Thiên Huyền Địa Hoàng

Chương 168: Châu Sơn




Sau vài giây trầm mặc, tôi ho khan rồi cười ngượng một cái, rất tự nhiên vừa cất hộp vào túi xách vừa nói.

-Thật xui xẻo quá, Thiên Hương và Tư Đồ đều trúng độc cả rồi, nhất định là thứ độc dược cực kỳ ghê gớm, phải mau mau hút độc thôi. 

Vừa dứt lời quả nhiên thấy sắc mặt Tư Đồ trở lên nhợt nhạt, gã không lôi thôi, cúi đầu ngậm lấy miệng vết thương, mút mạnh một cái rồi quay đầu nhổ chất dịch đen ngòm.

Lập tức Cung Trường Lĩnh đưa cho gã chai nước để súc miệng. Súc xong gã lại cúi xuống mút tiếp.

Thiên Hương cũng định làm thế nhưng vết thương của cô ở vị trí phía ngoài cổ tay, hơi bất tiện. Minh Đăng giúp cô nặn máu độc. Sau khi máu đen được loại bỏ hết, rửa lại bằng dung dịch sát khuẩn, cuối cùng dùng một chai thuốc xịt đặc trị xử lý thương tổn ngoài da . Bên kia thì Cung Trường Lĩnh giúp Tư Đồ. Trước mắt chỉ có thể tạm sơ cứu như vậy, đợi ra ngoài thì tính tiếp. 

Rất nhanh xong xuôi, tôi dẫn đầu chạy biến trước, xa xa, một đốm lân quang lấp lánh như kim tuyến bay lượn xuất hiện. Tôi nhắm về phía đó, phía sau Âu Tử Dạ và Mạnh Chương đuổi theo. Cung Trường Lĩnh và Minh Đăng đi bên cạnh dìu bước Tư Đồ và Thiên Hương. Tuy bọn họ không bị thương ở chân và dù độc tố đã được loại bỏ phần nào nhưng vẫn ảnh hưởng ít nhiều tới sức khỏe người bị nhiễm. Chỉ thấy Tư Đồ và Thiên Hương mặt mũi nhăn nhó như trực muốn ói mửa, màu da thâm tái, bước chân có chút bải oải suy kiệt. 

Không biết cổ nhân dùng dược liệu gì bào chế ra kịch độc? Quan trọng là, hai ngàn năm trôi qua rồi, không phải nó cũng nên bị hỏng hay sao? Không ổn, dù chất độc không còn nữa, thì dính phải thứ bị biến đổi sau từng ấy năm chính là không độc cũng thành có độc.

Nghe nói có một loại ốc sên hoa văn đẹp mắt nhưng nếu chẳng may dính phải, dù chỉ cần một giọt nước dãi của nó, cũng có thể khiến bạn tới gặp Diêm Vương khóc lóc sau vài giờ. Hoặc là có một loài ếch màu sắc sặc sỡ, xấu số dính 1 miligam lượng độc đố, bạn vẫn được quỷ sai đại ca hộ tống thẳng xuống địa ngục. 

Có thể là Thạch tín chăng? Bởi vì nó là khoáng vật có thể tồn tại tự nhiên trong môi trường đất và nước, không lo sợ bị ôi thiu hỏng hóc. Nghe nói chỉ 0,06 g thạch tín vào cơ thể cũng đủ gây ngộ độc.

Thực chất kẻ đang dẫn đầu cách tôi độ 20m chính là Ưu Đàm.Trong không gian thiếu thốn ánh sáng, những đốm lân tinh bay lượn xung quanh nó khiến người ta nhìn đến liền không muốn dời mắt đi.

Chúng tôi chạy trong một khe núi, hai bên là vách cao dựng đứng, phía trước bị chắn lối, đất cát sạt lở đắp thành một cái vách chót vót không kém. Chắc không phải trèo qua cái đó chứ? Kết cấu không ổn định, không khéo nửa đường bị đá từ trên cao lăn xuống đè chết mất. 

Đến một đoạn Ưu Đàm dừng lại, bắt đầu nhanh thoăn thoắt trèo lên vách đá bên cạnh. Coi như cũng là leo trèo, thì cái vách này xem như vững chắc hơn, phần rủi ro thiệt mạng thuộc về bản thân. Chỉ sợ mình tuột tay sảy chân tự ngã xuống.

Tôi nhìn Tư Đồ và Thiên Hương chạy sau cùng, lo sợ bọn họ không biết có đủ sức leo lên nổi.

Âu Tử Dạ và Mạnh Chương cũng chỉ là đang bám theo phía sau, không có ý đoạt lại đồ. Tôi bắt đầu trèo lên, tay đeo găng của Âu Tử Dạ đưa, lên cũng không phải đang tự ngược đãi cơ thể. 

Leo được một đoạn tôi cúi đầu nhìn xuống, thấy Mạnh Chương và Âu Tử Dạ cũng làm theo. Phong Linh bám sát ngay phía sau bọn họ, mở miệng thắc mắc.

-Này Tiểu Mặc Tử, phía trước là ai đang dẫn đường vậy?

-Người quen của tôi! Chắc là anh ta biết đường ra!

Tôi tùy tiện đáp vọng xuống, tiện thể nhìn Mạnh Chương, không thấy Sula bay lượn trên bầu không thỉnh thoảng cao hứng rú lên từng tràng “cú cú cú” kinh dị, có lẽ bị gã thu vào rồi.

Ô Thiên Hà có thể cứng tới mức nào chứ? Dù sao cũng chỉ là khúc gỗ nhỉ, còn là gỗ đã có tuổi thọ lâu đời, vẫn chưa bị mối mọt khám phá ra sao?

Lại dời mắt nhìn Âu Tử Dạ. Còn thanh kiếm cổ kia nữa, cảm giác không giống được rèn từ kim loại. Tất nhiên chẳng có kim loại nào trong đen lại lấm tấm điểm xuyết trắng, nếu nói giống ngọc thạch thì nghiêng hơn. Nhưng cảm giác mà nó mang lại chính là khá giống với thanh đao mà tôi sở hữu.

Chuyển mắt nhìn về nơi trấn tà tọa lạc tịch liêu giữa một bể dung nham đỏ au như biển máu. Không còn vật cần để bảo vệ nữa, đột nhiên nơi đó trở lên trống rỗng hoang vắng lạ kỳ. Ánh sáng lung linh huyền ảo của Dạ Minh châu như lu mờ, đám huỳnh thạch trên nền đá vì thế cũng ảm đạm thất sắc theo. Những hàng cột đá trạm trổ công phu, những con thạch thú sống động đẹp đẽ, đều vì thứ quan trọng rời đi rồi, mơ hồ phủ một lớp tro bụi. 

Cả miệng hố rộng lớn sáng rực như một mặt trời thu nhỏ đang lim dim say giấc. Ánh sáng ấm áp lộng lẫy của nó xua tan giá rét cùng hắc ám. Có thể thấy bao quanh hố là vách đá mọc vươn lên cao và thu lại như một mái vòm, có điều mái vòm này lại bị lủng lỗ, xuyên qua bên ngoài chính là bầu trời tối đen thăm thẳm. 

Ưu Đàm lách mình vào một khe đá đột nhiên xuất hiện ở lưng chừng vách đứng. Nó cúi xuống nhìn tôi. 

Cái khe này phải nói là rất rất hẹp, một người bình thường muốn đi vào chắc phải nghiêng mình lách thân mới miễn cưỡng chui rúc được. Bạch Ngân thì khỏi phải bàn, vong linh u hồn nên là cứ thế xuyên qua thôi. Bông Tuyết thì đang vo tròn một cục trong túi áo khoác, xem chừng là lạnh quá tìm chỗ ngủ. 

Cái khe còn không đủ rộng để nhét vừa nửa cánh tay, như một vết thương của vách hang, nếu không có Ưu Đàm chỉ đường, làm sao mà biết được lối ra lại bí hiểm thế này? Mà dù có phát hiện được ra đi chăng nữa cũng không nghĩ nó là lối thoát thân.

Ưu Đàm vươn tay xuống, một tay kéo tôi leo lên, không có sự giúp đỡ của người lên trước, người phía sau sẽ chật vật lắm mới chen chúc lên được. Nếu mà đeo ba lô như đám kia, thì phải tháo xuống xách tay.Tôi đứng yên vị rồi, xoay lại, mấy giây sau đã thấy cái mặt của Âu Tử Dạ trồi lên. Tôi nhìn anh ta, nhoẻn miệng cười lấy lòng, tay đồng thời vươn xuống. 

Âu Tử Dạ nhìn chằm chằm vẻ mặt tôi mất một lúc mới miễn cưỡng nhận sự trợ giúp.

Không nghĩ lực cần để kéo một người lên lại dùng nhiều sức tới vậy. Ban nãy được Ưu Đàm lôi lên cảm giác khá nhẹ nhàng, mà tới phiên mình thì suýt tí nữa bị anh ta kéo ngã xuống. Không phải là bị Âu Tử Dạ chơi khăm đấy chứ? 

Anh ta lên được rồi, tôi nhăn nhó nhìn Âu Tử Dạ, nhưng trên gương mặt băng lãnh ngàn năm không đổi kia, không có một tia dư thừa. Tôi bĩu môi hừ mũi, xoay đầu, nhích nhích vào trong.

Sau đó vì nhìn thấy Ưu Đàm, đột nhiên cười nhăn nhở một cái. Căn bản bởi gương mặt cái kẻ đang tỏa ánh kim tuyến lấp lánh hư mộng kia, tuy giống như đúc từ một khuôn nhưng là đang không mảnh vai che thân, cho nên là...

Quay lại nhìn thấy biểu tình âm trầm lạnh lẽo tận xương tủy của anh ta, nhịn cười. May là cái khe này còn đủ rộng cho cái đầu xoay trái xoay phải được, không thì đến lúc chui ra, cổ cũng bị ngoẹo mất thôi. 

-Đó là thanh kiếm nào vậy?

Tôi vừa nói vừa rút thanh đao của mình ra, ngón tay xoay xoay cán đao.

-Anh nói xem, có phải cùng chất liệu với thanh đao của tôi không?

Âu Tử Dạ nhìn thanh đao của tôi, im lìm không nhả lời. Tôi cất đao đi, bực bội.

-Anh đừng có lúc nào cũng chỉ biết giữ cho riêng mình, giữ lâu như thế giữ nhiều như vậy không sợ bị nghẹn chết sao? 

-Đó là thanh Ngư Trường.

Người lên tiếng không phải Âu Tử Dạ, là Mạnh Chương ở bên cạnh anh ta. Gã nói tiếp.

-Tương truyền đó chính là thanh đoản kiếm mà công tử Quang giao cho thích khách Chuyên Chư giấu trong bụng cá lớn để ám sát Ngô vương Liêu giúp ông ta giành ngôi vua nước Ngô sau này.

Gật gù, chuyện này đương nhiên tôi cũng biết. 

Ngày Bính Tý tháng tư năm 515 TCN, công tử Quang mở tiệc rượu mời Ngô vương Liêu, tuy ăn tiệc ở tư dinh của ông ta nhưng lại dàn binh dày đặc, nói để bảo vệ. Cơ Liêu không ngờ Chuyên Chư mưu giấu cây chủy thủ trong bụng cá lớn chiên giòn, rồi nhân lúc dâng món ăn bất ngờ lôi chủy thủ ra hạ sát. Sau bản thân Chuyên Chư cũng lập tức bị thủ hạ của Ngô vương xâu xé chém giết. 

Ngô vương Liêu chết rồi, Cơ Quang lên ngôi, tức Ngô vương Hạp Lư. 

-Nè, cho tôi xem với!

Âu Tử Dạ vẫn bất động thanh sắc.

Tôi nhích nhích tiến tới chỗ anh ta, tay đưa ra tính mở khóa túi xách đeo bên vai của Âu Tử Dạ. Lập tức bàn tay táy máy bị đập một cái, nhận thêm cái trừng mắt uy hiếp.

-Con khỉ nhà nó, đường đi lối lại thế này là tính chơi xỏ đại gia sao? 

Tiếng của Tư Đồ phía ngoài oán giận. Giọng của Phong Linh vọng xuống, thì ra gã đã vào ngay sau Mạnh Chương.

-Cái nhà anh này đừng kêu ca nữa, dưỡng sức đi.

-Đại ca, mau mau vào còn cho người phía sau lên với.

Giọng Cung Trường Linh kiên nhẫn vọng lên.

-Chú cứ bình tĩnh, có phải anh muốn dề dà đâu, tại cái lối đi nó chê bai anh đấy chứ!

Phong Linh kéo Tư Đồ, miệng gã còn lầm bầm làu bàu chê trách mấy câu nữa.

Chỗ này diện tích phải nói là vô cùng, cực kỳ chật hẹp. Chỉ sợ Tư Đồ hay Minh Đăng, một tên to béo một kẻ vạm vỡ, phải cố nhịn thở ép mình chen lấn vào, chỉ sợ cũng không di chuyển được dễ dàng.

-Quên vụ Thắng Tà lần trước rồi sao?

Âu Tử Dạ lạnh giọng nhắc nhở. Anh ta nói vậy mới khiến tôi nhớ ra, quả thật không nên dính dáng tới nó, ngay đến đám Mạnh Chương cũng e dè kiêng kỵ, tôi lại nháo nhào làm loạn?Tôi nhích nhích di chuyển vào.

-Vậy, trên thanh kiếm khắc tên đúc kiếm sư và tên kiếm sao?

Âu Tử Dạ lắc nhẹ.

-Tên kiếm là tên do người sở hữu đặt. 

-Vậy ai sở hữu kiếm này? Trong sách Việt tuyệt thư quyển 11 phần "Ngoại truyền kỳ bảo kiếm" ghi lại, kỳ tài tài rèn kiếm của Âu Dã Tử truyền đến tai Việt vương, ông ta ra lệnh cho đúc kiếm sư rèn năm thanh kiếm quý, đó là Trạm Lư, Cự Khuyết, Thắng Tà, Ngư Trường và Thuần Quân. Ngoài ra Âu Dã Tử còn rèn cho Sở Chiêu vương ba thanh kiếm khác là Long Uyên, Thái A và Công Bố , đúng chứ?

Âu Tử Dạ vẫn miệng kín như bưng, giọng Mạnh Chương xen vào. Lạ lùng, hai tên này không tranh đoạt hộp Ngọc Hồn nữa sao? Sao lại ung dung nhàn tản buôn chuyện thế này? Nhất định có ẩn tình.

-Âu Dã Tử là phàm nhân đầu tiên cũng là duy nhất sau này tìm ra cách mô phỏng lại quyền năng của Tru Tiên Tứ Kiếm. 

Tôi vẫn tiếp tục nhích nhích di chuyển, thầm nghĩ. Tru Tiên Tứ Kiếm gì đó quá huyền huyễn. Nhưng tôi biết dùng từ mô phỏng coi như cũng tương thích đi bởi dẫu sao nguyên liệu kết hợp chỉ là từ thanh đồng và sắt. Âu Dã Tử là người đầu tiên đã phát hiện ra nhiều tính năng khác biệt giữa đồng xanh và sắt ,tìm ra được công thức pha trộn tỷ lệ các kim loại màu thích hợp và tinh vi, mở ra kỷ nguyên mới cho binh khí lạnh Trung Quốc với kỹ thuật rèn và tôi thép vượt bậc. Cuối thời Xuân Thu, binh khí vẫn là đồ đồng cho nên hình dáng thường ngắn và thẳng dùng để đâm, việc Âu Dã Tử có thể chế tác ra những thanh kiếm có khả năng chém gãy vũ khí đối phương khiến người đời coi trọng tôn ông là đúc kiếm sư.

-Âu Tử Dạ, tôi nghi ngờ đao của tôi và kiếm của lão Âu Dã Tử đều được rèn từ đá thủy tinh núi lửa?

Âu Tử Dạ gật nhẹ.

-Ừm!

Thế mà lại nhận được sự khẳng định từ anh ta thật. Nghe nói độ cứng của đá thủy tinh trên thang đo Mohs là 5,5 đây, chỉ là mức độ trung bình, đụng phải thanh đao bá đạo hơn còn không phải bể nát? Không biết sau quá trình trui rèn gia công thành vũ khí, chắc là có làm tăng độ cứng lên nhỉ? Thật ra thì đá thủy tinh núi lửa nổi tiếng bởi độ sắc bén hơn cả. Lưỡi dao so với dao mổ làm bằng hợp kim thép còn muốn sắc bén hơn mấy lần. Nghe nói dao mổ soi dưới kính hiển vi điện tử, thấy lưỡi lởm chởm như răng cưa, trong khi dao được làm từ đá thủy tinh núi lửa vẫn bằng phẳng, là do thiếu các cấu trúc tinh thể nên các rìa của nó có thể đạt đến độ mỏng gần như ở kích thước phân tử. Qủa là một con dao hoàn mỹ cho một bác sĩ phẫu thuật.

Âu Tử Dạ điềm tĩnh nói.

-Thật ra, cổ nhân ban đầu ngộ nhận đá thủy tinh núi lửa là thiên thạch, cho nên mới dùng nó rèn kiếm.Sau đó phát hiện không phải nhưng đồng thời cũng nhận thức được một điều. Thiên thạch thích hợp rèn ra trường kiếm đại đao, mà Châu Sơn, thích hợp rèn ra kiếm ngắn.