Thiên Hạ Kiêu Hùng

Chương 191: Nghe cảnh báo từ pháo đài




“Bao năm ải Ngọc với sông Vàng

Mỗi sáng roi vờn với kiếm cung”

Trích trong bài thơ Chinh Nhân Oán (Nỗi oán người lính thú) của Liễu Trung Dung.

Dịch cả bài thơ:

Bao năm ải Ngọc với sông Vàng

Mỗi sáng roi vờn với kiếm cung

Mộ biếc ba xuân đầy tuyết trắng

Hắc sơn muôn dặm uốn sông Hoàng.

Do Vương Hải Đà dịch

Dương Nguyên Khánh lại nhớ cách đây mấy tháng, hắn đã phòng thủ hơn năm năm ở biên thùy. Lúc này đã là tháng mười một, vào mùa rét đậm, gió Bắc gào thét, khắp nơi đóng băng, gió lạnh thổi thấu xương, nứt cả da thịt.

Trên sa mạc mênh mông không giới hạn, một đoàn lạc đà thồ đầy hàng hóa chậm rãi đi về phía bắc dọc theo sông Hoàng Hà đã bị đóng băng trông như một chiếc đai bằng ngọc.

Linh Châu chịu khí hậu giá lạnh từ phía bắc, gió lạnh như dao cắt khía vào tận xương tủy, người nào cũng mặc áo da thật dày, phụ nữ còn đội mũ có vành dài, che kín toàn thân, ngăn cát bụi và gió lạnh.

Tổng cộng đoàn lạc đà có hơn sáu trăm con, chở hàng ngàn gánh trà lá và các hàng hóa khác, đi cùng đoàn lạc đà ước chừng hơn ba mươi người, gần như đều là người Hồ ở Tây Vực. Đoàn lạc đà này cũng thường xuyên qua lại giữa Túc Đặc và Đại Tùy, do gặp phải trời đông giá rét mà dừng lại ở kinh thành, được Khang Ba Tư thuê.

Trong đoàn người ngoại trừ Dương Nguyên Khánh dẫn theo Nữu Nữu và Dương Nguy ra, Khang Ba Tư cũng đưa vợ con anh ta đi cùng. Vợ anh ta là người Túc Đặc, hơn ba mươi tuổi, không biết nói tiếng Hán. Con gái lớn của anh ta đã mười bốn tuổi, là một cô nương xinh đẹp có đôi mắt màu xanh lam, nói được sơ sơ vài câu tiếng Hán.

Con gái nhỏ mới sáu tuổi. Năm đó Khang Ba Tư nói với Dương Nguyên Khánh, con trai năm tuổi, con gái hai tuổi, trên thực tế anh ta phần nhiều là muốn giành được sự thông cảm của Dương Nguyên Khánh. Kỳ thật anh ta không có con trai, chỉ có hai con gái. Mỗi lần mọi người nhắc tới chuyện này để trêu ghẹo anh ta, Khang Ba Tư đều xấu hổ mà cười.

Khang Ba Tư đặt tên tiếng Hán cho con gái lớn là Khang Mạt, con gái nhỏ thì gọi là Khang Lỵ. Trên đường đi, quan hệ giữa Nữu Nữu và Khang Mạt vô cùng tốt, hai người xấp xỠtuổi với nhau, trên đường đi cũng có bạn.

Ngoại trừ vợ con của Khang Ba Tư còn có vài vị quan trẻ tuổi, đều là mới từ trường Quốc Tử Học ra làm quan nhỏ thấp phẩm, phần lớn là con cháu quan lại. Một người là người mới nhậm chức Huyện thừa ở thành Đại Lợi, tên là Đỗ Như Hối, người Đỗ Lăng - Kinh Triệu, mười lăm tuổi đã trở thành quan Lại bộ dự khuyết, vừa học ở Quốc Tử Học, vừa chờ đợi cơ hội ra làm quan. Lần này Dương Quảng lệnh cho Lại Bộ Thị Lang Cao Hiếu Cơ tuyển một người trẻ tuổi tài năng và tuấn kiệt đảm nhiệm chức Huyện thừa huyện Đại Lợi, phụ tá cho Dương Nguyên Khánh. Cao Hiếu Cơ liền lựa chọn Đỗ Như Hối, khen ngợi anh ta có tài trí, nhanh nhẹn, thực tế, quyết đoán.

Ngoại trừ Đỗ Như Hối ra, còn có ba vị quan trẻ tuổi, đều chỉ trên dưới hai mươi tuổi, bọn họ đảm nhiệm chức quan Giao Thị Giám. Bình thường các quan lại đều không muốn đến biên thùy nhậm chức, nơi đó điều kiện sinh sống gian khổ, lại phải rời xa người nhà, cũng chỉ có người trẻ tuổi ý chí lớn, có nhuệ khí mới tình nguyện đi tới biên thùy.

Trên đường tuy rằng lạnh giá gian khổ, nhưng mấy người trẻ tuổi lại hào hứng ngút trời, tràn đầy hy vọng về tiền đồ.

Trưa nay, đoàn người tới được thành phòng thủ, xa xa liền thấy một cột khói báo động bốc lên cao trên đỉnh pháo đài. Đây là một tòa pháo đài giữa Phong Châu và Linh Châu, đồng thời cũng là nơi để đốt lửa báo động, ước chừng cách khúc chuyển dòng của sông Hoàng Hà khoảng bốn mươi dặm, thuộc sự cai quản của quân đội Phong Châu.

Pháo đài chiếm một mẫuđất, gồm ba tầng, tầng một để nuôi ngựa, tầng hai để người ở, tầng ba là nơi đốt lửa báo động. Tổng cộng có hai mươi lính đóng giữ, do một vị chủ tướng phòng thủ thống lĩnh.

Đoàn người cách pháo đài còn một dặm, chủ tướng phòng thủ liền dẫn theo vài tên binh sĩ đi đón. Chủ tướng phòng thủ tên là Dã Ly Bạt Ca, là một người trong Đảng Hạng, anh ta từng là lính thân cận của Ngư Câu La, rất quen với Dương Nguyên Khánh.

Phi ngựa tiến lên, anh ta xoay người xuống ngựa, quỳ một gối xuống bái kiến:

- Ty chức Dã Ly Bạt Ca tham kiến Dương tướng quân!

Dương Nguyên Khánh xuống ngựa kéo anh ta đứng lên, vỗ vai anh ta cười nói:

- Dã Ly, mấy tháng không gặp nhau, lại kiếm thêm được bao nhiêu da, lông thú rồi?

Cuộc sống của lính phòng thủ rất gian khổ, bình thường đều đi săn thú ở các vùng phụ cận, da, lông thú săn bắn được bán cho thương nhân qua đường, đổi lấy rượu, đồ nhắm và một ít vật dụng hàng ngày.

Dã Ly Bạt Ca thở dài với vẻ chua xót:

- Đừng nhắc đến nữa, cả mùa thu đều không đi ra ngoài, chẳng thu hoạch được gì cả.

Dương Nguyên Khánh ngẩn ra:

- Vì sao?

- Đợi lát nữa sẽ nói cho ngài.

Dã Ly Bạt Ca nhìn thoáng qua đoàn lạc đà, cười nói:

- Có gì đó cho chúng tôi hay không?

- Đều là lá trà, khi đi sẽ để lại cho ngươi hai gánh.

Dương Nguyên Khánh quay đầu lại ra hiệu với mọi người nói:

- Mọi người đến pháo đài nghỉ ngơi một canh giờ, uống một chút canh nóng!

Mọi người lặn lội cả chặng được, đều vô cùng mỏi mệt, nghe thấy tiếng của Dương Nguyên Khánh, mọi người đều tăng tốc, đi nhanh về phía pháo đài.

Nhóm lính trấn giữ đã dựng cho bọn họ vài căn lều, đốt phân trâu xong xuôi, đưa vào trong lều cho bọn họ sưởi ấm. Dã Ly Bạt Ca tuy rằng tướng mạo thô lỗ, nhưng lại vô cùng chu đáo. Anh ta nghe trinh sát tuần tra nói trong đoàn người của Dương Nguyên Khánh có cả người nhà là phụ nữ, liền dựng riêng cho các nàng một căn lều bằng lông cừu dày, cũng không dùng phân trâu, mà dùng than củi do chính mình làm ra để sưởi ấm cho các nàng.

Mọi người tới được bên cạnh pháo đài, đều lập tức xuống khỏi ngựa và lạc đà, ra sức dậm chân xoa tay, tay chân bọn họ đều sắp lạnh cóng. Nhóm phu lạc đà thì bố trí lạc đà cho ổn thỏa, người sau nối đuôi người trước tiến vào trong lều sưởi ấm. Một gã binh sĩ dẫn mấy người nhà là phụ nữ vào lều lông cừu, lại mang đến không ít thảm lông.

- Dương tướng quân!

Đỗ Như Hối mới nhậm chức Huyện thừa đi lên trước chắp tay thi lễ hỏi:

- Đêm nay chúng ta ở trong này qua đêm sao?

Đỗ Như Hối có khuôn mặt đen gầy, dáng người trung bình, tuy rằng mới hai mươi tuổi, lại có vẻ già trước tuổi, nhìn qua giống như hơn ba mươi tuổi. Nhưng tinh thần anh ta khá tốt, dọc đường đi chuyện trò vui vẻ, đến nơi nào cũng đều có thể nói ra không ít điển cố, có vẻ rất uyên bác.

Anh ta tuy là lần đầu tiên làm Huyện thừa, nhưng từ khi mười sáu tuổi anh ta đã thường xuyên đến các huyện nha ở kinh thành và vùng lân cận giúp đỡ, cũng tích lũy được không ít kinh nghiệm quản lý. Lần này đảm nhiệm Huyện thừa huyện Đại Lợi, anh ta cũng tràn đầy khát khao, muốn mở rộng tầm mắt một phen.

Dương Nguyên Khánh kiêm nhiệm Huyện lệnh, mà Đỗ Như Hối là Huyện thừa. Bình thường ở huyện, Huyện lệnh và Huyện thừa có quan hệ rất chặt chẽ, nhưng Dương Nguyên Khánh dù sao cũng là quân nhân, không phải là quan văn, giữa hắn và Đỗ Như Hối còn thiếu một chút tiếng nói chung, có vẻ hơi xa cách, không được ăn ý như vậy. Dọc đường đi hai người cũng không nói chuyện nhiều.

Dương Nguyên Khánh cũng hiểu được điểm này, đợi sau những bận rộn khi mới nhậm chức, tự nhiên sẽ dần dần chuyển biến tốt đẹp. Tuy nhiên hắn cũng rất tôn trọng vị cấp dưới trẻ tuổi này, hắn lắc đầu giải thích nói:

- Mấy ngày tiếp theo có thể sẽ có bão tuyết, chúng ta phải mau chóng đi tới thành Đại Lợi, chỉ nghỉ ngơi một canh giờ liền đi luôn.

Hắn liếc mắt nhìn tay Đỗ Như Hối, ngón tay sưng đỏ, lại còn bị nứt da, liền hỏi:

- Huyện thừa không có cao bôi chống nứt da sao?

Đỗ Như Hối cười khổ một tiếng, lắc đầu:

- Trước khi đi tôi còn mua riêng một ít, nhưng hình như không có tác dụng.

Dương Nguyên Khánh lập tức quay đầu lại vẫy tay về phía một tên lính trấn giữ, tên lính tiến lên thi lễ:

- Tướng quân có việc gì ạ?

- Đem một hộp cao chống rét của các ngươi cho ta.

Binh sĩ chạy vào pháo đài, một lát sau, lấy đến một hộp gỗ tròn to bằng lòng bàn tay, đưa cho Dương Nguyên Khánh.

Dương Nguyên Khánh mở hộp ra, bên trong đầy cao màu đen, hắn đưa cho Đỗ Như Hối cười nói:

- Đây là cao do dân bản xứ làm thủ công, tuy rằng thô ráp, nhưng dùng rất hữu hiệu, Huyện thừa thử dùng xem.

Đỗ Như Hối nhận hộp gỗ và ngửi, trên mặt lộ ra nụ cười hiểu ý:

- Có xạ hương, là thứ tốt!

Anh ta chắp tay cười nói:

- Đa tạ tướng quân, tôi về lều trước, khi xuất phát xin gọi tôi một tiếng.

Đỗ Như Hối xoay người đi vào trong lều, Dương Nguyên Khánh nhìn bóng dáng gầy gò của anh ta, bỗng nhiên nghĩ tới người còn lại, Phòng Huyền Linh, không biết người này đang ở đâu?

....

Không bao lâu, mùi canh thịt khô tràn ngập toàn bộ doanh trại. Dã Ly Bạt Ca dẫn Dương Nguyên Khánh lên tầng ba của pháo đài, trên tầng này có đốt lửa, tổng cộng có ba nồi nấu, là số cột khói tỏa báo động. Bình thường không có chuyện gì, chỉ đốt một cột khói, nếu quân địch đột kích quy mô nhỏ, đốt hai cột khói, nếu đội quân địch lớn đột kích, thì đốt ba cột khói.

Nơi này địa thế khá cao, từ xa nhìn lại, cách đó không xa là ánh sáng màu trắng của sông Hoàng Hà đã đóng băng rắn chắc. Hướng tây là sa mạc Ô Lan Bố Hòa mênh mông vô bờ bến, mà hướng tây bắc là một dãy núi đen nhánh, nơi đó là một nhánh núi Âm Sơn. Đoạn đầu của Lang Sơn, từ Lang Sơn đến Âm Sơn, giống hệt một con rồng lớn nằm ngang ở giữa đất trời, kéo dài mấy ngàn dặm.

- Vì sao cả mùa thu đều không ra ngoài săn bắn?

Dương Nguyên Khánh vẫn luôn nghĩ ngợi về nguyên nhân này,

- Có phải có quân địch xuất hiện hay không?

Dã Ly Bạt Ca gật đầu:

- Là quân của Tiết Diên Đà, tuy nhiên không phải đội kỵ binh lớn, thường xuyên có đội kỵ binh nhỏ đến quấy rầy cướp bóc, làm cho chúng tôi cả mùa thu không dám đi săn.

- Người của Tiết Diên Đà sao?

Dương Nguyên Khánh rất quen với bộ lạc Thiết Lặc này. Trong trận chiến ở hồ Cáp Lợi, hắn đánh tan hơn hai mươi nghìn kỵ binh Tiết Diên Đà. Nhóm thổ phỉ thảo nguyên này không ngờ âm hồn không tiêu tan, chạy đến Phong Châu quấy rầy.

- Hôm nay khí hậu rét một cách lạ thường, bên phía Kim Sơn tháng chín đã có tuyết rơi rất nhiều, Tiết Diên Đà gặp tai ương lớn, bọn chúng bắt đầu đánh cướp chung quanh.

Dã Ly Bạt Ca lo lắng nhìn đội lạc đà dưới pháo đài,

- Tướng quân, ngài phải chú ý, ngài mang theo nhiều hàng hóa như vậy, nếu bị người Tiết Diên Đà dòm ngó thì sẽ gặp phiền toái.

Dương Nguyên Khánh trầm tư không nói. Hắn thật không ngờ người của Tiết Diên Đà lại có thể vượt qua Âm Sơn đến địa giới Phong Châu gây rối. Bình thường một đội quân địch nhỏ trên thảo nguyên thường có khoảng một trăm hoặc hai trăm người, cho dù là gặp phải loại nào, hắn đều bị tổn thất. Sớm biết như vậy khi hắn ở Linh Châu đã yêu cầu có một đội quân hộ vệ.

Nhưng hiện tại đã cách xa Linh Châu bảy tám trăm dặm, quá xa xôi. Sau một lúc trầm tư thật lâu, Dương Nguyên Khánh liền nói với Dã Ly Bạt Ca:

- Như vậy đi! Ngươi cử mười tên thuộc hạ cho ta.

- Mười người đủ sao? Tôi có thể cung cấp cho ngài mười lăm người.

Dương Nguyên Khánh lắc đầu:

- Ngươi chỉ chừa lại năm người rất nguy hiểm, ở đài đốt lửa Lặc Thạch và Hoành Hà phía trước còn có mười người, ta có thể lấy thêm năm người. Ta dẫn mười lăm người là đủ để ứng đối một trăm tên địch.

- Như vậy đi! Tôi sẽ phái một tên thuộc hạ tới huyện Vĩnh Phong cầu cứu, bảo quân đội bên đó đuổi tới tiếp ứng cho tướng quân.

Huyện Vĩnh Phong là huyện lớn thứ hai của Phong Châu, có gần hai nghìn quân đóng ở đó, cách nơi này hơn bốn trăm dặm, là nơi có quân đội gần nhất.

Dương Nguyên Khánh gật đầu, như vậy cũng là một cách:

- Được rồi! Ngươi lập tức phái thuộc hạ đi báo tin, ta tiếp tục gấp rút lên đường.

...

Một canh giờ sau, đoàn người tiếp tục khởi hành đi về phía bắc, trong đoàn người lại có thêm mười kỵ binh. Đi về phía bắc được hai mươi dặm, đến đài đốt lửa Lặc Thạch, nơi này có năm người đốt lửa làm hiệu, Dương Nguyên Khánh lại lấy ba người. Không lâu sau đoàn người liền tới nơi sông Hoàng Hà phân nhánh.

Bắt đầu từ nơi này, sông Hoàng Hà chia làm hai nhánh, một nhánh tiếp tục chảy về phía bắc, tạo thành hình cung chảy về phía đông, còn một nhánh khác thì ngoặt chín mươi độ về hướng đông. Hai nhánh sông Hoàng Hà đều chảy riêng rẽ mấy trăm dặm sau đó lại lần nữa hợp lại, ở giữa chúng liền hình thành bình nguyên Hà Sáo màu mỡ trải dài ngàn dặm.

Đoàn lạc đà đứng ở cửa ngõ nơi sông Hoàng Hà phân nhánh. Dương Nguyên Khánh ngồi ở trên ngựa, nhìn về phía tây thật lâu, mặt sông băng như một miếng ngọc lớn, kéo dài về phía xa. Chiều xuống, lóe ra ánh sáng như sao chổi, làm người khác cảm thấy đúng là thật tráng lệ.

Nữu Nữu vô cùng thận trọng, nàng phát hiện trong đoàn người có thêm hơn mười binh sĩ, trong lòng liền có chút lo lắng, chậm rãi giục ngựa tiến lên, kéo tấm mạng che mặt và hỏi:

- Nguyên Khánh, có nguy hiểm sao???

Dương Nguyên Khánh quay đầu lại nhìn nàng, gian nan bôn ba đã một tháng, nàng rõ ràng gầy hẳn đi, mặt có vẻ hơi tiều tụy. Nàng là người phương nam, chưa bao giờ trải qua cái lạnh giá rét như vậy, khí hậu bão cát khiến nàng khó thích ứng.

Dương Nguyên Khánh mỉm cười an ủi nàng:

- Trên thảo nguyên, luôn có nguy hiểm, mùa đông mà gặp phải đàn sói dữ thì là chuyện rất nguy hiểm, tuy nhiên Đằng Cách Lý sẽ phù hộ chúng ta.

- Đằng Cách Lý là cái gì?

- Đằng Cách Lý chính là vị thần của thảo nguyên.

Dương Nguyên Khánh lấy lại tinh thần, lớn tiếng cười nói với mọi người:

- Sắp về đến nhà rồi, mọi người qua sông nào!