, thậm chí với chính hắn ,hắn chết ngộp từ từ trong bầu không khí cứ mãi loãng dần của sự xa cách và cô độc. Vì bây giờ cô đơn và độc lập không còn là ước mơ và mục đích của hắn nữa mà là số phận, là bản án của hắn. Điều nguyện ước thần diệu đã được đáp ứng rồi, không rút lại được nữa; dù hắn thành tâm khao khát dang rộng đôi tay đón chào sự liên hệ gắn bó và đoàn kết cũng chẳng ích gì; không ai đoái hoài đến hắn. Mà nào có phải người ra ghét bỏ hay ghê tởm hắn đâu. Ngược lại, hắn có rất đông bạn bè. Nhiều người quý mến hắn. Song hắn luôn chỉ tìm được sự thiện cảm và niềm nở; người ta mời mọc, tặng quà, thân ái viết thư cho hắn, nhưng không ai gần gũi hắn, không ai nảy sinh chút gắn bó nào, không ai muốn và có khả năng cùng hắn chia sẻ cuộc đời. Giờ đây bao quanh hắn là khoảng trống của sự cô đơn, của bầu không khí thầm lặng; thế giới chung quanh hắn cứ dần trượt xa và bát lực trong việc tạo dựng quan hệ mà chẳng ý chí hay khao khát nào có thể chống chọi nổi. Đấy là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của đời hắn.

Một đặc điểm khác là hắn ở trong số những kẻ tự tử. Ở đây cần phải nói rằng sẽ là sai lầm nếu chỉ dùng khái niệm ấy để gọi những kẻ tự hủy mình thật sự. Vì trong số này nhiều kẻ có thể gọi là tự tử do ngẫu nhiên, chứ tự sát không nhất thiết thuộc vào bản chất của họ. Có những kẻ chết vì tự sát trong số những hạng xoàng xĩnh, bắt chước vô ý thức, trong số người không cá tính, không tác phong đặc biệt, không định mệnh vững chãi nhưng không phải vì thế mà họ thuộc vào mẫu nười tự tử, nếu xét toàn các tính, trong khi có rất nhiều kẻ, phần lớn cũng nên, theo bản chất được xếp vào loại người tự tử, nhưng lại chẳng bao giờ dám thật sự tự hủy mình. “Kẻ tự sát” – Harry là một – không nhất thiết phải sống trong quan hệ đặc biệt gần gũi với cái chết; người ta có thể sống như vậy, mà vẫn không phải là kẻ tự sát. Nhưng kẻ tự tử có điểm khác thường ở chỗ y thấy Cái Tôi của mình, bất kể điều này đúng hay sai, là một hạt mầm đặc biệt nguy hiểm, đáng ngờ và bị đe dọa của tự nhiên, y luôn thấy mình mạo hiểm và bị đe dọa khác thường, như thể y đứng trên một mỏm đá bé tẹo, chỉ cần một cái xô nhẹ từ bên ngoài hay chút khiếp nhược từ bên trong đủ khiến y rơi vào cõi hư không. Đặc trưng trên lằn chỉ tay sinh mệnh của loài người này cho thấy tự tử là kiểu chết dễ có khả năng xảy ra nhất, ít ra trong trí tưởng tượng của chính họ. Điều kiện tiên quyết gây nên tâm trạng này – hầu như luôn thấy rõ ngay từ thời niên thiếu và bám theo họ suốt đời – không phải là sinh khí đặc biệt nhu nhược, ngược lại người ta thấy trong số những “kẻ tự sát” lắm người bản tính rất gan lì, đầy khao khát và cả liều lĩnh nữa. Những giống như những kẻ hơi ốm một tí đã bị sốt, những người mà chúng ta gọi là “kẻ tự sát” vốn luôn rất dễ xúc động và nhạy cảm, hễ bị sốc một tí liền có khuynh hướng ráo riết nghĩ đến việc tự hủy mình. Nếu chúng ta có được một ngành khoa học đủ dũng cảm, đủ tinh thần trách nhiện cao, nghiên cứu về con người thay vì chỉ quan tâm đến cơ chếc những hiện tượng của sự sống, nếu chúng ta có được một ngành tương tự như nhân chủng học, tâm lý học, thì ai cũng sẽ quen thuộc với những sự kiên này.

Điều chúng ta nói ở đây về những kẻ tự sát tất nhiên chỉ hời hợt thôi. Nó là tâm lý học, nghĩa là một phần của ngành vật lý. Xét về mặt siêu hình thì vấn đề khác hẳn và sáng tỏ hơn nhiều, vì quan sát trên khía cạnh này chúng ta thấy những “kẻ tự sát” như là những người mang cảm giác phạm tội vì sự cá biệt hóa của mình, như những linh hồn không còn thấy cứu cánh của cuộc đời là hoàn thiện và uốn nắn chính mình, mà là thủ tiêu nó, trở về với Mẹ nguyên thủy, trở về với Chúa, trở về với vũ trụ. Rất nhiêu kẻ trong số đó hoàn toàn bất lực trước việc tiến hành tự sát thật sự vào một lúc nào đấy, vì họ thấy rõ tội lỗi của hành động ấy. Tuy nhiên, với chúng ta họ vẫn là những kẻ tự sát, vì họ thấy đấng cứu tinh trong cái chết chứ không trong sự sống và họ sẵn sàng vứt bỏ đời mình, xả thân, hủy hoại, trở về với nguồn cội.

Giống như mọi sức mạnh đều có thể trở thành yếu đuối (thậm chí phải trở thành, trong một số tình huống), kẻ tự sát điển hình có thể biến sự yếu đuối ngoài mặt của y thành sức mạnh cùng chỗ tựa, và y làm điều này hết sức thường xuyên. Đó cũng là trường hợp của Harry, của con Soi Thảo Nguyên. Như hàng nghìn đồng loại, hắn không chỉ biến ý tưởng bất cứ lúc nào con đường đưa hắn tới cái chết cũng rộng mở thành một trò tưởng tượng của tuổi trẻ u sầu, mà còn tìm thấy từ chính ý tưởng này một niềm an ủi và một chỗ dựa. Quả thật, trong tâm hồn hắn, cũng như trong mọi kẻ cùng loại mỗi dao động, mỗi đau đớn, mỗi bế tắc trong cuộc sống đều khơi dậy ngay ý muốn đào thoát bằng cái chết. Song từ ý hướng này hắn dần dà xây dựng cho mình một triết lý có ích cho đời hắn. Hắn vốn quen nghĩ rằng lối thoát cấp cứu kia thường xuyên rộng mở và điều đó đã tạo cho hắn sức mạnh, đã khiến hắn tò mò tận hưởng đau thương cùng những hoàn cảnh oái ăm; rồi khi quá khốn khổ, hắn đôi lúc tự nhủ với niềm vui tàn nhẫn, hả hê độc địa: “Ta tò mò xem thử con người có thể chịu đựng được đến đâu ấy mà! Khi nào quá mức, ta chỉ cần mở cái cửa cấp cứu kia là sẽ được giải thoát ngay thôi”. Khối kẻ tự sát đã được ý tưởng này truyền cho bao sức mạnh phi thường.

Mặt khác, mọi kẻ tự sát đều quen thuộc với việc cưỡng lại sức cám dỗ của việc tự hủy mình. Ở một ngóc ngách nào đấy trong tâm hồn, họ thừa biết tuy tự tử là một lối thoát, song vẫn chỉ là một lối thoát khá ươn hèn, không chính đáng, trong khi chịu để cho cuộc đời chiến thắng mình, quật mình ngã gục mới đúng là cao đẹp hơn. Ý thức này, sự cắn rứ lương tâm này, đại loại cùng nguồn gốc với sự cắn rứt lương tâm của những kẻ gọi là thủ dâm, thôi thúc phần lớn những “kẻ tự sát” đấu tranh dai dẳng chống lại cám dỗ của việc tự hủy hoại. Họ đấu tranh như người mắc bệnh ăn cắp vặt chống lại tật xấu của mình, Sói Thảo Nguyên chẳng lạ gì điều ấy, vì chính hắn đã từng sử dụng đủ loại vũ khí khác nhau cho cuộc đấu tranh như thế. Cuối cùng, khoảng năm bốn mươi bảy tuổi,hắn nảy ra một ý định tài tình và không phải không khôi hài, khiến hắn thường thích thú. Hắn xác định vào sinh nhật thứ năm mươi sẽ cho phéo mình tự sát (1) . Ngày ấy hắn được tự do quyết định có sử dụng lối thoát cấp cứu kia hay không, tùy tâm trạng của hắn hôm đó, hắn thỏa thuận với lòng như thế. Vậy thì nay dẫn hắn gặp chuyện gì cũng mặt, dù hắn ngã bệnh hay lâm cảnh nghèo đói, chịu đau khổ và đắng cay – tất cả đều có kỳ hạn, tất cả chỉ còn có thể kéo dài tối đa vài năm, vài tháng, vài ngày nữa và con số này cứ mãi giảm dần! Quả thật, nay hắn chịu đựng dễ dàng hơn nhiều một số điều phiền muộn trước đây từng giày vò hắn nặng nề và dai dẳng, thậm chí có lẽ đã khiến hắn rung động tận gốc rễ. Nếu vì lý do nào đấy hắn quá ư bực bội, chẳng hạn cuộc sống của hắn đã quạnh hiu, đơn chiếc và man rợ, lại phải chịu thêm nữa những đau đớn khác thường hoặc mất mát, thì hắn có thể bảo nỗi đau đớn ấy rằng: “Cứ chờ đi, hai năm nữa thôi, lúc ấy ta sẽ là chủ của bọn bay!” Và rồi hắn say mê đắm chìm hình dung thư từ cùng thiệp mường sẽ đến với hắn vào buổi sáng sinh nhật thứ năm mươi như thế nào, trong lúc hắn, tin cậy vào con dao cạo, vĩnh biệt mọi khổ đau và khép lại cánh cửa cấp cứu sau lưng mình. Bấy giờ bệnh thống phong trong xương cốt hắn, chứng sầu muộn, bệnh nhức đầu và đau bao tử sẽ được thấy bọn chúng đang ở đâu.

(1) “… Tôi khá tuyệt vọng một thời gian và không thiết sống nữa. Nhưng rồi tôi tìm được lối thoát. Tôi dự định vào sinh nhật thứ năm mươi, hai năm nữa, sẽ cho mình quyền tự treo cổ, nếu lúc ấy tôi còn mong muốn như thế…” (Thư ngày 1.4.1925 gửi vợ chồng Hugo Ball, người viết tiểu sử của Hesse).

Hesse cũng gửi thư với nội dung tương tự cho một số người khác, vào thời điểm khác.

(Thêm một chú thích: năm 1892, mới mười lăm tuổi, sau khi bị hai thầy giáo đánh đập tàn bạo, ép nhận lỗi vì “một chuyện cỏn con trong lớp mà tôi hoàn toàn vô tội”, Hesse “mất lòng tin và các thầy” nên đã toan tự tử bằng súng lục, khiến cuôi năm học ấy cha mẹ ông phải đưa ông vào bệnh viện tâm thần).

Cũng cần nói thêm: để giải thích hiện tượng riêng lẻ của Sói Thảo Nguyên, đặc biệt mối quan hệ khác thường của hắn với tầng lớp trưởng giả, chúng ta hãy quy các sự kiện này vào những quy luật cơ bản của chúng. Sẵn đây, chúng ta lấy ngay cái quan hệ của hắn với giới trưởng giả làm khởi điểm!

Sói Thảo Nguyên, theo quan niệm của hắn, hoàn toàn đứng ngoài thế giới trưởng giả, vì hắn không có cuộc sống gia đình hay tham vọng xã hội. Hắn thấy mình hoàn toàn cá biệt, là kẻ lập dị, khi thì hắn là một kẻ ẩn cư bệnh hoạn, lúc là một cá nhân bẩm sinh thiên tài, cao quý, trội hơn hẳn những chuẩn mực nhỏ nhoi của đám làng nhàng. Hắn khinh miệt một cách có ý thức kẻ trưởng giả và tự hào không là một người như thế. Tuy nhiên trên một số khía cạnh hắn sống hoàn toàn trưởng giả; hắn có tiền gửi ngân hàng và trợ giúp họ hàng nghèo túng, hắn ăn mặc tuy không chăm chút, nhưng lịch sự và nhã nhặn, hắn tìm cách sống hòa hợp với Sở Cảnh Sát, Sở Thuế vụ và những quyền lực tương tự. Nhưng ngoài những điều ấy ra, một niềm khao khát âm thầm song mạnh liệt không ngừng kéo hắn tới cái thế giới trưởng giả bé nhỏ, tới những ngôi nhà êm ấm, đáng trọng với những khoảnh vườn sạch sẽ, khoang cầu thang được chăm chút sáng bóng và bầu không khí rất mực khiêm tốn của trật tự cùng sự sung túc. Hắn thích thói hư tật xấu và tính thái quá của mình, thích cảm thất mình là kẻ đứng ngoài tầng lớp trưởng giả, là kẻ lập dị hoặc thiên tài, nhưng hắn không bao giờ cư ngụ và sống, tạm gọi thế, trong những khu vực chẳng còn tính trưởng giả nào. Hắn không thoải mái trong bầu không khí của những kẻ thô bạo hoặc khác thường cũng như của những kẻ phạm pháp hoặc tồn tại ngoài vòng pháp luật, hắn luôn sống trong khu vực của giới thị dân, lúc nào cũng duy trì quan hệ với tập tục, chuẩn mực và môi trường của họ, dù là quan hệ đối nghịch hay phản kháng. Ngoài ra, vì lớn lên trong nền giáo dục tiểu tư sản nên hắn vẫn còn lưu giữ từ đó không ít khái niệm cùng mẫu mực. Về lý thuyết hắn không hề chống báng giới buôn son bán phấn, nhưng cá nhân hắn không thể nào coi trọng một cô gái mãi dâm và xem thật là ngang hàng với mình. Hắn có thể quý mến như anh em một chính chị phạm, một nhà cách mạng hay người xách động quần chúng về mặt tinh thần – những kẻ bị Nhà nước và xã hội tảy chay, nhưng hắn chẳng biết nên có thái độ thế nào với một tên ăn cắp, một gã trộm, một kẻ sát nhân dâm ác hơn là tội nghiệp chúng theo một cách khá trưởng giả.

Bằng cách đó, lúc nào hắn cũng nhìn nhận và tán thành với một nửa bản chất và hành động của mình điều mà hắn phủ nhận và chống lại với nửa bản chất kia. Lớn lên với khuôn mẫu và tập quan nghiêm ngặt trong một gia đình trưởng giả, có học thức, một phần tâm hồn hắn vẫn còn luôn gắn bó với những trật tự của thế giới này, cả sau khi hắn đã cá thế hóa vượt mức khả dĩ của gưới trưởng giả và thoát khỏi những lý tưởng cùng niềm tin của giới ấy từ lâu.

“Lối sống trưởng giả”, nhưng một trạng thái luôn hiện hữu của đặc tính con người, không là gì khác hơn sự