Thiên Hạ Kiêu Hùng

Chương 604: Mật sứ của Vương Thế Sung




Lý Mật đem thư giao cho tên lính và nói:

-Hai phong thư này lập tức đưa cho Phòng Trưởng sử, để y dựa vào sự sắp xếp của ta ở trong thư mà làm.

Quân sĩ nhận thư và cất kỹ, thi lễ liền đi. Lý Mật khẽ thở phào nhẹ nhõm, giờ khắc này gã bị phân tâm, bỗng nhiên dục vọng đối với quận Hà Nội không thể vội vã như vậy được.

Nhưng quận Hà Nội vẫn phải đánh, đạt được chắc là không tệ, không chiếm được gã cũng không có gì nuối tiếc.



Dưới sự che chở của bóng tối, mười mấy chiếc xa thuyền bắt đầu lặng lẽ lên đường, tất cả đều là xa thuyền chở binh lính, tổng cộng hai ngàn binh lính, nhiệm vụ của bọn họ là lên đất liền cướp lấy bến tàu.

Trên bến tàu, binh lính phòng ngự đã giảm bớt tám phần, đại doanh quân Tùy đóng ở ngoài hai trăm bước, bọn lính phần lớn đã về doanh trại nghỉ ngơi, trên bến tàu chỉ có hai ngàn nỏ binh, bọn họ giữ nguyên áo mũ ngã vào bờ đê ngủ nghỉ, trên người bọc chăn lông, mười mấy tên binh trinh sát tuần tra thận trọng xem sự chuyển động của dòng sông. Nhưng đêm rất tối, đại đội thuyền đều ở ngoài mấy trăm bước, bọn họ nhìn không thấy, chỉ có gần trong khoảng một trăm bước, mới có thể bị binh lính theo dõi trên bờ phát hiện.

Bất thình linh trên mặt sông bắn tới một mũi hỏa tiễn, trong đêm phát sáng màu đỏ khác thường, đây là trinh sát tuần tra trên mặt sông của quân Tùy phát ra để cảnh báo, có thuyền quân địch ở gần bờ sông, vài tên lính trinh sát tuần tra nhảy dựng lên, đến đại doanh bẩm báo, “Keng! Keng! Keng!” trên mặt sông vang lên tiếng chuông cảnh báo, ở bên bờ sông nỏ binh đang ngủ đều từ trong mộng bừng tỉnh, giơ nỏ lên, cảnh giác chú ý quân địch xuất hiện giữa sông.

Từ Thế Tích đúng lúc rời doanh trại đi tuần tra, thấy binh lính báo tin, gã lập tức giục ngựa chạy tới bờ sông nhìn ra giữa sông. Lúc này, trên mặt sông đã xuất hiện bóng đen đen của những chiếc thuyền, hẳn là ở ngoài trăm bước, nhưng đang nhanh chóng hướng vào bờ.

-Hỏa thuyền xuất kích!

Từ Thế Tích ra lệnh một tiếng, hơn năm mươi hỏa thuyền đỗ ở bờ biển lập tức hướng lòng sông chạy tới, những thuyền này đều là thuyền nhỏ, chất đầy bụi rậm và dầu hỏa, mỗi thuyền do hai gã quỷ nước Hoàng Hà mặc áo da cá mập màu đen lái, theo gió bắc mạnh mẽ mà hướng về phía hơn mười chiếc thuyền lớn trước mặt.

Thuyền nhỏ tốc độ cực nhanh, chỉ chốc lát đã đến gần thuyền lớn của quân Ngõa Cương, trên thuyền lớn tướng sĩ hô to gọi nhỏ, bọn lính đều bắn tên, tiễn như mưa dày đặc xuống, mưu tính ngăn cản thuyền nhỏ, nhưng không hiệu quả, quỷ nước giơ tấm chắn nắm tay lái thuyền tiếp tục đi tới, khi khoảng cách với thuyền lớn ước chừng hơn mười bước, thuyền nhỏ nổ ầm bốc cháy lên, nhóm quỷ nước đều nhảy xuống, ở dưới nước kéo thuyền nhỏ cập sát vào thuyền lớn.

Lửa cháy rất mạnh, dầu hỏa trút xuống nước, ở trong nước tạo thành một biển lửa, vài tên quỷ nước chạy trốn không kịp, bị chết cháy ở trong nước. Trong khoảng khắc, hơn mười thuyền lớn đều sa vào trong biển lửa, thuyền lớn cũng bắt đầu bốc cháy, binh lính trên thuyền bị cháy không chịu nổi, đều nhảy xuống sông chạy thoát thân, nhưng biển lửa trên mặt nước lại khiến cho bọn hắn khó mà thoát khỏi, cuối cùng bỏ mạng.

Trên mặt nước tất cả đều biến thành biển lửa, khói dày đặc không dứt, khí thế hùng tráng, ngay cả chính quân Tùy bọn họ cũng không ý thức được dầu hỏa có thể cháy ở trên mặt nước, hơn mười ngàn binh lính tập trung ở bờ biển, chen lấn nhìn biển lửa trên mặt sông, thỉnh thoảng truyền đến từng đợt tiếng hoan hô, là vì một thuyền địch đã bị đốt. Từ Thế Tích mắt nhìn mặt nước, môi cắn chặt, tuy rằng lửa cháy dữ dội, nhưng gã không cách nào cười được, trong lòng tràn đầy sầu não.

Lý Mật đứng trên thuyền, trợn mắt há hốc mồm mà nhìn thuyền của mình ở trong biển lửa giãy dụa, đại hỏa thiêu đốt ngút trời, thê thảm dị thường, mười tám chiếc thuyền lớn chỉ có năm chiếc từ trong lửa chạy thoát trở về, còn lại mười ba chiếc thuyền lớn, hơn một ngàn binh lính đại đa số bị táng thân trong biển lửa, chỉ có một phần nhỏ được Từ Thế Tích phái trinh sát tuần tra cho thuyền ra cứu.

Lý Mật đưa mắt nhìn hồi lâu, bùi ngùi thở dài, sớm nghe nói hỏa lực của Dương Nguyên Khánh cực kỳ lợi hại, quả nhiên khiến người ta tuyệt vọng. Nếu như thuyền của gã bị đốt, chỉ sợ Lý Mật gã cũng sẽ mất mạng ở bờ phía bắc, gã đã nản lòng thoái chí, liền quay đầu lại lệnh:

-Truyền lệnh của ta, thuyền lớn quay đầu, trở về nơi bến sông Minh Tân.

Mấy trăm chiếc thuyền lớn bắt đầu lục tục quay đầu, trong bóng đêm mù mịt, một số thuyền chạy nhanh sang hướng bờ bên kia, còn một số ít thuyền thì chạy hướng về khối đất bồi Trung Than phía tây nam của sông Hoàng Hà, đó là khối đất bồi ở sông Hoàng Hà, có Hà Dương quan, vẫn bị thuỷ quân của Lý Mật chiếm đoạt, cũng coi đây là một căn cứ thuỷ quân Ngõa Cương ở Hoàng hà.

Trên bờ bắc, thuyền trinh sát tuần tra truyền tin đến, quân Ngõa Cương toàn bộ rút khỏi, các binh sĩ lập tức hoan hô. Từ Thế Tích sắc mặt cũng lộ ra vẻ tươi cười, Lý Mật rút lui, tạm thời loại bỏ mối đe dọa của quân Ngõa Cương, nhưng gã cũng biết, thật ra không phải toàn bộ thuyền đều rút lui, một số thuyền hẳn vẫn còn ở trên đảo Trung Than.

Lúc này, Ưng Dương lang tướng nói khẽ với Từ Thế Tích:

-Từ tướng quân, chúng ta phải đoạt lại Hà Dương quan, nếu không quận Hà Nội vẫn bị uy hiếp.

Từ Thế Tích gật đầu:

-Hiện tại không vội, chờ mùa đông Hoàng Hà đóng băng thì mới đánh hạ!

Gã lại quay đầu lại lệnh:

-Lính liên lạc lập tức đi báo cáo với tổng quản, đội quân Lý Mật đã bị buộc rút lui về phía nam.

Quân Đậu Kiến Đức ở phía tây huyện Hoạch Gia bị đại bại, buộc Đậu Kiến Đức không thể không rút ba mươi ngàn nhân mã đang bao vây Tân Hương, rút quân về huyện Cộng Thành, chỉnh đốn quân mã phía sau gã vẫn còn bốn mươi ngàn quân, ngang bằng với quân Tùy. Đậu Kiến Đức trong lòng có chút mâu thuẫn, y muốn vứt bỏ việc tranh đoạt quận Hà Nội, rút quân về Hà Bắc, nhưng hơn ba mươi ngàn quân tinh nhuệ bị tổn thất làm y nhói tim, khiến y không thể chấp nhận sự thật này, không thu hoạch được gì, cứ như vậy rút binh sao?

Y cũng muốn tăng thêm quân để đánh, nhưng y lại sợ bị tổn thất lớn hơn, điều này là tâm lý của con bạc, không cam tâm lỗ vốn, muốn lấy lại vốn, nhưng lại sợ thua nhiều hơn, tâm lý mâu thuẫn này khiến y tiến thoái lưỡng nan.

Đúng lúc này, Đậu Kiến Đức đã nhận được tin, một nhánh quân Tùy hai mươi ngàn người từ khe núi Thái Hành tiến vào quận Hà Nội, đang hối hả lao về phía huyện Tân Hương. Đậu Kiến Đức biết, đây là viện quân của quân Tùy, như vậy quân lực của quân Tùy đã gần sáu mươi ngàn người, lại đánh xuống, chỉ sợ không phải đơn giản là tranh đoạt quân Hà Nội, ngọn lửa chiến tranh sẽ cháy tới Hà Bắc.

Đậu Kiến Đức xem xét thời thế, cuối cùng quyết định rút lui khỏi quận Hà Nội, y tự tay viết cho Dương Nguyên Khánh một bức thư, lúc ban đêm đại quân rời huyện Cộng Thành, trở về Hà Bắc.

Chiến dịch tranh đoạt quận Hà Nội cuối cùng cũng chấm dứt bằng sự thất bại của Đậu Kiến Đức.

Doanh trại Dương Nguyên Khánh vẫn như cũ ở huyện Hoạch Gia. Tần Quỳnh đã dẫn hai vạn viện quân đến, mang cho hắn dược vật và quân y. Một hồi phục kích chiến, mặc dù hắn diệt hơn ba vạn địch, nhưng giết địch ba ngàn, tổn tám trăm, quân Đậu Kiến Đức ngoan cường phản kích khiến cho hắn cũng tổn thất hơn hai ngàn người, năm ngàn người bị trọng thương. Những người này đều là lão binh theo hắn nhiều năm, là căn cơ để hắn giành thiên hạ, khiến Dương Nguyên Khánh đau lòng vô cùng. Mấy ngày qua, hắn dành phần lớn thời gian thăm người bệnh trong quân doanh, an bài trợ cấp.

Doanh trướng thương binh là lều lớn, đỉnh lều ước chừng chiếm một mẫu đất, là trướng chăm ngựa lớn thu được từ Đột Quyết. Loại lều này thông gió tốt, rộng mở mà không cảm thấy áp lực, rất thích hợp làm doanh trướng thương binh. Trong đỉnh đầu đại trướng có thể nằm hơn một trăm tên thương binh.

Phần lớn thương binh bị trúng tên, cũng có không ít kỵ binh ác chiến bị trường mâu thương tổ còn có một ít là bị thương do bị ngã. Thời đại vũ khí lạnh, trên chiến trường binh lính bị giết trực tiếp không nhiều, tuyệt đại đa số là sau khi bị thương chữa trị không kịp thời mà chết.

Quân Tùy bỏ mình hơn hai ngàn người cũng như vậy, binh lính bị giết tại chỗ cũng chỉ có mấy trăm, còn lại đều do chữa trị không kịp mà tử vong. Có chết do mất máu nhiều, có chết do nhiễm trùng vết thương, đây là vấn đề lớn khiến quân đội đau đầu.

Dương Nguyên Khánh nghe y chính Liễu Hoằng bẩm báo, thở dài với các tướng phía sau nói:

-Chữa trị binh lính bị thương quả thực là một vấn đề lớn. Một chiến dịch đánh ít nhất hai ba canh giờ, lính sau khi bị thương phải nằm trên chiến trường hai ba canh giờ, gần như rất khó có người trụ được tới cuối. Nhất định phải nghĩ biện pháp giải quyết vấn đề khó khăn này.

Dương Nguyên Khánh vừa dứt lời, Tần Quỳnh liền tiếp lời cười nói:

-Vấn đề này Trương đại soái cũng từng cùng chúng ta thương lượng qua, thảo luận rất sôi nổi.

Hắn quay đầu lại hỏi La Sĩ Tín:

-Sĩ Tín, ngươi còn nhớ rõ sao?

La Sĩ Tín gật đầu nói:

-Ta nhớ lúc ấy Giả Nhuận Phủ đưa ra một biện pháp tốt, tổ chức ra đôi y binh cứu trợchuyên môn, không cần đánh giặc, chỉ chú ý khuân vác thương binh, dùng tốc độ nhanh nhất đem thương binh chở về đại doanh cứu trị. Lúc ấy tất cả mọi người rất tán thành.

Kỳ thật Dương Nguyên Khánh cũng nghĩ đến y hộ binh, và cứu trợ y binh này có cách làm khác nhau nhưng kết quả lại giống nhau đến kì diệu. Hắn lại truy vấn:

-Về sau đâu rồi, hiệu quả như thế nào đây?

La Sĩ Tín ánh mắt có chút ảm đạm, thấp giọng nói:

-Sau liền xảy ra trận chiến chùa Đại Hải, phương án này không kịp thực thi.

Dương Nguyên Khánh vỗ vỗ bờ vai của hắn, lại hướng mọi người nói:

-Đây là một biện pháp tốt, tất cả mọi người đều đã từng đánh giặc, suy nghĩ nhiều một ít biện pháp cứu trợ thiết thực hữu hiệu, tận lực giảm một ít huynh đệ bị chết, cũng là bớt một ít mẹ góa con côi.

Lúc này, Tần Quỳnh dẫn Giả Nhuận Phủ vào. Giả Nhuận Phủ cũng không phải là đại tướng chiến đấu anh dũng mà chủ quản quân nhu binh trong quân đội của Trương Tu Đà. Y là một tiểu địa chủ ở chân núi Thái Sơn thuộc quận Lỗ, bởi vì muội muội gả cho Tần Quỳnh mà quen biết Trương Tu Đà. Trương Tu Đà thấy y tính toán sổ sách rất khôn khéo, cũng hiểu một chút mưu lược, bèn mệnh y phụ trách hậu cần trong quân đội. Trước mắt y là Thương Tào Tham Quân Sự trong quân của Dương Nguyên Khánh, chủ quản lương thảo quân tư.

Giả Nhuận Phủ tiến lên thi lễ:

-Tham kiến tổng quản!

Dương Nguyên Khánh cười nói:

-Chúng ta đang nói về việc giảm bớt thương binh tử vong, nghe nói ngươi từng đề xuất qua với sư phụ ta về việc thành lập y binh cứu trợ chuyên môn, chúng ta đều cảm thấy không tồi. Ta muốn nghe ngươi nói thêm một lần về phương án đó.

Giả Nhuận Phủ suy nghĩ rồi nói:

-Chuyện này thật ra là ty chức nghe một lão quân y nói, ty chức từng mở một đại lý xe ở huyện Lịch Thành, chuyên thuê và mua bán xe bò xe ngựa. Lúc ấy có một cửa hiệu thuốc bắc đặt làm một chiếc xe ngựa đặc chế, dùng để chuyên chở người bệnh cần cấp cứu. Xe ngựa rất rộng, bên trong đóng ba cái giường, có thể đồng thời vận chuyển ba người bệnh, bên cạnh có thể có ngồi thêm được một thầy thuốc, trên đường cũng có thể cứu trị. Ty chức cảm thấy quân đội chúng ta cũng có thể làm loại xe ngựa này chuyên vận chuyển thương binh, bên ngoài bọc một lớp sắt, phòng ngừa tên bắn. Xe ngựa làm lớn một chút, một lần vận chuyển sáu thương binh, cộng thêm một y binh cứu trợ...

Giả Nhuận Phủ nói đến đây, tất cả mọi người đều lớn tiếng ủng hộ, quả nhiên là biện pháp tốt. Dương Nguyên Khánh trong lòng thầm nghĩ, đây chính là hình mẫu ban đầu của xe cứu thương.

Lúc này Y chính Liễu Hoằng cũng cười nói:

-Ty chức cũng có một đề nghị! Từ rất lâu trước đã nghĩ tới rồi.

-Ngươi nói đi!

Dương Nguyên Khánh đầy hứng khởi nói.

Liễu Hoằng vuốt râu nói:

-Chính là là liên quan đến việc rửa sạch vết thương. Trước kia chúng ta đều là dùng nước sạch để rửa, sau đó bôi thuốc, nhưng như vậy miệng vết thương của binh sĩ dễ dàng sinh mủ, rất nhiều binh lính đều phát sốt lên mà chết. Về sau lại đổi dùng nước muối để rửa miệng vết thương, nhưng cảm giác hiệu quả vẫn không lý tưởng lắm. Có một lần ở Phong Châu có binh lính nói cho ty chức biết, dùng rượu nho loại tốt rửa miệng vết thương hiệu quả không tệ, chỉ có điều trong quân đội không cho phép uống rượu. Ty chức hy vọng tổng quản có thể đặc chuẩn cho quân y sử dụng rượu nho.

Liễu Hoằng nói xong, Dương Nguyên Khánh chợt nhớ tới năm đó Ngụy Trưng chưng rượu bán cho người Đột Quyết, liền cười nói:

-Ngươi đã nhắc ta nhớ, Ngụy Trưng biết dùng phương pháp của Tây Vực để chưng rượu, khiến rượu càng nặng. Tuy nhiên chúng ta không cần rượu nho, có thể dùng cao lương để ủ rượu, sau đó dùng phương pháp của Tây Vực chưng rượu, như vậy rượu càng mạnh hơn, dùng để tiêu độc thì quá tốt. Sau khi về Thái Nguyên, Liễu Y chính có thể tìm Ngụy thị lang thương lượng một chút.

Kỳ thật thuốc luyện công từ trước của Dương Nguyên Khánh cũng là một loại thuốc hay dùng để cầm miệng vết thương. Dương Nguyên Khánh từng mở rộng trong quân đội Phong Châu, nhưng sau lại phát hiện, loại thuốc này chỉ hợp với từng người, rất nhiều binh lính dùng xong vết thương ngược lại nghiêm trọng hơn, nên dần dần đã ngừng sử dụng.

Mọi người mỗi người một câu, lần lượt đưa ra kế sách. Lúc này, Trình Giảo Kim cũng không nhịn được nói:

-Lão Trình ta cũng đưa ra một phương pháp để binh lính không muốn chết.

Giọng nói của anh ta rất vang, tất cả mọi người lập tức yên lặng, ai ai cũng mang vẻ mặt cổ quái nhìn anh ta, đây không phải lời vô nghĩa sao? Có binh lính nào muốn chết, không biết anh ta lại muốn đưa ra ý kiến thiu thối gì đây?

Trình Giảo Kim gãi đầu, có chút lúng túng nói:

-Mọi người đừng nhìn ta bằng thứ ánh mắt đó, phương pháp của ta cam đoan tất cả mọi người đều thích.

Dương Nguyên Khánh khẽ mỉm cười:

-Kỳ thật lời lão Trình nói cũng đúng, có đôi khi đau khổ mà sống không bằng chết, quả thực là muốn chết cho xong, tướng quân nói đi! Biện pháp gì?

Ánh mắt Trình Giảo Kim liếc nhìn đám binh lính bận bịu qua lại trong lều lớn. Những binh lính này đều là đến hỗ trợ chăm sóc thương binh, ai ai cũng bận đến mồ hôi đầm đìa, anh ta chán ghét dùng tay phẩy phẩy cái mũi, nói:

-Có thể thay mấy lão hôi hám chuyên chăm sóc người này bằng các cô gái xinh đẹp không vậy? Nếu như thế, lão Trình ta cũng muốn bị thương.

Anh ta vừa mới nói xong, các tướng lĩnh đều phản đối:

-Không được! Trong quân doanh không thể có nữ nhân.

Dương Nguyên Khánh ha ha cười. Chẳng lẽ Trình Giảo Kim muốn trở thành người tình của hộ sĩ sao?

Hắn khoát tay, hướng mọi người nói:

-Các vị, kỳ thật phương pháp của lão Trình cũng có chút đạo lý. Nữ nhân vốn đã có thiên tính chăm sóc người khác, họ tỉ mỉ, quan tâm, có thể chăm sóc thương binh cẩn thận hơn. Ban đầu khi ta lập quy củ, chủ yếu là suy xét trong quân xuất hiện nữ nhân sẽ ảnh hưởng lòng quân, nhưng nếu như là y hộ binh thì sẽ khác. Về sau quân doanh chúng ta có thể đặc biệt tách ra một y doanh, không cho binh lính dễ dàng ra vào, như vậy thì có thể chiêu mộ nữ y hộ binh. Hiện ở các nơi quả phụ rất nhiều, không lo vấn đề chọn người, ta quyết định tiếp thu ý kiến của Trình Tướng quân.

Trình Giảo Kim vui mừng đến mức lông mi như dựng đứng lên:

-Tổng quản, chiêu mộ nhiều mỹ nữ một chút, ty chức đoán lão Tần và tiểu La dù không bị thương cũng giả bộ bị thương, dù gì cũng đánh giặc mà. Thế mới càng hứng thú!

Tất cả mọi người trừng mắt nhìn anh ta. Tuy rằng còn muốn phản đối, nhưng Dương Nguyên Khánh đã quyết định, mọi người cũng không có cách nào. Dương Nguyên Khánh quả thật đã quyết định, ở Thái Nguyên thành lập tổng y doanh hậu cần, chiêu mộ số lượng lớn nữ binh chuyên chăm sóc và chữa bệnh. Có thể giải quyết vấn đề kế sinh nhai của rất nhiều các góa phụ, trong đó người thể trạng khỏe mạnh có thể cử làm nữ hộ binh trên chiến địa, điều này sẽ rất có lợi với việc giảm bớt tỉ lệ tử vong của thương binh.

Dương Nguyên Khánh nói với Giả Nhuận Phủ và Y chính Liễu Hoằng:

-Chuyện này ta sẽ giao cho hai người là tổng quản đặc biệt chấp hành mệnh lệnh, sau khi ta về Thái Nguyên sẽ an bài triều đình hiệp trợ, các biện pháp đều phải lập tức được hoạt động.

Giả Nhuận Phủ và Liễu Hoằng đồng loạt khom người nói:

-Ty chức tuân mệnh!

Lúc này, một gã thân binh chạy vội tới, ghé vào tai Dương Nguyên Khánh nói nhỏ vài câu. Dương Nguyên Khánh hơi ngẩn ra, liền cười nói với mọi người:

-Ta có chút việc qua lều lớn một chuyến, các ngươi tiếp tục trấn an thương binh.

Dương Nguyên Khánh xoay người ra khỏi lều lớn, xoay người lên ngựa, dọc theo đường cái chạy về phía đại doanh của trung quân. Chạy tới trước cửa lều, hắn xuống ngựa, một gã thân binh chào đón, chỉ chỉ vào lều khách ở bên cạnh:

-Tổng quản, người tới đang chờ ở trong lều.

Dương Nguyên Khánh lại hỏi:

-Mấy người tới?

-Chỉ có một người, còn có mấy người tùy tùng, chờ ở biệt doanh.

-Tổng quản giá lâm!

Cùng với tiếng hô to của binh lính, Dương Nguyên Khánh vén cửa lều vải đi vào trong lều khách. Trong lều khách có một người đàn ông chừng ba mươi tuổi đang ngồi, đang lo lắng lo lắng mà uống trà. Người này mặc một áo bào gấm màu trắng, thân hình cao lớn khôi ngô, vạm vỡ, có khuôn mặt dài, trong đôi mắt dài và nhỏ luôn không khỏi toát ra sự âm u lạnh lẽo.

Anh ta nghe thấy tiếng quát ngoài lều vải, vội vàng đứng lên. Lúc này Dương Nguyên Khánh vén cửa lều đi vào, nam tử trẻ tuổi thấy Dương Nguyên Khánh đầu đội kim khôi, liền biết là người anh ta muốn gặp. Anh ta liền vội vàng tiến lên vài bước, khom người thi lễ:

-Tướng của Đông Đô Trịnh quốc công, Lại bộ Vương Thượng thư Vương Nhân Tắc tham kiến Tấn Vương điện hạ!

-Ngươi là cháu của Vương Thượng thư!

Dương Nguyên Khánh cười cười hỏi.

Vương Nhân Tắc sợ vội vàng gật đầu nói:

-Chính là tại hạ! Phụng mệnh thúc phụ đến bái kiến điện hạ.

-Ngồi đi!

Dương Nguyên Khánh mệnh Vương Nhân Tắc ngồi xuống, hắn thấy trên bàn nước trà cũng chưa hề đụng tới, đã nguội, liền chỉ bảo thân binh:

-Đem cho Vương Tướng quân một chén trà nóng.

Vương Nhân Tắc vội vàng hạ thấp người nói:

-Đa tạ! Có thể cho tại hạ đổi một ly sữa đặc được không? Thật sự tại hạ không có thói quen uống trà.

Dương Nguyên Khánh ha hả cười:

-Đi bưng hai bát sữa đặc đến đây.

Binh lính đi ra ngoài, Dương Nguyên Khánh cười hỏi:

-Vương Tướng quân đã ở Đông Đô nhiều năm rồi, vẫn không có thói quen uống trà sao?

Vương Nhân Tắc lắc đầu, cười khổ nói:

-Con người tại hạ không phải là mệnh hưởng phúc, theo thói quen từ nhỏ uống sữa đặc và rượu sữa ngựa, uống trà thực không quen. Nếu không chính là theo cách của người Đột Quyết, cho ít muối vào trà sữa, còn có thể uống vài chén, bình thường nước chè xanh thực không quen.

-Cái này cũng khó trách, thói quen rất khó sửa.

Dương Nguyên Khánh hàn huyên sơ sơ hai câu, liền hỏi anh ta:

-Vương Thượng thư phái tướng quân tới gặp ta, có chuyện gì không?

Vương Nhân Tắc vội vàng từ trong lòng ngực lấy ra bức thư viết tay của Vương Thế Sung, hai tay dâng lên đưa cho Dương Nguyên Khánh:

-Đây là thư mà thúc phụ tại hạ gửi cho điện, điện hạ mời xem trước.

Dương Nguyên Khánh mở thư ra nhìn một lần, khẽ cau mày. Quân đội của Lý Uyên chiếm lĩnh quận Hoằng Nông, đây là chuyện khi nào? Hắn không ngờ không biết.

-Lý Uyên xuất binh chiếm Hoằng Nông, là chuyện khi nào?

-Hồi bẩm điện hạ, đây là việc vừa mới phát sinh hôm trước, tin tức vừa truyền đến, thúc phụ liền mệnh tại hạ lập tức tới gặp điện hạ.

Dương Nguyên Khánh lại tiếp tục xem thư, trong thư Vương Thế Sung khẩn cầu hợp tác với mình, đánh đuổi quân đội của Lý Uyên về Quan Trung. Nhưng hợp tác như thế nào, sẽ làm sao sau khi giành lại quận Hoằng Nông, ông ta trong thư không có nói, Dương Nguyên Khánh liền gấp thư lại và hỏi:

-Vương Thượng thư là hy vọng ta xuất binh tới Hoằng Nông sao?