Thế Lực Khách Trú Và Vấn Đề Di Dân Vào Nam Kỳ

Chương 7: Kỳ 7




Việc di dân phi nh có Chính ph giúp, Dân Bc kỳ mun vào Nam trước hết phi lo ba điu, Xin Chính ph tha cho th cán cước, và tr cp khon tin tu, Phin anh em trong y giúp đ cho s tìm vic làm.



Chính phủ vì dân mà thiết lập nên, vậy cái vận mệnh cùng sự hạnh phúc của dân, nói tóm lại việc gì của dân nhất thiết phải trông cậy vào Chính phủ trông nom giúp đỡ.

Các nước văn minh bên châu Âu đã là phú cường rồi, nhưng mà số người mỗi ngày một đông, mà mọi sự xuất sản trong nước không đủ để tự cung cấp, Chính phủ phải lo tìm chỗ để xử trí dân, bèn đem tầu to súng lớn đi lấy thuộc địa này, chiếm tô giới kia, cùng là kí thương ước với nước này nước khác, đều là một cách di dân, một cách thực dân vậy. Mà trong nước Nhà nước có đặt riêng, bộ thực dân (TQ), sổ chi thu có riêng ra một khoản để kinh phí vào việc thực dân, nói tóm lại cái chính sách “lo cho dân” của họ, không còn sót chỗ nào nữa.

Bên châu Á ta, trừ dân Tầu và dân Ấn Độ ra, tuy chính phủ của họ chẳng hề có khuyến khích việc thực dân bao giờ, mà họ cũng tràn lan ra hầu khắp thế giới, đó là bị cái lo “nhân mãn” đẩy đi, không sao cưỡng được, còn như nước Nhật cũng cổ lệ việc di dân lắm, không kém gì mấy nước ở châu Âu, Nhật từ khi nhảy lên đứng sắp hàng vào với hạng liệt cường thế giới đến bây giờ, dân số mỗi năm tăng lên đến mấy mươi vạn, chính phủ phải lo chỗ đó, cho nên chiếm cao ly, giật Đài Loan, tranh nữa giải đất Sakhaline với Nga, toàn là kiếm chỗ để di dân đi cả, nhưng mọi việc như thế đều có hàm nghĩa chính trị ở trong ta cũng chẳng lấy gì làm lạ, duy có việc di dân sang châu Californic bên Mỹ thì thuần là một mục đích kinh tế, ta thấy chính phủ họ rất gia tâm khuyến khích và bảo vệ họ cho dân, cho đến ngày 1 Juillet mới rồi, 30 vạn dân họ kiều cư ở đấy bị chính phủ Mỹ ra luật khu trục đi, thì chính phủ lo tìm ngay chỗ khác, để đặt số dân đó, là đi sang ở bên nước Bresil, mỗi tên dân đi như thế, chính phủ trích tiền công ra cho 200 viên yen, là đồng bạc Nhật), mà mỗi chuyến đến mấy nghìn người, đã có tầu của nhà nước chuyển đi, tưởng chính phủ lo đường sinh hoạt cho dân, đến thế là chu chi lắm vậy.

Về việc này, Chính phủ bảo hộ cũng lo cho dân ta nhiều lắm ta cũng phải biết ơn mới được. Cái chính sách “ưu dân” của Chính phủ, rất hay mà vừa dễ dàng, chắc chắn đỡ tốn kém, đỡ phiền phức trông nom, là cái chính sách “dân xứ nào cứ ở yên xứ ấy mà làm ăn” lo khô ráo thì đã lập ra máng nước, lo lụt lội thì đã có cách giữ đê (tiếc thay nước là một chất mạnh lắm, cho nên đê vẫn vỡ luôn), lo đường vận tải không có, thì lại khai thông sông ngòi, mở thêm đường xá, lo công nghệ vật sản không có chỗ tiêu thụ thì đã có mấy nhà xuất cảng đem ra ngoài quốc bản, và chính phủ hàng lưu tâm đi tìm mối hàng mới cho, tức là như xắp kí thương ước với nước Nhật nay mai.v.v… bao nhiêu cái công nghiệp đó, chính phủ toàn là vì dân mà làm, muốn cho ai nấy sinh trưởng ở đâu, thì lập nghiệp ngay ở đấy, cần gì phải đi xa xôi. Vả chăng hiện nay đường xá hãy còn trắc trở nghiêu khê, cho nên chính phủ đang ra công làm con đường xe lửa Vinh Đông hà, chừng mấy năm nữa xong, lại làm nối con đường từ Tourane đi Nha Trang, cũng chừng mươi lăm năm nữa mới có là sớm, bấy giờ con đường Đông  Pháp thiết đạo (le Transindochonois) làm xong, tha hồ cho người Nam kẻ Bắc đi lại với nhau, không phải phiền đến chính phủ bận lòng nữa.

Lâu nay, Chính phủ cũng đã thâm hiểm cái tình thế cấp bách của xứ Bắc kỳ ta phải di dân đi là thế nào, nên khi có đi một ít dân sang làm culi bên Nouvelle Caledonie và Nonvelle Hebrides (đều là thuộc địa của Pháp ở Úc châu) đủ chứng tỏ rằng Chính phủ cũng lưu ý đến việc ấy lắm. Duy có việc di dân vào Nam kỳ bao lâu nay, vốn là ý dân ao ước, vốn là ý Chính phủ định làm, mà chưa thấy được thực hành gì cả, ý hẳn chính phủ nghĩ có điều gì chưa nên, mà ta không đủ sức biết tới. Đến ngày nay dân Trung, Bắc kỳ càng thấy cấp bách lắm rồi cái thế không có thể nói “ai sinh ở đâu thì làm ăn ở đấy” được nữa phải đi vào nam kỳ mà kiếm đường sinh nhai, là nói phải đi đi từng bọn, chớ không phải từng người, đã là từng bọn di dân, thì không xin với Chính phủ giúp đỡ cho không được, Chính phủ vốn có lòng quảng đại từ bi, cho nên ý của dân muốn thế nào là chánh đáng thì thiết tưởng bao giờ Chính phủ cũng vui lòng chiều theo, có điều gì khó khăn, thì Chính phủ cũng bớt đi cho được dễ dàng, vậy trong việc di dân mà ta đang cổ lệ nhau bây giờ, mọi phương diện tất cũng phải trông nhờ vào Chính phủ vậy.

Lâu nay dân Trung, Bắc ngoài này vẫn hâm mộ cái sự di vào Nam kỳ, vì nghe tiếng Nam kỳ là một xứ sung sướng phong lưu,dễ làm ăn,cho nên bây giờ nói đến sự vào Nam kỳ,thì hình ai cũng có sắc mặt mạnh bạo vui vẻ muốn đi ngay nhưng trong sự đi ấy có nhiều khó khăn sức họ không chịu được, thứ nhất là lúc sắp sửa ra đi.

Lúc sắp sửa ra đi phải lo ba việc này:

1. Giấy căn ước (titre dIdentife)

2. Khoản tiền tầu.

3. Người giới thiệu.

Ba xứ Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ là nước Việt Nam, hợp cả Cao Miên, Lào làm thành một xứ Đông Pháp, đều ở dưới quyền cai trị của Chính phủ bảo hộ, song lẽ mỗi sứ ở dưới một chế độ riêng, chính thể khác, cho nên người xứ này muốn sang xứ kia, tất phải có một thứ giấy của quan địa phương mình cho, ấy là giấy thông hành. Trước kia xin được một giấy thông hành, là một sự phiền phức lắm, phải đi hết sở nọ đến sở kia, chần chực đến mấy ngày mới xin được rất là bất tiện cho dân, cho nên mấy năm nay, Chính phủ mới thi hành giấy căn ước và giấy thông hành thì cũng giống giống nhau, duy chỉ có một vài điều khác, là giấy thông hành thì chỉ hạn có ngày, mà giấy căn cước thì được vĩnh viễn, giấy thông hành thì cho không, mà giấy căn cước thì phải mất tiền. Vậy người xứ này muốn sang xứ khác, là nói đi quanh trong xứ Đông Pháp này thôi, thì tất phải có giấy ấy, tức là một bùa hộ - thân vậy. Như người ở thành phố, thì do trưởng phố dẫn đến sở mật thám làm đơn xin đơn đệ vào hãy để đấy: cho sở Mật thám dò xét vài ngày rồi mới cho; ở các tỉnh thì phải lý trưởng làng mình dẫn lên Toà sứ nộp đơn, rồi sang Kho bạc nộp tiền, sang sở Cẩm hay Toà án để đo người và lấy dấu tay, cũng chạy mất hai buổi hầu mới lấy được. Xin mỗi cái giấy ấy phải nộp Chính phủ 5 hào, chưa kể chụp hai cái ảnh nghiêng mặt khổ 4x6, cũng mất chừng 4 hay 5 hào và tiền cơm rượu khoản đãi thầy lý trong mấy hôm nữa. có cái giấy ấy thì tàu bể mới phát vé cho mà đi, nếu không có thì khi xuống tàu rồi cũng bị kéo lên bờ, thường khi bị tội nữa. Vậy trước khi đi, phải lo điều ấy là một.

Đường từ Bắc vào Nam xa xôi lắm. Đường bộ thì hiên nay mới có ba đoạn đường xe lửa đứt khúc là Hà Nội – Vinh (326km), Quảng trị - Tourane (174km) và Nha trang – Sài gòn (408km), còn thì từ Vinh đến Đông Hà và từ Tourane đến Nha trang là hai quãng đường bộ rất dài, đi xe ôtô thì đắt tiền, đi bộ thì hết một tháng, mà đường xá gập ghềnh, núi rừng hiểm trở,, đối với những hạng dân phải di đi, thì không tiện lợi chút nào, duy còn có đường thuỷ. Đường thuỷ thì trước ta thường đi ghe, mành, ngay bây giờ ở mấy tỉnh Thanh, Nghệ, Quảng bình, Bình định ... họ vẫn đi vào Nam kỳ như thế, song lâu la và nguy hiểm lắm, chỉ còn có tàu thuỷ là tiện và mau chóng hơn cả, nhưng vẫn còn là đắt tiền. Tàu bể chạy đường Hải phòng (chính là cái cửa bể xuất phát của dân Bắc kỳ) Sài gòn, trừ một chiếc tàu vừa nhỏ vừa chậmcủa ông Bạc Thái Bưởi, là tàu Verdun và tàu Bình chuẩn ra, thì độc quyền vận tải vào hãng Messangerics Maritimes, ta gọi là hàng “đầu ngựa”, trong Nam kỳ gọi là hãng Nhà rồng, có ký giao kèo với Nhà nước, và một hãng nữa là Chargeurs Réunes nhưng không có chuyến tàu chạy thường, ngoài ra, hoặc có tầu các nước ghé vào Haiphong rồi đi Saigon, dẫu có rẻ tiền hơn, ta cũng không được phép đi những chiếc tàu ấy. Giá tiền đi Saigon, trước là 36$00, nhưng mới đây lại hạ xuống có 20$00, là giá vé ở trên “Boong”, không có ghế nằm ngồi gì cảm mỗi người đi tất phải đem chiếu hoặc ghế vải đi mà nằm, tàu phát cho mỗi người một cái phiếu, đến bữa thì ra chỗ gian nấu bếp lĩnh mà ăn: được một bát cơm và bã súp, 4 ngày 4 đêm như thế thì vào đến Saigon.Vài chục bạc là bao, nhưng đối với những người đi “tha phương cầu thực”, thì như thế cũng là nặng. Vậy trước khi đi phải lo khoản tiền tàu là hai.

Bấy lâu người Trung, Bắc kỳ đi vào Nam kỳ cũng nhiều, mà hay giắt díu nhau là một sự rất hay rất lợi, nghĩa là người đi vào trước, đã từng biết thung thổ và nguồn ngách làm ăn rồi, thì dẫn người sau – là bà con anh em – vào; người này không phải cái nông nổi bỡ ngỡ, như chim chích vào rừng, lại không sợ  là không có công việc làm ăn nữa. Như thế, ta có thể gọi được là cách “hương tộc di dân” (Tiếng Trung), ta đã thấy người làng Nội - Duệ (Bắc Ninh) kéo nhau vào bán hàng tơ lụa, người làng Lại – xa (Nam Định) vào làm mũ, làm giầy... người Quảng Bình vào làm cu li xe và đi ở, làng nào cũng đến hàng trăm người vào ở quán tụ nhau, người có việc làm chẳng nói chi, không có cũng không lo thất cước, là vì cũng có nghĩa đùm bọc chỉ dẫn cho nhau, mà người cùng làng đi vào đông được như thế, toàn là nhờ cách giắt díu nhau kẻ trước người sau cả. Trong lúc này ở trong Nam kỳ, chưa có cơ sở nào tìm việc cho người, chưa có cơ sở nào mộ phu vào làm, thì số dân thừa ở ngoài này có muốn đi vào cũng chẳng biết tự xử trí mình vào đâu, cho đến những người muốn vào buôn bán làm nghề... nếu có người bà con quen biết ở trong ấy chỉ dẫn cho thì không nói gì, bằng không có thì sao? Vì không có người giới thiệu như thế, cho nên một người muốn vào Nam kỳ trước hết phải ngần ngừ về chỗ, vào đấy cách thức thế nào? Làm ăn thế nào? ngộ nhỡ vào mà không có chỗ nương tựa để kiếm việc mà làm thì sao? Không may bị bơ vơ thì khốn. Vậy trước khi đi còn phải lo có người giắt díu cho nữa là ba.

Ba điều phải lo trước như thế, không thích hợp với cái tình thế của dân nghèo muốn đi, cho nên bảo là ba sự ngăn trở cả. Ba sự ngăn trở ấy, nếu cứ để nguyên, thì không bao giờ nói được chuyện di dân, mà muốn giải thích đi, thì hai điều trên, ta phải xin với Chính phủ, một điều dưới ta phải nhờ anh em đồng châu ta kiều cư trong Nam kỳ.

1.     Xin Chính phủ tha cho sự lấy thẻ căn cước

Chính phủ đặt ra cái thẻ căn cước, thật là dễ việc kiếm đốc cho Nhà nước; tiện sự thông hành cho dân gian, thật là một miếng giấy mà tiện lợi quá chừng, không còn nói vào chỗ nào được nữa. Duy xét kỹ ra đến sự xin được cái thẻ ấy, đối với những người đi học, đi buôn, đi làm là hạng sẵn tiền trong túi thì thật là dễ dàng, đến như đối với dân nghèo – là muốn nói những người muốn vào Nam kỳ kiếm ăn – thì sự xin được cái thẻ ấy thành ra khó. Khó không phải là tại nghèo mà Chính phủ không phát cho đâu, chỉ khó vì chỗ chạy được tiền để xin được thẻ ấy. Thẻ căn cước xin chỉ phải nộp có 5 hào, thì khoản tiền nhỏ mọn như thế, ai là chả có, song lẽ khó ở chỗ vì phải vật nài thì thày Lý ở làng mới bằng lòng nhận thực cho, rồi lại mời thầy lên tỉnh, để vào tân Toà Sứ khai, cơm hàng rượu quán, tiền cáng tiền xe, chầu chực ít ra cũng hai buổi hầu mời được nếu là đường xa, thì phải tính cả ngày đi ngày về nữa. Đến khi được cái thẻ rồi, thử gẩy con tính xem trước sau tốn kém mất bao nhiêu: tiền quà bán cơm rượu xe cáng cho thầy Lý mấy ngày ấy, ít ra cũng mất dăm đồng, bản thân chưa kể, lại chưa kể đến mấy cái hình và tiền nộp lĩnh thẻ ấy, cũng vào một đồng bạc nữa, tổng cộng lại, một cái thẻ căn cước, tốn mất dăm bảy đồng là ít, dân nghèo cần dùng mà xin cho được chẳng bán mất mấy miếng vườn, cố mất vài sào ruộng hay sao? Mỹ -ý của Nhà nước chỉ thu có 5 hào thôi, nhưng những khoản tốn kém đi theo với 5 hào ấy, dân không làm sao tránh được.

Nhân vì sự xin giấy căn cước, ngẫu nhiên bị tốn kém khó khăn như thế, cho nên ta thường thấy nhiều người chui xuống hầm than ở dưới tầu nằm, và đi trốn ở dưới các ghe mành để vào Saigon, mà lính Mật thám thường bắt được luôn, ấy là một cái chứng cớ vậy.

Xét cái tình thế ấy, thì xin Chính phủ tha cho sự lấy thẻ căn cước là hơn. Xin tha không phải nghĩa là xin thủ tiêu cái đạo nghị định về căn cước đâu, vì thẻ này cũng có ích lợi nhiều lắm, mà chỉ xin rằng: đặc cách cho những dân nghèo, muốn vào Nam kỳ, miễn là có thẻ thân - thuế rồi, thì cứ việc xuống tàu đi, không cần phải có thẻ căn cước, để cho họ dễ dàng được sự ra đi, khi họ vào đến hải cảng Saigon rồi, thì sở “Hải cảng cảnh sát” hay là sở Mật thám trong ấy sẽ khám xét từng người, chiếu thẻ thuế thân mà bắt nộp 5 hào, phát cho một thứ thẻ gọi là “thẻ cư lưu” theo hình như thể lệ đối với khách ở Tàu sang thì phải có thẻ ấy; như thế tưởng cũng đỡ phiền cho Chính phủ, mà dễ dàng tiện lợi cho dân lắm.

Những khi họ ở trong ấy, mà trong việc buôn bán có cần phải thẻ căn cước, để giao thiệp với nhà Bưu chính cho tiện thì bấy giờ do trưởng phố ở phố họ ở, nhận thực cho mà xin cũng còn dễ hơn là xin trước khi ở ngoài này đi, vì cái thẻ căn cước, vốn không hạn rằng người tỉnh nào hay xứ nào, cứ phải xin ở tỉnh ấy, xứ ấy mới được, thứ nhất làm dân thành phố lại càng dễ hơn.

Nói tóm lại, không dám đâu xin Chính phủ bãi hẳn thẻ căn cước đi, những sự thi hành thẻ ấy nên đối với tuỳ người mà khoan dung hay bắt buộc mà thôi.

2.     Xin Chính phủ trợ cấp cho khoản tiền tàu

Nếu như việc di dân là một việc mà Chính phủ đã có thì giờ làm, thì một khoản tiền tàu, người đi không lo gì đến ví dụ như Chính phủ mộ phu ngoài này vào mở mang hoang địa và làm mọi công việc trong Nam kỳ, thì khoản phí tất Chính phủ cho hẳn, nhưng hiện nay chưa phải như thế, dân chỉ vì thế bách, vì tình nguyện mà tự đi, thì phải lo một khoản tiền tàu, tiếng thế cũng là một việc nặng.

Trên kia đã nói đường đi vào Nam kỳ, bộ có, thuỷ có, nhưng duy có đường thủy là tiện. Đường thuỷ cũng vô số tàu chạy, hiềm vì tàu nhỏ thì rẻ tiền, nhưng chạy chậm, tàu ta thì chạy nhanh nhưng đắt tiền, bề nào cũng khó lòng cho người đi cả. Giá như đây vào Nam kỳ, mà giá tiền tàu được rẻ thì hẳn người đi nhiều, điều ấy dám nói chắc như thế. Tác giả ở Saigon đã nghiệm rằngL tàu ở bên Hương cảng sang mỗi tháng đến mười chuyến là ít, mà chuyến nào cũng có vài ba trăm người Tàu sang, thế mà tàu ở Haiphong vào, mỗi tháng năm bảy chuyến là nhiều, mỗi chuyến chỉ thấy độ vài chục người Bắc vào,(trong vài chục người ấy, không phải gọi là người di cư cả), thế ra một đàng xa, một đàng gần, sao đàng gần thì vào ít mà đàng xa lại đến nhiều được thế?  Cái cớ, ở trong mọi cớ, là chỉ tại một đằng tiền tàu rẻ và một đằng tiền tàu đắt mà thôi, từ Hương cảng sang đến tận Saigon chỉ có 7$00 mà từ Haiphong và Saigon lại những 20$00, cho nên người Bắc vào Nam không đông được bằng người Tàu sang Tây Cống (Tiếng Trung – là tên người Tàu gọi Saigon) là vì đó. Bởi tiền tàu đắt, không vừa tầm sức với cái túi của phần nhiều người đi, cho nên có nhiều người phải mạo hiểm liều thân, là thông với mấy người làm ở dưới tàu, đãi người này độ mươi lăm đồng, cho được rúc vào hầm than, hay là nằm co trên ca nốt để trốn đi, may ra trôi chẩy thì thôi, không may bị bắt thì lại phải điệu về và bị tội nữa, nào ai có muốn bị tội làm gì cho khổ thân, chỉ vì muốn đi mà ít tiền cho nên mới phải làm liều như vậy.

Ấy mới nói sự đi tàu bể đắt tiền mà thôi, chưa nói đến những nông nổi đi hạng trên “boong”, thì cơm phải ăn xin, nằm không có chỗ, nghĩ lắm lúc mà tủi thân nữa.

Bởi thế, cho nên sự di dân bị ngăn trở, vậy bây giờ muốn cho người ngoài này vào trong kia được đông, thì phải xin Chính phủ trợ cấp cho khoản tiền tàu. Việc này, những kỳ hội đồng Chính phủ mấy năm trước, đã có nhiều ngài thỉnh cầu, lấy lẽ rằng những người là di dân, cần phải đem theo vợ con gia quyến, thế thì Chính phủ phải trợ cấp tiền tàu cho họ mới có thể đi được, song lẽ việc di dân chưa phải là việc Chính phủ định làm, cho nên việc xinn trợ cấp tiền tàu, Chính phủ cho mấy chục bạc hay sao? Như thế không tiện, hoạ chăng thế này mới được.

a/ Tàu của hàng Messangeries Martimes (Tổng cục ở bên Mar-seille) đều có ký giao kèo với Chính phủ để chuyên chở thư từ hàng hóa đi lại ở Pháp và Đông Pháp, thế thì những chiếc đi lại ở Marseille và Haiphong mà giá tiền tính theo phật lăng (France) Pháp thì không nói, nghĩa là lúc đồng bạc Đông Pháp xuống thì giá tàu cao, lúc đồng bạc cao thì giá hạ; còn chiếc tàu như chiếc Orenoque chỉ chuyên chạy ra vào Saigon – Haiphong mà thôi, thì tưởng Chính phủ có thể điều đình lấy giá hạ nữa đi được, lấy giá tàu chạy từ Hương cảng sang Haiphong, hay từ Hương cảng sang Saigon làm tỉ lệ.

b/ Ngoài ra còn một vài chiếc tàu của các công ty hàng hải khác, ví dụ như tàu Bình Chuẩn, Verdun... của ông Bạch Thái Bưởi, hiện nay chỉ chuyên chở hàng hoá, mà không cần chở khách, cho nên kỳ hạn thường không chừng, nay xin Chính phủ trợ cấp cho những tàu ấy mỗi năm ít nhiều, để khuyến khích cho cái nghề hàng hải của người bản xứ, thì sự chở hành khách sẽ được chuyên và giá rẻ đi nữa.

c/ Chính phủ cũng có xưởng đóng tàu bể ở Saigon, thường đóng được những chiếc tàu to, như chiếc Alberl Sarraul hạ thuỷ năm 1921, giá đừng cho đấu giá thuê, chỉ giao vào cho một công ty nào đó quản đốc, nhưng vẫn là tàu của nhà nước, để chạy đường Haiphong – Saigon, lấy giá rẻ hơn các tàu khác, cho những hành khách ít tiền đi, thì lợi cho dân bao nhiêu. 

Như thế, thì tuy Chính phủ không phát tiền cho dân, mà tức là trợ cấp cho dân khoản tiền tàu vậy. Hoặc có phương pháp nào khéo hơn nữa thì lại càng hay.

3.     Phiền anh em Bắc kỳ đã ở trong Nam kỳ môi giới cho –

Trong lúc mà việc di dân ta bàn đây, chưa phải là một việc thuộc về vấn đề xã hội kinh tế, thì những người muốn đi vào Nam kỳ, không biết có ai mượn mà làm, hay là tìm được việc gì mà làm không, vì đáng lẽ ngoài này phải có một sở “Tuyển mộ người đi vào” mà trong kia phải có sở “Phát việc cho người làm” mới được, nhưng bây giờ những điều ấy còn thiếu thốn cả thì ta phải cần có người làm môi giới cho.

Ai làm môi giới cho được bây giờ? Trừ anh em Bắc kỳ ta đã ở Nam kỳ và anh em Nam kỳ ra, thì không ai chịu mang cái trách nhiệm ấy cho nữa.

Song lẽ, nghĩ lại thì không chắc anh em Bắc kỳ ta kiều cư ở trong ấy bây giờ, có lương tâm hay là có nhiệt thành làm việc này cho không? Vì nghĩ lại cái tình hình người Bắc ở trong Nam mấy năm trước mà xem, không ai khỏi có bụng bi quan được. Cách đây ba năm, tác giả ở Saigon, trông cảnh tượng ấy lấy làm phàn nàn lắm: số người Bắc kiều cư ở ở Saigon rất đông, nhưng già nửa là những người đi làm việc và làm bồi bếp, hoặc là không có tâm chí gì, hay nghĩ mình là hạng chân nâng, ở đi không biết lúc nào là định, thì cũng không có thì giờ mưu được việc gì lợi cho kẻ khác, vả chăng nói cho phải, thì những người này không chiếm được địa vị gì có thế lực, chẳng qua tay làm hàu nhai mà thôi; chiếm được địa vị có thế lực thì duy có mấy nhà buôn bán công nghệ, song tiếc thay những ông này lại ích kỷ quá. Cuộc buôn bán của người Bắc trong Nam kỳ đang phát đạt lắm, chớ phải không đâu! Đi ở Lục tỉnh, không thấy mấy tỉnh không có cửa hàng của người Bắc, đi về các chốn nhà quê thường gặp người Bắc đeo gói hàng đi bán, mà thứ nhất là ở Saigon, chưa kể đến các phố khác, ngay ở phố Catinal, là phố người mình khó len lỏi thế mà cũng có đến mươi tiệm hàng Bắc, trông nguy nga đồ xộ, bề ngoài không thua gì mấy tiệm tây, tiệm khách, tiệm Bombay, mà chủ trương toàn là những ông trông có học thức và giàu có cả, tổng cộng lại thành một đảng “cự tử” ở trong thương trường, ai trông thấy cách doanh nghiệp của các ông cũng phải kính phải phục. Chết nỗi các ông thờ cái chủ nghĩa “vị ngã” quá, nên không có đoàn thể với nhau, mà cũng chẳng có công tâm gì cả. Đáng lẽ bấy nhiêu người Bắc buôn bán, nên có một phòng Thương mại hay ít ra một hội liên hiệp - để bảo thủ quyền lợi cho nhau mới phải, nhưng mà không. Đáng lẽ phải có nhiều cơ quan như là hội cứu tế, tiền tuất cấp cho những người đồng châu trong khi cơ lỡ mới phải, nhưng mà không. Đáng lẽ các ông ấy phải đứng lên lập hội gì để chỉ đường dẫn lối và đưa người tìm việc cho anh em ở ngoài này mới vào mới phải, nhưng mà cũng không. Bao nhiêu người Bắc trong Nam kỳ chẳng có cơ quan gì với nhau, chỉ có một cái hội là hội “Bắc kỳ nghĩa trang” nghĩa là người Bắc vào làm ăn trong Nam kỳ, vào hội ấy đến khi có chết ở đấy thì hội chôn cho, nghĩ hẹp hòi và buồn bã quá, cho nên khi ấy tác giả đã viết mầy bài đăng ở báo “Nam kỳ kinh tế” giải lẽ phải chăng, thì bị mấy ông đương sự lúc bấy giờ viết thơ đe kiện tác giả, việc ấy đến nay, tác giả nghĩ vẫn lấy làm lạ.

Những tình cảnh ấy ở mấy năm trước, chắc đến nay cũng vào thời đại quá độ rồi, vâyj tưởng có lẽ cũng trông mong anh em Bắc kỳ ta hiện ở trong Nam bây giờ, để giải quyết cái vấn đề “làm môi giới” này cho được.

Trước hết tưởng nên lập ra một nhà hội, gọi là nhà “Bắc phương công quán” (Tiếng Trung- gọi là Bắc phương vì đối với Nam kỳ thì Trung Bắc kỳ đều ở mạn bắc vậy). Theo đại khái như hội quán của Khách trú, nội dung không những là một nơi tụ họp cho những người bắc buôn bán làm ăn ở đấy, để bàn bạc nhau về việc buôn bán, công nghệ, học thuật... mà lại đứng làm môi giới giúp đỡ được cho những người Bắc muốn đi vào nữa. Trong Công quán ấy, sẽ có đủ cả nhà trọ, hàng cơm, do một ban uỷ viên đứng trông coi, tuy không tặng không cho ai, nhưng mà lấy tiền rẻ bằng nửa ở các cao câu, khách sạn, để cho những người mới vào bỡ ngỡ có nơi ăn chỗ ở, đỡ phải tốn kém như ở ngoài, mà đối với những người nghèo, khoản đãi không tưởng có khi cũng được. Công quán lại nên đặt ra một ban cố vấn, để đáp các thư từ của những người ở ngoài này muốn hỏi cách thức vào, cùng là lần mò tìm công tìm việc để xử trí những người đã vào mà chưa có chỗ làm ăn; việc này tất phải là người có thế lực lớn, giao thiệp nhiều, lịch duyệt rộng mới làm được, nhưng mà những hạng người Bắc như thế này ở trong ấy cũng nhiều, thế thì chắc làm cũng dễ.

Sau hết phải nên có một cơ quan gì đại khái gọi là “Bảo hộ cho những người di dân” để bảo hộ cho những người vào đấy, trong khi đau ốm, trong khi thất nghiệp, trong khi làm việc mà bị mấy người chủ thuê bạc đãi ... nói tóm lại, cái chế độ không như bang của khách, mà cũng tức như bang của khách vậy.

Cái cơ quan ấy rất cần, có ích chung cho cả người đương ở và người sắp vào, nếu anh em Bắc kỳ như ta kiều cư trong ấy, làm được như thế, hay hơn như thế nữa, do ở lực lượng và cao kiến của mình, thì tức là mở đường cho anh em ở ngoài này vào đông vậy. Vì hiện nay, những người ở Trung, Bắc kỳ muốn vào Nam kỳ, trừ ra đôi người có bà con giắt díu không kể, còn thì lo nhất là sự tìm việc làm, nay nếu có nhà công quán như thế đứng lên chỉ dẫn và bảo lĩnh cho, thì thiết tưởng số người di dân ngày một đông khôn biết thế nào mà nói.

Gần đây, trong Nam kỳ đã có một sở tìm việc cho người làm, mở ra ở phố Harner (Saigon), số nhà 70, gọi là “Office colonial de placement el de la slalislique du travail”, do một người đồng bào của ta trong Nam kỳ là M.Bửu chủ trương, cốt tìm việc cho những người không có việc làm, và đưa người cho các nhà riêng, các nhà buôn bán, thật là công cuộc hay quá chừng, nhưng tiếc thay cái phạm vi chỉ được ở Saigòn mà thôi, nay ước gì M. Bửu khuếch trương cho to ra, có thể giúp đỡ vào việc di dân này được, thì càng thêm ích lợi cho đồng bào bao nhiêu!

Nói tóm lại, trước khi ra đi, phải lo giấy căn cứơc, lo khoản tiền tàu, lo người giới thiệu mà nếu Chính phủ giúp đỡ được cho hai điều trên, là tha giấy căn cước, hạ giá tiền tàu, và anh em Bắc kỳ đã kiều cư trong ấy hay là anh em Nam kỳ đứng làm môi giới cho, thì vấn đề di dân này đã nhẹ đi được một phần vậy.

IV

Người ta chê nhân công mình như thế nào? Có phải thế hay không? Di dân phải di cả gia đình. Cái vấn  đề tiền lương. Phải bênh vực nhân quyền và sinh mệnh của họ. Giấy giao kèo.

Người Pháp sang chinh phục nước ta, chỉ lấy nước ta làm nơi “khai thác thượng chi thực dân địa” (Tiếng Trung), là bởi khí hậu khó chịu, không thể ở lâu dài được, chỉ mấy năm lại về Pháp nghỉ ngơi một lần, cũng không thể lấy chân tay ra làm những công việc mệt nhọc nổi, mà chỉ có làm những công việc bằng tinh thần, cùng là bằng lối “chỉ tay năm ngón” mà thôi. Nói tóm lại chỉ làm những nghề nhàn hạ tự do, là làm quan và làm nhà buôn, đến như công nghệ và canh nông, thì duy lấy óc suy nghĩ thôi, chớ không đem cánh tay ra mà làm lụng được. Bởi thế phải cần có nhân công.

Cần có nhân công để sai khiến mở mang, cho nên khi người Pháp bước chân vào Nam kỳ là tổ chức ngay cuộc di dân cho người Tàu, là một dân tộc vừa đông người, mà không sợ đi xa, sang bên ta, lợi dụng cả tư bản và lữ lực của họ ra mà làm đủ mọi công việc, y như ở bên nước họ. Việc đem dân Tàu sang nhiều như thế này, đáng lẽ ngoài sự giúp đỡ cho việc khai thác của Chính phủ Pháp, thì không để cho phạm vào quyền lợi sinh hoạt của dân bản xứ mới phải: sơ tâm của Chính phủ định mở rộng cửa chi người Tàu vào đong, là để dùng họ khẩn hoang địa, làm cu li, không dè họ làm trái hẳn cái chương trình ấy, là họ chăm chăm vào việc buôn bán, việc công nghệ, không những là cướp cả lợi quyền của dân mình, mà lại có ý cạnh tranh với cuộc buôn bán công nghệ của Pháp ở đây nữa, thành ta họ lấy đất ta - thứ nhất là xứ Nam kỳ - làm nơi “di dân giữa khai thác thượng chi thực dân địa” (Tiếng Trung, tiếng Pháp) tự hình thức mà xem, thì có lợi hơn người Pháp; điều này tưởng bây giờ Chính phủ cũng tự biết là sơ xuất thì phải.

Nhưng ta tự hỏi sao Chính phủ lại đem nhân công Tàu sang? Là bởi cho nhân công Tàu nhiều và có nhiều tính cách tốt, dễ sai bảo và có thể làm được việc, còn như nhân công bản xứ thì thiếu, và phải mất nhiều bản chất xấu không thể dùng được. Đại khái cái dư luận ấy như sau này:

“Ngơìư Annam vốn là sinh tính lười biếng, lại không biết lo lắng gì cả, được ngày nào hay ngày ấy, nếu ngẫu nhiên được một miếng đất để cất một cái nhà, và một mảnh ruộng cày cấy đủ ăn trong một năm, ấy điều nguyện vọng của họ đến đó là tột cùng rồi. Trong mong họ để lấy nhân công thì vô ích; vả chăng, ngày giờ của họ phần nhiều là ngồi soài trên chõng, khề khà uống bát nước chè tươi và hút điếu thuốc lào hay là cả thuốc phiện nữa. Những ngày ấy, nếu chịu khó đi làm việc, thì thêm được đồng ăn tiêu, và ít ra nữa cũng kiếm được đồng để ra, phòng những năm đói kém... Song lẽ người Annam có biết lo xa đâu? Họ chỉ cam sống ngày nào hay ngày ấy, chẳng lo lắng gì, hầu như là con nít, bao nhiêu công việc đứng đắn đáng làm hôm nau, thì hãy để đến mai, duy có lúc nào túng bấn mới bắt được họ làm việc mà thôi.

Vả chăng, kể về phương diện nhân công, thì người Annam lại hay hiếu tĩnh, đó không phải là cái tật nhỏ của họ đâu, họ quyến luyến nhà cửa quê hương quá sức. Các gia tộc thường đến ở một làng nào, từ đời cổ nào không biết; cha ông đã đứng vào hàng tai mắt trong làng, và họ đã có ngôi thứ trong đình đám rồi, nếu bỏ làng mà đi, tức là làm mất danh giá, hầu như không phải là con người tử tế, nghĩa là nếu họ đi đến làng khác mà ở, tất bị người ta khinh rẻ, coi chẳng ra gì. Thành ra, hoạ chăng vì nỗi ông cha sa sút (hoặc vì bị tù tội, hay vì không đóng thuế nổi... ) thì  mới chịu đi như thế. Nếu như nhà cửa vẫn nguyên – tuyền, thì không ai chịu rời ra một bước; ai có đi cũng không đi xa: ví bằng ở quê cha đất tổ không được mà phải đi, thì họ cũng chỉ đi gần thôi, hoặc đi làng khác, hoặc lên tỉnh, hoặc làm ăn ở những tỉnh gần gũi, để cho đến khi trong làng trong nhà có cúng tế giỗ tết gì nhưng người rác rác đi làm các nơi dễ sự về nhà để cúng tế giỗ tết với nhau cho tiện. Nhân đó mà người Annam có một điều sợ, một điều ghê khiếp nhảm nhí, khiến cho họ lấy sự đi xa làm lo lắng. Thường khi có một người Tây ở một chỗ nào trong xứ Đông – pháp này, mà phải đổi ở vùng này đi vùng khác, có người bồi tốt muốn đem đi theo, thì nó kêu là “nước độc”, không thể đi theo được. Ai lại không biết, phần nhiều người Annam có một thói quen, tuy hơi trẻ con mà thấy cũng cảm động là khi sắp tới ở một xứ nào xa xứ mình, thì hay gói một cục đất ở chỗ mình ở ấy mà đem đi theo. Nếu có ít nhiều người, không cần gì những sự đã tin, hay hoặc được lương cao, quên cả những sự ấy, mà bỏ ra đi thì một sự sầu – uất mà họ cảm giác trước hết, dù cho là một cơn sốt xòa… chẳng qua bởi phong thổ khác mà ra, nhưng cũng đủ là một …làm cho họ hối hận ngay rằng mình đi thế này, là táo tợn dại dột, thì vội vàng trở về quê cha đất tổ ngay. “Như thế thì phân minh rằng sự lợi – dụng nhân – công bản – xứ có điều gì ngăn trở to lắm”.

Người viết mấy dòng ấy, nói nhân – công bản – xứ tức là chủ nhân – công Bắc kỳ, vì chỉ có Bắc kỳ mới có nhân – công mà thôi. Ta thấy phần đông người Pháp – trừ ra mấy người có hiểu tình – thế và tính – chất của ta lắm – đều chung một ý – kiến như thế. Vậy nhân – công Bắc kỳ có đến nỗi tệ như là dư – luận ấy đã chỉ - trích hay không, tưởng là một điều ta cần xét lắm. Trước hết ta phải nhận là có thể, sau ta nói rằng: mấy cái tệ đó ngày nay không có nữa đâu.

Người mình vẫn có long nặng tình quê hương, không muốn rời ra một bước, tức là cũng có cái “tư tưởng thôn – lạc” y như người Tầu, mà tác giả đã nói trong đoạn ở phần trên, cho nên đi đâu xa một tí, thì hay nhớ nhà, công việc làm ăn nhân thế mà có ngăn trở; song về thủa trước kia, trình độ sinh hoạt còn thấp, miếng vườn sào ruộng là đủ ăn, không trách nào cái tư tưởng ấy phải phát đạt được, bây giờ cái trình độ sinh hoạt cao nhiều, nếu cứ trì – thủ mãi không xong, thành ra cái tư tưởng kia phải biến, chẳng có đâu quá độ như trước. Vả chăng, cái tư tưởng thôn – lạc không phải là dở cả đâu, mà lại có ý nghĩa hay nữa, nước Mỹ lấy 48 nước nhỏ mà hợp thành lại một nước liên bang to, và thực hành được cái chính sách cộng hòa trọn vẹn rực rỡ như thế kia, nguyên lấy cái tư tưởng thôn lạc làm gốc cả. Nhưng nếu tư tưởng thôn lạc mà cứ ôm chặt lấy, chẳng những không tiến thủ được việc gì mà lại thành ra ngu ngốc, nhưng nếu thoát hẳn nó ra, thì hình như lại thành ra quá khích mất rồi! Đã yêu cái chỗ đất mình sinh ra, lại còn phải biết yêu cái khu vực lớn gồm cả chỗ đất mình sinh ra nữa, bởi thế cái tư tưởng thôn lạc, cần phải cân nhắc thế nào cho vừa phải mới được. Kể thường tình của người ta, ai không yêu mến cái chỗ đất tổ quê cha, chon rau cắt rốn của mình, phương chi đã quen sông quen núi, quen đường đi lối lại, quen gốc cau vườn chè của mình đi rồi, nhất đán phải rời bỏ mà đi xa, thì chút tình bịn rịn nhớ thương, không có sao được; nhưng ví bằng lấy chỗ mình đến ở đó, mà tô điểm làm sao cho có cảnh tượng cùng hơi giống như chỗ sinh trưởng của mình, thì cái tư tưởng thôn lạc phải nhẹ đi một nửa, nghĩa là đi đâu, mình lập gia đình ở đó. Người Tầu cũng nặng tư tưởng ấy như ta, thế mà đâu họ cũng đi đến và ở lâu dài, toàn là do cách khôn, đi đâu thì lập gia đình ở đó vậy.

Nhiều nhà trại chủ, điền chủ mộ phu như ở trung châu lên mạn ngược, hay ở ngoài Bắc vào Nam, mà bị ít lâu, họ nhớ mà muốn về, làm nhỡ cả công việc mình, là bởi không biết mưu cho họ lấy điều sung sướng thứ nhất, là sung sướng gia đình, nghĩa là không biết hóa cái chỗ hoàn cảnh của họ, hơi giống như những lúc ở nhà, thành ra họ chẳng được chút gì yên ủi, mỗi khi xúc động những cảnh bóng xế giăng tà, mây bay gió thổi, mới sinh ra cảm tình quê quán, động mối li sầu, chỉ muốn về ngay, chẳng thiết gì công ăn việc làm nữa, hay cũng vì đó mà họ sinh trễ nải ra. Bởi thế việc di dân muốn được thành – hiệu lớn, lại cần phải làm sao cho họ được gần gũi gia đình, hay là gây dựng cho họ một gia đình mới, để cho họ nhẹ bớt cái tư tưởng thôn lạc đi mới được.

Nếu thế, chẳng những trừ bớt được cái tư tưởng thôn lạc của họ đi, mà lại trừ được cái căn tính “tự túc” đi nữa. Trong lúc thế giới, người ta tiến hóa vô cùng, cạnh tranh vô cùng, nhất thiết cái gì cũng muốn cho đến cực điểm mới nghe, thế mà người mình chỉ ngồi ôm lấy cái căn tính tự túc, thế nào cũng cho là đủ rồi, không có chí mạnh bạo để tiến  tới. Cái tính này của dân tộc ta đã cổ lắm rồi, đã khiến cho ta là một giống người đẻ trước, mà bây giờ phải nhục nhã mấy bọn người sinh sau, tưởng là nay sực tỉnh rồi, nhưng xem chừng vẫn còn nồng nàn cố chấp lắm. Thật thế, trải xem các dân – đảng ở nước mình ngày nay, chỉ trừ ra có hạng làm quan, thì muốn to muốn giầu, tham – lam không biết đâu là cùng; hạng cho vay nợ lãi, và bọn đi xu phụ để cầu lấy hư danh, thì cũng tham lam, không biết thế nào là chán, còn thì hình như đều giữ cái tính tự túc cả: đi học cốt lấy được cái văn bằng, làm nên quan Phán quan Tham, thế là đủ; làm ruộng chỉ cốt sao cho thóc mùa này ăn được đến mùa sau, thế là đủ; công nghệ gì, thường chỉ cốt đẽo gọt chắp nối thế nào cho thành hình, miễn sao bán được thì thôi, thế là đủ; buôn bán thì ngồi chỗ nào nguyên chỗ ấy, chờ mạnh  - vận để kiếm lời, thế là đủ; thành ra không ai có chí tiến thủ mạnh bạo một tí nào, trách nào chẳng làm nô lệ mãi được? Bọn cùng dân mình, trúng phải cái bệnh này sâu lắm. Họ tự nghĩ rằng: người ta sinh ra, ai cũng có số phận an bài, sang hèn giầu nghèo, ấy là tự giời định, không thể cưỡng được. Nhân thế mà làm việc gì cũng vậy, chỉ đo ngang với cía dục vọng tầm thường của mình là thôi, cho thế là đủ, hơn nữa cũng không làm. Giá lấy nghĩa “tri - túc” của cổ nhân mà nói, thì như thế là hợp lắm, song ở đời này không thể được. Đời này ai cũng phải mạnh bạo mà tiến lên, cái chỗ hay dở hơn thua, bao giờ cũng phải quá cái tầm sức thường của người ta mới là định được.

Bọn nhân công mình, làm công việc gì mà hay bỏ dở, là tại như tính tự túc, mà xét ra cái tính tự túc ấy sinh ra cũng có phần bởi tại nông nỗi xa nhà, vì trong óc của họ, chỉ có tư tưởng gia đình mà thôi, chớ không có tư tưởng xã hội, chẳng may vì miếng cơm manh áo, mà phải đem thân đi làm xa, khi mê khi tỉnh, lúc nào cũng nghĩ đến nhà, hễ đã thấy ấm no đôi chút rồi, thế nào cũng lo đến sự trở về chốn cũ, dẫu miếng ngon miếng bở đến đâu, cũng khó làm cái bả mà lưu họ lại được nữa. Ấy, gia đình đối với họ là sự sống, là cái thú có một của họ như thế, nếu hay những người muốn dùng người ta, chỉ muốn người ta lăn lưng vào làm việc cho mình, mà không muốn cho người ta có sự sống ấy, có cái thú ấy, lại trách người ta hay “nhớ nhà” như thế chẳng là ích kỷ lắm sao?

Nhưng cách di cả gia đình đi thế nào, cho tiện? Chắc hẳn di dân lên mạn ngược hay là vào Nam kỳ cũng vậy, đi một người nào đi, mà muốn đi cả gia đình người ấy đi ngay thì không được. Tất phải từ từ mới xong. Hoặc người đi ấy là người mộ, thì việc đem vợ con họ vào, là phận sự ông chủ mộ phải lo thay, xuất tiền phí tổn ra cho họ trước, rồi sẽ trừ lương sau, thế tưởng cũng là tiện lắm. Hoặc người ấy là Chính phủ di đi, dùng để khai thác một chỗ đất nào, thì trước hết hãy nên đem một mình họ vào, chỉ định cho họ chỗ đất ấy đã, để cho họ gây dựng thành cơ ngũ rồi, bấy giờ tự họ về đón gia đình mình đi. Ta đã từng thấy ở trên mạn ngược Bắc kỳ ta, như ở Yên Bái, Phú Thọ, Chợ Bờ… mấy nhà thực dân Tây Nam, thứ nhất là mấy vị linh mục, dùng cách ấy, đã có kết quả hay: nhiều chỗ trước là cỏ rậm đất hoang, bây giờ đã có làng xóm lập lên, ruộng vườn khai phá, trông thật có vẻ sinh tụ sầm uất lắm. Việc di dân vào Nam kỳ, xưa nay chưa hề thấy Chính phủ chú ý đến hoặc như có làm, cũng chẳng thấy thành công, ấy chính là thất sách ở chỗ không nghĩ gì đến nhà của người dân đi cả. Nay không cứ là nhà điền chủ, nghiệp chủ, công nghệ … muốn mộ người ngoài này vào làm việc cho mình, tưởng không quên sự “di cả gia đình” đi, là việc cốt yếu, tuy có khó nhọc phiền phức đôi chút, nhưng thật có quan hệ đến sự lợi hại của công việc mình.

* * *

Người ta lại còn trách nhân công mình tầm thường và biếng nhác, có mặt người trông côi, thì mới cặm cụi làm, xểnh ra là ngồi khề khà hút thuốc và nói chuyện nhảm với nhau ngay; việc đáng làm một công lại kéo dài ra đến 5,7 công…

Có thật thế không? Không, đến nỗi đâu mà mang lấy lời trách ấy được, có phải chăng nữa là ở trong cũng có một cớ. Xem những khi bên Thượng quốc (tôn nước Đại - Pháp) có việc chiến tranh, mà con nhà Việt Nam ứng mộ đến mười mấy vạn người, sang làm lính thợ bên Pháp, đã từng được tiếng khen là đảm đang, chăm chỉ lắm; xem những xưởng máy nọ máy kia ở đây, bọn cu li đi sớm về khuya, cơm nắm nước bầu, suốt ngày vất vả; xem những công nghệ chế tạo của ta, càng ngày càng mở mang, chẳng nhờ nhân công ta, thì lấy gì mà làm, như thế thì quyết không phải là tự nhân công ta dở đâu, mà thật là bởi ở một cớ. Là cớ tiền lương không ra gì.

Ôi! Viết đến đây, tác giả để mình phảng phất vào quãng sáng mờ, hay vào lúc tối mịt, trông thấy bọn thợ lũ năm lũ ba, đầu đội nón rách, mình mặc áo xơ, tuy ngoài miệng nói nói cười cười, nhưng trong bụng nghĩ những: “thuế má làm sao?...ăn mặc làm sao?... vợ con làm sao?...đóng góp làm sao?...” rồi chép miệng thở dài, ngang tay gạt lệ, nhắm mắt bước chân vào cửa xưởng làm, … hay là ở xưởng ra về … thì không ngờ tức mình quát lên rằng: “Chao ôi! Rõ cái đời của bọn lao động mình mạt quá” Sao? Nghĩa là tại ít lương.

Bọn lao động nước mình khổ thật: làm lụng vất vả cả ngày, khuân tiền gánh bạc chồng ngập từ chân lên đầu một ông có của thuê mình, mà tự mình thật là chỉ uống nước mắt ăn mồ hôi, chẳng được một cái gì cả. Các nước có nhân công, không có nước nào lại rẻ như ở nước mình quá thể, bảo là công việc của người ta nặng, đời sinh hoạt của người ta cao, nhưng thiết tưởng ở mình ngày nay có kém gì: từ cơm áo nhà cửa thuốc men thuế má, so với trước, cái gì cũng đắt gấp lên 10 lần, thế mà bọn lao động mình, đem đồng tiền kiếm được, và sức mình bỏ ra mà so sánh với nhau, thì thấy còn chênh lệch nhau quá, nghĩa là sức nhiều mà công ít, không đủ sinh hoạt vậy. Đó, xem lại những bọn gọi là thuyền thợ và cu li ở trong các công xưởng nước mình, làm mỗi ngày kiếm được bao nhiêu? Cứ kể lương của họ, chỉ có từ 3$00 cho tới 12$00 mỗi tháng, thế là mỗi ngày làm chỉ được từ 1 hào cho đến 4 hào công mà thôi, nay ta cứ lấy hơn bù kém, bỏ già mỗi ngày mỗi người được 3 hào công, mỗi tháng 9$00, nếu kể ngày nghỉ ngày phạt đi, thì lại không được như thế, thật ra, ngày phải nghỉ và ngày bị phạt lại là thường lắm. Mấy ông chủ thuê, nghĩ thí cho họ mỗi tháng được chừng ấy, đã lấy làm to lắm rồi đó, nhưng có phải số tiền họ kiếm  bằng mồ hôi nước mắt ấy, họ ăn được một mình đâu, phần nào là nuôi vợ con, phần nào là may quần áo, phần nào là thuê nhà cửa, phần nào là đóng thuế má, trăm thứ tiêu pha, đều trông vào một khoản tiền cỏn con ấy; khoản tiền cỏn con ấy, nếu họ được chi dụng lấy cho thân mình cũng khéo bót chét lắm mới đủ, còn phải cung cấp cho người nữa, thế thì liệu có đủ không? Thành thế, ta thấy nhiều người ăn cơm muối, uống nước lã để làm, trông tội nghiệp quá. Trong khi mọi sự ở trên đời tiến lên mãi: thuế má nặng, nhà cửa cao, đồ ăn đắt,… mà sức lực của họ, vẫn bị mua một cái giá rẻ rúng như thế kia, thì công lý ở đâu thế!

Mấy ông “”cố chủ” (Tiếng Trung Quốc, là người có tiền thuê người làm) ở mình chi có việc tham lam và tàn nhẫn, đang tay cướp cả nhân quyền của người ta, nỡ lòng bỏ cả nghĩa nhân loại, giữa lúc trong nước thừa thãi nhân công, dùng người chỉ chực mất ít tiền mà được công việc nhiều, lương mấy năm chẳng tăng, sai một tí là phạt, mình thì dầy lên tiền, xéo lên bạc, vơ vét mãi vào, mà chẳng tưởng chi đến lũ lem đầu tối mặt kia chúng nó đã có công khai quật những của ấy lên cho mình, lại hình như có ý dọa rằng: “lương đấy! chúng mày đã làm việc cho ông, thì phải quên cả vợ con cùng tính mệnh đi mà làm, hễ nghỉ, ông phạt, sai, ông đánh, hễ vòi vĩnh lương bổng nhiều ít, thì ông … bỏ tù!” Bọn thợ cắm đầu làm trâu ngựa cho ông mãi, cày một thửa ruộng rộng hay hẹp, chạy một quãng đường xa hay gần, về cũng chỉ gặm cỏ mà thôi.

Mấy ông cố chủ, hầu như chủ bắt nạt người ta mà dùng, không biết lượng tình xét việc cho ai cả, một ông như thế, mười ông như thế, trăm nghìn ông đều như thế, thành ra cứ lấy làm tỉ lệ với nhau, cái tỉ lệ ấy chỉ là tiền công ít mà việc làm nhiều. Có pháp luật nào định rằng: tiền công ít mà làm việc nhiều không? Chắc không! Nhưng mà những chỗ đó thì có khi pháp luật không biết đến, một là tại ông cố chủ tìm cách bưng bịt, hai là tại bọn lao động không biết thân mình, nhân thế mà bọn tư bản mới cưỡi được lên đầu bọn lao động mà đếm tiền vậy. Bọn này, bao giờ người cũng đông, sức cũng mạnh, bị đè nén mãi, chưa chắc đã không có một ngày bật lên, theo luồng với cái phong trào công đảng ở thế giới mà thành ra quá khích gì đó, thì cái họa ấy ở nước ta càng thảm liệt vô cùng, lưu huyết vô cùng. Không may sau này mà ta vướng phải cái vạ ấy, thì là tội ở mấy ông cố chủ, chớ không còn ai vào đó nữa.

Thế thì bây giờ làm nghiêng đổ mấy ông tư bản để bênh vực bọn thợ hay sao? Chớ có làm như thế, chỉ nên tính với các ông ấy về khoản tiền lương mà thôi.

Đời bây giờ, công việc nặng, ăn tiêu đắt đỏ thế nào, ai cũng biết rồi, vậy thì không kể là công việc gì, không kể làm công việc ấy là đàn bà hay đàn ông, quyết không thể nhận cho mấy ông cố chủ thuê người ta lương tháng (không có cơm nuôi và quần áo) 3,4$, hay là lương mỗi ngày 1 hào hay hào rưỡi được, ít lắm nữa cũng phải cho người ta đủ ăn khỏi rét và không thiếu thốn lắm trong mọi sự cần dùng, rồi từ đó tùy việc làm nặng hay nhẹ, chỗ làm xa hay gần, mà định lương bổng cho xứng đáng với tài năng của người ta, chứ muốn thuê rẻ, mà muốn được việc, người ta chán nản vì ít tiền làm lụng trễ nải, lại đổ là người ta không giỏi làm việc, nghĩ đã phải hay chưa? Lương đã phải như vậy rồi, đến cách phạt cũng phải tìm cách gì khác hơn là cách phạt lương mới được, ai làm không có lúc sai, nay sai bị phạt, mai sai bị phạt, thường thấy có người một tháng phạt đến một phần ba, hay một nửa lương, thì lấy gì mà ăn; thứ nhất là những bọn phu mộ lên mạn ngược, hay vào trong Nam kỳ, mấy ông cố chủ giả công nhật cho họ một ngày 3 hay 4 hào, cứ ngày làm thì ăn, ngày nghỉ thì nhịn, mà chậm dạ một tiếng, hoặc đang cặm cụi làm mà ngửng đầu lên, đều bị phạt lương cả, cuối tháng có người chỉ còn dăm sáu đồng, như thế thì ức người ta quá.

Vì thế cho nên thiết nghĩ bây giờ đem phu đi xa – nói ngay là vào Nam kỳ thì cái lối phạt công nhật quyết phải bỏ đi, mà phải phát lương tháng mới được. Vì họ đi làm xa, phần nhiều là những chỗ độc nước, rức đầu chóng mặt, phải nghỉ là sự thường, nếu nghỉ ngày nào mà cứ bị cúp lương đi ngày ấy mãi, chẳng hóa ra không may mà họ bị thiệt thòi lắm ư?

Còn có một điều này hơi khó, là định lương cao hạ thì lấy gì làm chuẩn tắc? Đã hay rằng: tùy ở công việc và sức thợ hay dở hơn kém mà định; nhưng trong bọn tư bản, phần nhiều người vô lương tâm, công việc mình lợi hàng nghìn hàng vạn mà không chịu trả lương thợ cao, hay không năng tăng lương lên cho thợ thì sao? Giá như những bọn lao động ở nước người ta, đối ngoài thì đã có hội “Quốc tế lao động”, ở trong thì có Chính phủ bênh vực cho, mà chính bọn tư bản của họ, cũng không có cái thói “chịch thượng” như ở mình, cho nên bọn lao động của họ, tuy thường có đình công lôi thôi, song vẫn sung sướng và có thể diện lắm, nước mình tưởng hay nên làm cách này, là phải có một sở Lao động, kiểm xát xem các ông cố chủ trả lương thợ ra làm sao, buộc họ tùy số nhập khoản của mình mà phát hoặc tăng lương thợ lên cho khá, đại khái như thế cũng trừ bớt được cái lòng tham của họ đi, ấy tức là giải quyết được vấn đề tiền lương vậy.

Bấy giờ lương bổng khá, tất họ yên ủi mà làm việc, xem họ làm việc có giỏi hay không?

***

Nước mình có nhiều thung lũng ở giữa mà rừng núi bao chung quanh, nên khí giời không được trong sạch, lại thêm lá rụng cây khô, nước chẳng được trong sạch, đồng không cỏ rậm, ruồi muỗi và trùng độc sinh ra nhiều, những người đến ở những chỗ ấy, nếu không biết phép vệ sinh cho khéo, thì chẳng chết là may, tránh sao cho khỏi ốm đau được. Đem những nhân công đến đó, ví như không có cách gì giữ gìn sinh mệnh cho họ, để họ nay đau mai ốm vàng vọt cả người, thì ai chả sợ, chứ tự nhân công mình có sợ gì nước độc đâu! Nếu sợ sao mỗi lần mộ người, vẫn thấy họ ứng mộ mà đi đông thế? Vì đó, làm sao bênh vực nhân quyền và sinh mệnh cho họ, là một việc rất cần vậy.

Tình hình sinh hoạt của bọn nhân công ở mạn ngược ngoài ta ra thế nào, tác giả chưa được rõ, chứ cái tình hình sinh hoạt của nhân công ta vào Nam kỳ, tác giả đã thấy đã nghe, thì thật có nhiều chỗ đáng phàn nàn thương xót cho họ lắm, vì nhân quyền và sinh mệnh của họ bị coi rẻ rúng quá sức. Đối về việc mộ phu, Chính phủ thật đã có đặt thể lệ và điều luật rất chu đáo nghiêm ngặt lắm, nào là nhà cửa cho phu ở phải sạch sẽ cao ráo, mà phải lợp ngói, nào là giờ làm ăn phải cho có chừng độ, nào là khi ốm đau thì phu phải được nghỉ và thuốc men tử tế… lại thường phái ông Giám đốc đi khám xét luôn, cái nguyên lý thật là hay lắm, nhưng thử hỏi các ông chủ mướn phu, có tuân theo đúng như thể lệ của Chính phủ đã định ra không? Vả lại khi mộ phu đi, mấy ông cố chủ cũng có bắt phu ký tờ giao kèo. Trong tờ giao kèo ấy cũng có đủ các khoản như trên kia, lại có nhiều khoản nữa, hễ khoản nào có quan hệ đến lợi của phu, thì hok chẳng cần gì lại khinh rẻ cả thể lệ của Chính phủ nữa. Cái cảnh tượng như thế, ta thấy ở phần nhiều vườn trông cao su trong Nam kỳ.

Trong Nam kỳ nhiều vườn trông cao su lắm, toàn là của người Pháp, mà to thứ nhất là vườn cao su Lộc ninh về tỉnh Thủ dầu một, dùng nhân công nhiều lắm, trong bốn phần ba là người Bắc; số này có đến vài ba nghìn người.

Ta nên biết rằng: vườn cao su nào cũng là ở chỗ rừng rú, rộng đến mấy vạn mẫu, khí hậu độc, đất hay ẩm thấp, nếu những người làm, đi sớm về khuya, làm lụng vất vả, mà lại chỗ ở miếng ăn, không được cẩn thận, thì mắc bệnh ngay.

Tác giả có biết nhiều người làm ở trong một vài vườn cao su kia, hỏi tình hình thì họ thuật truyện lại rằng:

Phần nhiều họ chẳng coi tờ giao kèo với cu li, và thể lệ của Chính phủ ra quái gì cả, cứ là làm liều đấy thôi. Nhà cửa của cu li ở, ít chỗ được bằng ngói và lát sàn, phần nhiều toàn là nhà tranh lụp sụp ẩm thấp quá. Ăn tì toàn thị là cá khô và mắm muối, hàng tuần lễ mới được miếng thịt. Làm thì thường phải đi từ lảng sáng, rồi tối mịt mới về, trưa ăn cơm ở ngoài vườn, vì vườn rộng, đi về xa lắm. Lương thì ấn định là mỗi tên cu li 12$00, nhưng nghỉ phải trừ lương, sai đâu phạt đó là sự thường, có tháng có người chỉ còn lĩnh được năm sáu đồng bạc. Vườn cao su khí hậu độc, không mấy người tròn tháng không cảm không sốt một vài ngày, thế nghĩa là không mấy người trọn tháng mà có đủ lương; lại thêm bọn cai rất tàn ác, tâng công cho chủ, phạt lương và đánh cu li đến ốm liệt hay chết là thường. Trong vườn có đủ các cơ quan phòng bệnh, nghĩa là có đủ thày thuốc, có nhà thường, tuy vậy đến cách trông nom thì cẩu thả lắm, cu li ốm được nằm nhà thương uống thuốc, nhưng hàng mấy ngày chẳng thấy thày thuốc đến thăm bệnh một lần… Lắm người cu li đau ốm, may ra còn được bắt làm những việc nhẹ trong các phòng giấy còn khá, có người ốm cũng phải đi ra vườn làm, đến nỗi phải gục dưới gốc cây mà chết. Có một lần, cũng có một người bị ốm mà phải đi làm, chiều về người ta điểm tên không thấy, mai ra thì thấy bị cáo ăn mất nửa người rồi… Thôi, tình cảnh khổ sở ấy, nói sao cho xiết, thành ra có nhiều cu li không kham được, liều mạng trốn đi, có bắt được mà bị tù hay bị đuổi cũng cam…

- Thế thì ông Giám đốc của Nhà nước đặt ra không mấy khi đi khám xét hay sao?

- Cũng có thỉnh thoảng, ông Giám đốc đến khám xét mà cự họ (đây là chỉ mấy ông chủ mướn cu li), nhưng thường thường họ bưng mắt cả ông Giám đốc. Khám nhà cửa thì họ đưa đến những khu có nhà cửa trên lợp ngói, dưới lát ván hẳn hoi; khám sổ sách thì họ giơ những sổ sách nào mà trong ít thấy con “0”, nghĩa là ngày ấy cu li ít bị phạt, khám sức khỏe của cu li thì họ đưa đến những chỗ cu li béo tốt không đau ốm gì…

- Thế ngộ có người cu li nào lỡ tay xẩy chân, cọp tha cáo bắt, nói tóm lại là người nào vì công việc làm mà thiệt mạng thì ông chủ có chu tuất gì cho không?

- Chết là thôi chứ còn ai chu tuất cho gì, dẫu có cũng chẳng ra gì cả, vì cái mạng người cu li, ai cho vào đâu!

Những người nói câu truyện đó, là người nói có thể tin được lăm. Như vậy thì nhân quyề và sinh mệnh của những người đem thân đi làm việc cho người ở nơi xa, không có cái gì bảo hiểm cho cả, chẳng cũng tội nghiệp lắm ư?

Nay nếu mở rộng cái phạm vi di dân vào Nam kỳ ra, thì chắc hẳn đám dân ứng mộ vào làm những việc này đông lắm, nếu không làm sao trừ được cái lối độc ác của mấy thầy cai, lòng tàn nhẫn của mấy ông chủ, thì thường dân nghe cái tiếng vào đó, vào đó đã đủ khiếp, còn ai thèm đi nữa, thế thì trong việc di dân có ngăn trở một phần lớn vậy. Bởi thế, nay nghĩ làm sao mà bênh vực nhân quyền và sinh mệnh cho họ là điều cần lắm. Trước hết tưởng nên xin Chính phủ nên cho người đi khám xét luôn luôn, - phải khám xét luôn luôn và cho rõ công bằng mới được – xem các ông chủ mộ đối với cu li có đúng như thể lệ và giấy giao kèo hay không? Nếu sai thì phạt rõ nặng, và nếu mỗi khi có người cu li nào chẳng may vì công việc làm mà thiệt mạng thì người chủ phải chu cấp cho vợ con anh em người ta tử tế, có thể đưa được xác người ta về xứ sở thì phải đưa, gọi là cách khuyến khích người sau, không thì còn ai muốn tận chức với ai nữa.

Sau là phải cho bọn thợ được tự do kết thành hội đảng với nhau, gọi là “hội lao động”, theo như bọn lao động ở các nước, để họ có lòng cố kết, tự phải bênh vực nhau trong mọi quyền lợi như giờ làm, tiền lương, khi nghỉ ngơi, lúc ăn uống …không để cho mấy ông chủ mộ bắt nạt được, miễn là họ làm hết phận sự và chẳng làm điều gì trái với pháp luật thì thôi. Đời nay, phải để cho cái giai cấp lao động này được hưởng chút quyền lợi làm người mới phải chứ, nếu họ kết đảng với nhau mà đã bảo ấy chúng nó làm quá khích! ấy chúng nó theo chủ nghĩa xã hội! sao được. Thợ sai với ai, thì nào bị phạt lương, bỏ tù, tạt tai, đánh chết, mà ai sai với thợ, chẳng ai biết đấy là đâu, có công lý nào thế?

Ấy, đại thể thì phải làm như vậy, nhưng tóm lại, tùy nơi, tùy thời, tùy từng công việc, phải tìm hết mọi cách khéo để bảo hộ nhân quyền và sinh mệnh của họ, để cho trông thấy chứng cớ chắc chắn, chứ thật ra những tờ giao kèo, cũng chẳng đủ bảo lĩnh gì!

* * *

Một bên ông chủ, một bên thợ thuyền, vì đôi bên cùng sợ lừa lật lẫn nhau, vậy muốn cho được chắc chắn cả nên mới có tờ giao kèo, có giao kèo thế mà thấy đôi bên trái ước với nhau luôn. Có khi, tức như mấy cái tình hình ở trên, thế là ông chủ trái lời giao kèo với thợ; có khi thấy thợ trái lời giao kèo với chủ, thí dụ người ta đã mộ mình làm việc cho ta rồi, hoặc đang làm bỏ dở mà về, hoặc thấy chỗ khác nhiều lương hơn là bỏ đi, rồi đôi bên sinh sự lôi thôi với nhau, đều bị thiệt thòi cả. Bọn nhân công mình thật cũng thường có cái tính “bỏ dở việc làm, chỗ nào cao công là bước” thật, mặc kệ ông chủ, mặc kệ pháp luật; lại thường khi đang làm tử tế, cậy mình được việc, thì gây sự lôi thôi, không lẽ mỗi lúc lôi họ ra mà kiện; nông nỗi như thế, cả ông cố chủ, các nhà công nghệ Tây Nam vẫn kêu ca mãi, kêu ca rằng: luật pháp không đủ giúp việc thi hành những tờ giao kèo ấy. Nhưng cứ lấy tình thế ở ta mà xem, thì hình như ông chủ hay trái ước hơn là thợ, thợ có trái ước chăng nữa, thường bởi tự ông chủ cậy quyền, cậy thế trái ước trước, thợ không biết gõ cửa công lý đằng nào, bèn liều mạng mà trái theo vậy.

Nay muốn tờ giao kèo đều được cả đôi bên cũng phải tôn trọng, một mặt, là ông chủ phải có lương tâm, trọng nhân đạo đã đành, một mặt phải làm sao cho thợ hiểu tờ giao kèo là cái gì mới được. Đang lúc chúng bị đói rét, được người mộ đi làm việc có cơm ăn có áo mặc, thì chúng tưởng đến lúc no ấm rồi có khi bỏ người ta mà đi được như bỡn, nào biết đâu rằng có lỗi; phương chi tờ giao kèo viết bằng chữ tây, chữ nho, trong nói những khoản gì, chúng đã chẳng hiểu rồi, mà ngay bằng quốc ngữ đi nữa, chúng cũng bập bõm hiểu không hết, thế nên có liến thoắng đọc cho chúng nghe: khoản thế này…khoản thế này… rồi hỏi có bằng lòng không thì ký vào; giữa lúc “kiến bò nôn bụng, gió thổi lạnh mình”, thế nào mà chúng chẳng ký biết đâu giao kèo có lợi hại cho mình là thế nào. Không biết thành ra có khi chúng trái ước mà phải đền, phải tội, mình tự hại mình, nhưng chính vì cái “không biết” ấy mà ông chủ trái ước, có hại cho chúng nữa, chúng lại chẳng biết đâu mà kêu được.

Nói tóm lại, việc này khó lắm, ta không trách vọng ở thợ mấy, mà trách vọng ở ông chủ nhiều, nghĩa là ông chủ cứ đối đãi với họ cho hẳn hôi, chắc họ phải cảm mà hết lòng hết sức giúp việc cho mình, bấy giờ tờ giao kèo coi như miếng giấy lộn, hay là đốt đi cũng chẳng sao!