Thiên Tống

Chương 211-2: Quy tắc buôn bán (2)




Sau khi tiễn bước Hàn Thế Trung, Âu Dương cùng với Tư Khám hàn huyên thật lâu. Âu Dương nói cho Tư Khám, chuyện này mình không làm chủ được, có điều nhất định sẽ ở hội nghị hiệp hội buôn bán nam bắc mỗi năm một lần đưa ra đề nghị này. Âu Dương cũng mơ hồ nói về cái nhìn của bản thân, tương lai ở khu vực Liêu có thể thành lập khu buôn bán với sự tham dự của hiệp hội buôn bán, do Tư Gia làm chủ. Hơn nữa Âu Dương sẽ trao đổi và làm công tác với đám cổ đông. Đến lúc đó nhất định sẽ mời Tư Gia tham dự.

Âu Dương biết rõ quản lý với hình thức gia tộc như Tư Gia, rất khó tiếp nhận hình thức quản lý công ty dùng chế độ cổ đông. Hiệp hội buôn bán có chấp nhận đồng bọn mới hay không, không phải là chuyện một mình Âu Dương nói là được, mà là cần phải yêu cầu Tư Gia đưa ra bản kế hoạch, kể rõ Tư Gia gia nhập hiệp hội buôn bán thì hiệp hội buôn bán sẽ có thể giành được lợi ích gì. Rồi sau đó còn có nghĩa vụ của Tư Gia, dĩ nhiên cũng có quyền lợi, Tư Gia có thể tự mình chế tác các dự án, yêu cầu người của hiệp hội buôn bán hợp tác, không những không gặp phải cạnh tranh ác tính mà còn có thể dùng danh nghĩa người khởi xướng để nắm lấy các dự án.

Hình thức phát triển buôn bán hợp nhất kinh tế nam bắc, là do Âu Dương tốn hao vô số tâm huyết tạo dựng lên. Đây là tham khảo liên minh thương nghiệp do đồng minh Âu Châu, Hán, Tát tiến hành vào thế kỷ mười một. Một người thương nhân bình thường, trước tiên có thể đăng kí ở hiệp hội buôn bán, thực hiện nghĩa vụ. Sau khi đạt tới cống hiến nhất định có thể xin trở thành thành viên ghế nghị sĩ. Thương nhân được quá thành viên ghế nghị sĩ đề cử, cũng có thể xin trở thành thành viên ghế nghị sĩ. Nhưng trên nguyên tắc danh sách là phân phối theo châu. Nếu trong đại hội hiệp hội buôn bán biểu quyết trúng qua sáu thành viên ghế nghị sĩ đồng ý tiếp nhận, thương nhân đó liền trở thành thành viên ghế nghị sĩ. Trở thành thành viên ghế nghị sĩ chỗ tốt rất nhiều, thứ nhất, có thể tiến hành bàn bạc về các dự án có thể nguy hại với lợi ích của mình. Thứ hai, có thể cùng với các thành viên ghế nghị sĩ hợp tác trong các hạng mục lớn, thậm chí có thể chủ đạo các hạng mục lớn. Thứ ba, có thể nâng mức cho vay ở tiễn trang lên cao, đồng thời giảm xuống lợi tức vay. Thứ tư, có thể lợi dụng hiệp thương để mua cổ phần buôn bán của các thành viên ghế nghị sĩ khác. Thứ năm, có thể tiến hành biểu quyết đối với các chiến lược đầu tư của hiệp hội buôn bán. Thứ sáu, đầu tư một số tài chính nhất định vào các hạng mục lớn, chẳng hạn như thị trường thuộc da duy nhất của hành lang Hà Tây, ghế nghị sĩ có quyền đầu tư trở thành cổ đông. Một câu khái quát chính là, trở thành thành viên ghế nghị sĩ, ngươi liền trở thành người quyết sách. Đương nhiên thương nhân bình thường rất khó gia nhập ghế nghị sĩ, nhưng cho dù không gia nhập, chỗ tốt cũng là không ít. Chủ yếu nhất là có thể nhận được sự bảo vệ nhất định trong mua bán.

Lại qua mấy ngày, Trương Huyền Minh lại sai người đưa tới một phong thư. Trên thư có một câu hỏi điền vào chỗ trống. Nội dung nói Lý Càn Thuận bị tán binh của Tây Hạ cũ tập kích, kể cả mấy trăm hộ vệ toàn bộ bị giết chết ở hành lang Hà Tây. Trương Huyền Minh hỏi: Rốt cuộc là bộ tộc nào, hoặc là những bộ tộc nào làm chuyện này?

Âu Dương biết rõ, một khi điền vào, Trương Huyền Minh sẽ đem tấu lên Triệu Ngọc, nói có kẻ hồ đồ ngu xuẩn bất mãn với việc Lý Càn Thuận hoà đàm, nên đã mang binh sát hại, hơn nữa còn muốn ủng binh tự lập. Triệu Ngọc nhất định sẽ hạ chỉ cho Hàn Thế Trung, bảo với bộ tộc như vậy tiến hành bao vây tiêu diệt. Âu Dương xem hết thư, suy nghĩ kỹ một hồi nói:

” Trương Tam, đem thư đưa cho Lý Cương Lý đại nhân đi.”

“Dạ”

Lý Tứ hỏi:

” Đại nhân. Ngài ý là muốn Lý đại nhân dùng thư này đi áp đảo các bộ tộc phân tán sao?”

” Chúng ta muốn là dĩ hòa vi quý, Đại Tống từ khi dựng nước tới nay sẽ không bạc đãi các dân tộc thiểu số. Nhưng nếu những người này không muốn nghe lời, chỉ có thể diệt trừ. Các phân tộc Tây Hạ đều có tù trưởng, tự có đất đai, tự định luật pháp. Những địa phương kia quan đến nhận chức cũng bị kiềm chế mọi cách. Mà thư này liền có thể dễ dàng giải quyết vấn đề này.”

Công xưởng X bởi vì lãnh đạo kinh tế có vấn đề, công nhân náo ầm ĩ vô cùng hung dữ, yêu cầu lãnh đạo xuống đài. Lúc lãnh đạo sớm chịu không được thì phía cấp trên ra tay, cho cái công xưởng này danh sách năm người bị hạ chức, tin tức vừa ra, công nhân lập tức an tĩnh. Lúc nào ầm ĩ thì mọi người đều rất đoàn kết, nhưng muốn hy sinh mình để thành toàn lợi ích của người khác thì người nào cũng biết sẽ lựa chọn ra sao.

Chuyện này cũng như vậy, nếu diệt một hai bộ tộc, các bộ tộc còn thừa lại cũng sẽ bằng mặt mà không bằng lòng, sẽ lưu lại tai hoạ ngầm lớn hơn nữa. Nhưng nếu để cho bản thân bọn họ chọn ra, người nào cũng biết hợp tác là đường sống. Tiện thể có thể ly gián tình cảm của các bộ tộc, những bộ tộc kia bởi vì tư lợi liền trở thành thịt cá mặc người chế biến thức ăn. Cây gậy và củ cả rốt, tuy rằng cũ nhưng vẫn tương đối hữu dụng.

(Cây gậy và củ cà rốt (tiếng Anh: carrot and stick) là một loại chính sách ngoại giao trong quan hệ quốc tế, thường được dùng bởi các nước lớn mạnh nhằm thay đổi hành vi của các nước nhỏ hơn. ‘Cây gậy’ tượng trưng cho sự đe dọa trừng phạt, ‘củ cà rốt’ tượng trưng cho quyền lợi hay phần thưởng.

Một chính sách kiểu ‘cây gậy và củ cà rốt’ phải luôn hội tu đủ ba yếu tố: yêu cầu thay đổi, quyền lợi nếu thay đổi, biện pháp trừng phạt (kinh tế hoặc quân sự).)

Tây Hạ tuy rằng vẫn tương đối hỗn loạn, nhưng cơ bản cũng có thể khống chế được. Người tài của Đại Tống tạm thời đều phái về nơi này. Dân chúng Đông Kinh đến trước hoàng cung phóng pháo hoa ăn mừng. Diệt vong của Tây Hạ từ thời Tùy đến nay, là đại thắng lần thứ nhất giữa trung nguyên với các dân tộc du mục. Không chỉ như thế, còn nhổ triệt để người Đảng Hạng (một nhánh của dân tộc Khương, thời bắc Tống ở Trung Quốc, đã lập nên chính quyền Tây Hạ), mở rộng biên giới. Trong lịch sử có hai vị quân vương, một là Hán Vũ đế đã đuổi đi Hung Nô, hai là Tùy Văn Đế, dùng võ san bằng tứ phương. Nhưng đều không có diệt trừ hậu hoạn triệt để như Triệu Ngọc. Báo Hoàng gia không chút nào keo kiệt dùng hết thơ từ ca ngợi, căn cứ vào điều tra của nó, lòng tự tin của dân gian càng được tăng cường thật lớn, các độc giả chú ý đến tình hình quốc tế còn tăng lên bốn phần. Chú ý triều đình từ ba phần tăng lên bảy phần.