Tổ Ấm Nơi Tận Cùng Thế Giới

Chương 2-15




“Con không biết,” Jonathan nói. “Bọn mình có nên đi không?” Cậu hỏi Bobby. Bobby liếc sang tôi. Không hiểu sao tôi lại quyết định nhanh chóng đến thế. Tôi khẽ gật đầu, đồng ý.

Jonathan hỏi liệu cậu có nên mang theo áo khoác không. Bobby bảo rằng có lẽ cậu nên mang theo. “Hai đứa,” Alice nói, “đúng là một cặp bài trùng.” Tôi chưa bao giờ thấy ai bối rối như Jonathan, lo lắng đến nỗi cần phải có người khác bảo mình làm gì.

Bobby hôn tôi trên đường anh ra ngoài, một cái hôn ướt át thật kêu lên má. “Bọn anh sẽ, em biết đấy, không đi quá lâu đâu,” anh thì thầm. Tôi đẩy anh ra như thể xua một con ruồi. Ý thức về thực tại của tôi đã tan biến. Tôi đang ở một nơi bất kì nào đó, bị bỏ lại một mình với một phụ nữ nhỏ nhen mà tôi gần như không quen biết. Tình huống này rồi sẽ kết thúc. Nó sẽ chỉ là một câu chuyện nhỏ nữa trong cuộc đời tôi mà thôi.

Jonathan nấn ná ở ngưỡng cửa: “Tạm biệt,” cậu nói. “Bọn em sẽ sớm quay lại.”

“Đi đi,” tôi nói. Nếu tôi là chị gái cậu, có thể tôi đã ngăn không cho Alice rút hết những gì tinh túy ra khỏi cậu. Có thể tôi đã đặt Alice vào đúng vị trí của bà và khuyến khích Jonathan tự đứng trên đôi chân của chính mình.

“Tạm biệt mẹ,” cậu nói.

Alice nắm lấy cằm cậu theo cái kiểu trực tiếp, giống như một nhà khoa học của bà. Bà nhìn thẳng vào mắt cậu: “Tạm biệt con trai,” bà nói. “Mẹ yêu con.”

Sau khi họ đi khuất, Alice hỏi: “Cô mang gì đến cho cháu nhé?” với chất giọng ấm áp của chủ nhà, khiến tôi nhớ ra rằng tôi chỉ là một vị khách.

“Không cần đâu, cảm ơn cô,” tôi nói. “Cháu có thể giúp cô làm gì không?”

“Không. Cô nghĩ là cô sẽ dọn dẹp lại căn bếp một chút.”

“Cháu sẽ giúp.”

“Không, cảm ơn cháu,” bà nói, với một nụ cười kiên quyết. “Cô thực sự muốn làm một mình. Cháu chỉ cần thoải mái ở ngoài này là được.”

Với tôi thế là ổn. Giờ thì không ai trong chúng tôi cần phải cố nặn ra chuyện để nói. Sau khi Alice vào bếp, tôi bật ti vi, vặn nhỏ âm lượng xuống hết mức có thể, để không làm ảnh hưởng đến những suy nghĩ của bà.

Tôi nhìn chằm chằm lên màn hình. Tôi không biết chương trình này là gì, và cũng không quan tâm. Thường thì tôi chỉ xem ti vi khi có tâm trạng hay có chuyện gì đó xảy ra. Lúc ở nhà, tôi vẫn hay tắt tiếng ti vi và bật giàn âm thanh lên, để tôi không phải nghe những nhân vật xa lạ nói chuyện với nhau.

Alice ở trong bếp khá lâu. Các chương trình cứ tiếp tục nối nhau. Tôi vừa xem ti vi vừa xem qua những tờ tạp chí. Chỉ để giết thời gian. Tôi đoán rằng Bobby và Jonathan đang ở một cái quán ven đường nào đấy, uống rượu và nói chuyện về chính họ, về Alice và tôi. Tôi thấy ghen tị - không phải vì tình cảm họ dành cho nhau mà vì cái quá khứ bên nhau của họ. Cái mối quan hệ thân tình ấy. Tôi, một con người hoàn thiện và biết điều hơn, sẽ bay trở lại New York và tiếp tục một điều gì đó. Tôi sẽ sinh con một mình. Chẳng có gì buộc tôi phải gắn bó với bất cứ ai ở đây cả, không có yếu tố duyên số hay định mệnh nào hết. Tôi giở qua tờ Arizona Highways và Địa lý quốc gia.

Rồi tôi nghe thấy tiếng rơi vỡ trong bếp. Tôi không chắc liệu mình có nên vào đó hay không. Có lẽ Alice bỗng dưng thấy suy sụp, và không muốn bị làm phiền. Tôi không muốn xen vào. Trên ti vi, một nghìn đứa trẻ đang hát không ra tiếng về Coke. Tôi biết bài hát này. Đó là một chương trình quảng cáo cũ, không hiểu sao lại được phát lại. Tôi quyết định làm theo cái ý nghĩ thứ hai của mình rằng có lẽ sẽ không phải nếu tôi không vào xem Alice thế nào.

Trong bếp, bà đang cầm hai mảnh vỡ của một chiếc đĩa. “Cô đã làm rơi nó,” bà nói. Bà vừa nói vừa cười một cách kì cục, như thể việc đánh rơi nó là một thành tích.

“Tiếc quá,” tôi nói.

“Dù sao thì nó cũng chẳng là gì cả,” bà bảo tôi. “Nó được bán với giá một đô la chín mươi tám xu ở cửa hàng K-mart. Chẳng khó khăn gì khi mua cái khác để thế vào cả.”

“Vậy thì may quá,” tôi nói.

“Thật không?” Bà vẫn cầm hai mảnh vỡ, hoàn hảo như hai mảnh trăng khuyết. Sau một thoáng, bà lại làm rơi chúng.

“Cô xin lỗi,” bà nói. “Cô thực sự xin lỗi. Cháu cứ sang phòng bên xem ti vi đi. Cô sẽ ổn thôi.” Bà quay đi và bước ra khỏi cánh cửa có màn che. Nó đóng sập lại sau bà, với tiếng đóng mỏng manh của nhôm nhẹ.

Tôi cúi xuống và nhặt cái đĩa lên. Lần này nó đã vỡ thành nhiều mảnh, những mảnh vỡ dày cộp hình tam giác. Tôi nhặt hết chúng lên và cẩn thận ném vào thùng rác. Tôi sợ lại làm chúng vỡ thêm nữa. Tôi đứng một lúc trong căn bếp vắng lặng, mong là Bobby và Jonathan sớm về nhà. Tôi định quay lại phòng khách và ngồi yên một chỗ như bà bảo, nhưng tôi không thể tưởng tượng nổi là mình lại làm thế. Tôi quyết định đi theo Alice và hỏi xem liệu tôi có thể giúp được gì không, và phải khéo léo để không biến mình thành kẻ quấy rầy. Xét cho cùng, tôi vẫn chỉ là một người khách.

Tôi mở cửa và bước ra một quầng sáng hình chữ nhật. Những vì sao hiện lên rõ ràng bất chấp ánh đèn của tổ hợp chung cư. Sân sau không rộng lắm. Chỉ là một khoảnh cỏ xốp với một luống hoa và hai bồn cỏ, bao quanh bởi một bức tường xây bằng chất liệu giống gạch sống. Alice đứng giữa thảm cỏ, quay lưng về phía ngôi nhà. Bà lấy cả hai tay túm vào tóc mình, lắc lắc từ bên này sang bên kia. Khi tôi bắt đầu bước về phía bà, bà thốt ra một tiếng thở dài, vốn là một tiếng rên rỉ bị xẹp đi, một tiếng xì chầm chậm kéo dài. Bà dùng một tay để túm lấy và bứt vài cọng tóc ra khỏi đầu. Tôi có thể nghe tiếng nó bị bứt phựt ra.

“Cô Alice?” Tôi nói.

Bà ngoảnh lại, tay vẫn còn nắm tóc. Những sợi tóc xoăn xõa xuống gần ba mươi phân trong ánh điện. “Cháu không nên thấy cảnh này,” bà nói. “Đây không phải là cuộc sống của cháu. Cháu nên quay vào trong nhà thì hơn.”

“Cháu có thể làm gì giúp cô không?” Tôi hỏi.

Bà cười: “Có đấy, cháu ạ,” bà nói. “Hãy chạy đến K-mart và mua cho cô một cái đĩa mới. Và một người chồng mới.”

Chúng tôi đứng đối diện nhau. Tôi cho rằng bà đang bực mình, đợi tôi quay trở vào nhà. Tôi không nghe theo. Có lẽ vì tôi cũng thấy tức tối, và không muốn bà thấy thỏa mãn.

Sau một phút, bà nhìn xuống nắm tóc trong tay: “Đây là tất cả những gì cô có.”

Tôi không nói gì. Tôi không cử động.

“Cô không muốn hai thằng bé kia trông thấy cô như thế này,” bà nói. “Cô không muốn Jonathan nhìn thấy. Cô không nghĩ nó có thể chịu được, khi thấy cô như thế này.”

“Cô đừng lo về điều đó,” tôi nói.

“Dù sao thì cô vẫn cứ lo. Cô cho rằng cháu trông thấy cô như thế này thì cũng không sao. Cháu thực sự chưa bao giờ biết cô. Đúng, cháu có thể thấy cô như vậy. Không sao, đúng không?”

“Vâng,” tôi nói. “Vâng, không sao đâu.”

Bà giơ bàn tay còn lại lên và túm tóc mình. Tôi nắm lấy cổ tay bà. “Đừng,” tôi nói. “Cô đâu cần phải làm thế.”

Tôi đã không định chạm vào bà.

“Không à?” Bà hỏi. “Cô không cần phải làm gì à?”

“Không,” tôi nói. “Không, không gì cả.”

Bà thở dài. Tôi vẫn giữ cổ tay bà. Tôi giữ thật chặt. Tôi vừa chờ xem Alice sẽ làm gì tiếp theo vừa nghĩ về đứa con của mình, lớn lên, đặt ra cho tôi một sự yêu ghét lẫn lộn không ngừng. Tôi có thể nghe tiếng những đứa trẻ trong chương trình quảng cáo, đang hát bài về Coke. Tất cả những giọng hát đó. Như thể đang có một cái loa trong đầu tôi.

“Cháu thấy đấy, cô không chỉ đơn giản như thế đâu,” bà nói. “Chúng ta dều thế. Không, ý cô thực sự không phải vậy. Lúc này cô chỉ thấy thương cho thân mình, không phải cho toàn bộ cuộc đời khốn nạn này. Thậm chí không phải cho Ned. Cô không chỉ đơn giản như thế. Và cô sẽ phải làm gì với Ned tội nghiệp? Làm sao mà bọn cô không trở thành một trò lố bịch được?”

“Cô không hề lố bịch,” tôi nói.

“Đừng an ủi cô. Cháu có muốn biết một bí mật không?”

Tôi im lặng. Tôi vẫn đang giữ cổ tay mỏng manh của Alice.

“Cô đã định bỏ Ned,” bà nói. “Cô đã quyết định như thế. Cô đang nghĩ đến việc mình phải nói với ông ấy thế nào, và rồi ông ấy đột ngột qua đời trên đường đến chỗ cái hòm thư.”

“Ôi, cô ơi,” tôi nói. Đó là tất cả những gì tôi có thể nghĩ ra để nói.

“Điều nực cười là, cô đã có ý định bỏ ông ấy suốt gần ba mươi năm qua. Nhưng cô không thể nghĩ được là mình sẽ đi đâu, hay sẽ làm gì. Dường như cô không hề biết một người phụ nữ có thể tự mình làm được những gì. Và ngôi nhà của bọn cô, căn nhà cũ ở Cleveland ấy, có vẻ quá vĩnh cửu.”

“Cô có thể đuổi ông ấy đi mà,” tôi nói.

“Ôi, nhưng cô không muốn sống ở Cleveland một mình. Đó là một nơi rất khó chịu. Và cô cứ nghĩ: “Nếu mình bỏ đi, đây sẽ không còn là căn bếp của mình nữa. Mình sẽ không còn được cất đĩa trong cái tủ chạn này, hay bật đèn lên từ góc này nữa.” Cô có thể tưởng tượng ra những điều to tát hơn. Những đêm cô đơn và một công việc để làm. Thứ mà dường như cô không thể từ bỏ là những điều thường nhật vụn vặt đó. Và rồi đã đến giờ nấu cơm tối, và rồi một ngày nữa lại trôi qua.”

“Chà, cháu thực sự ngưỡng mộ cô vì đã ở lại,” tôi nói. “Bố cháu đã bỏ đi, và cháu không biết liệu cháu có bao giờ vượt qua được điều đó không nữa.”

“Thực sự thì, cô nghĩ việc mình ở lại là một điều hèn nhát,” bà nói. “Cô đã ép Jonathan làm bạn với mình, và khi cô thấy nó quá quấn quýt với Bobby, cô đã đặt ra một vật cản giữa chúng. Cô tống Ned đến rạp chiếu phim vì, ừm, như cháu có thể hình dung ra được, bọn cô chẳng mấy khi ân ái với nhau trên giường. Và ông ấy không phải mẫu người dành cho chuyện yêu đương. Ông ấy chỉ chìm đắm trong những bộ phim. Giờ thì cô đã là một bà già, và Ned đã mất, còn Jonathan tội nghiệp không biết phải làm gì với bản thân nó.”

Tôi nhận thấy một chiếc máy bay đang lặng lẽ bay qua trên đầu. “Cháu không biết phải nói gì với cô,” cuối cùng, tôi nói.

“Không cần nói gì cả. Cháu có thể nới lỏng cổ tay cô ra một chút. Cháu đang làm nghẽn mạch máu của cô đấy.”

“Ôi, cháu xin lỗi.” Tôi thả tay bà ra và ngạc nhiên khi Alice cầm lấy tay tôi.

“Chúng ta không phải bạn bè,” bà nói. “Chúng ta thậm chí còn không thích nhau. Có lẽ cô thật may mắn, khi ở đây có mặt một người không phải bạn mình. Cô không thể kể chuyện này với bất cứ ai ngoài một người lạ. Cảm ơn cháu vì đã không bỏ đi.”

“Cô đừng nói gì cả,” tôi nói. Tôi không ngờ giọng mình lại dữ dội đến thế. “Nếu cô bỗng thấy biết ơn cháu, thì chúng ta sẽ không thể nhìn mặt nhau sau chuyện này được nữa. Bất cứ ai trong hoàn cảnh này cũng sẽ làm như cháu thôi.”

“Nhưng cháu đã có mặt ở đây,” bà nói. “Cháu đã đi hai nghìn dặm để đến đứng ở đây với cô. Đó là những gì khiến cô thấy cảm kích.”

“Có gì đâu ạ,” tôi nói.

“Rất nhiều là khác,” bà đáp.

“Ồ,” tôi nói, và hai người chúng tôi đứng trong yên lặng, nắm tay nhau như hai đứa trẻ bẽn lẽn trong một cuộc hẹn.

Một phút sau, Alice nói: “Cô không biết liệu cháu có thể giúp cô một việc không. Nghe có vẻ lạ lùng đấy.”

“Việc gì vậy cô?”

“Cô không biết liệu cháu có thể ôm cô và siết cô thật chặt không. Ý cô là thật chặt ấy.”

“Cô nói thật chứ?”

“Thật,” bà đáp. “Nhé!”

Tôi vụng về vòng tay qua vai bà và ôm siết lấy bà. Tôi không quen bà đến mức có thể từ chối. Tôi hít lấy mùi tóc của bà.

“Hãy chặt hơn nữa,” bà nói. “Đừng e dè với cô. Cô không muốn một người đối xử lịch thiệp với mình ôm lần cuối đâu.”

Tôi hít một hơi thật sâu và áp Alice vào ngực mình. Tôi có thể cảm thấy bộ ngực nhỏ bé của bà qua lớp áo lót, cả xương sườn và sống lưng của bà. Tôi có thể nhận ra bà rất gầy.

“Tuyệt,” bà nói. “Chặt hơn nữa đi.”

Tôi nắm lấy cổ tay bên kia của mình, như một đô vật, và siết bà thật chặt cho đến khi tôi nghe tiếng bà thở dồn. Tôi nhận thấy bà cũng đã ôm tôi.

“Ôi Chúa ơi,” bà thì thầm. “Hãy ôm cô chặt hơn nữa. Đừng thả ra.”

Tôi vẫn ôm bà khi một chiếc ô tô dừng lại ở cửa trước. “Bobby và Jonathan đã về,” tôi nói, nới lỏng vòng tay.

“Ôi, không,” bà nói. “Cô cần tránh chúng thêm một lát nữa.”

Cửa xe đóng lại. “Không sao đâu cô, sẽ ổn thôi,” tôi bất lực nói.

“Cô chưa sẵn sàng,” bà nói. “Cô cần một chút thời gian nữa.”

Cửa trước mở ra. Chẳng có nơi nào để đi cả. Bức tường bao kín quanh sân, cao đến ngực, và phía bên kia là những tòa nhà giống hệt như thế này. “Cô đến đây,” tôi nói. Tôi dắt bà đến góc xa nhất của sân, nơi ánh đèn ít chiếu tới nhất.

“Cô hãy đứng đây,” tôi nói, để bà đứng trong góc tường. Tôi có thể nghe tiếng Jonathan gọi mẹ cậu. Một ô cửa sổ lấp lánh ánh đèn.

“Cô đâu có khóc,” bà nói. “Đúng không?”

“Đúng. Cô cứ đứng đây,” tôi nói. Tôi đứng che trước mặt bà, quay lưng về phía ngôi nhà, chặn lấy ánh sáng.

Bobby nhanh chóng mở cửa sau và đứng trên ngưỡng cửa, một cái bóng hắt xuống qua ánh đèn. “Clare à?” Anh gọi. “Cô Alice ơi?”

“Bọn em không sao, Bobby ạ,” tôi nói. “Vào trong đi. Bọn em sẽ vào ngay.”

“Có chuyện gì thế?” Anh hỏi. “Có chuyện gì không thế?”

“Ôi, đừng để nó ra đây,” Alice nói.

“Không có gì đâu, anh yêu ạ,” tôi gọi với. “Bọn em không sao. Hãy vào đi mà.”

“Sao thế?” Anh bước ra thảm cỏ và đứng cách chúng tôi vài bước. Anh chống tay trên hông, như một người cha đang tức giận. Tôi chưa bao giờ thấy ghét anh đến thế.

“Gì thế?” Anh nói.

Lúc đó, Alice bật khóc vì xấu hổ và đau buồn. Những tiếng nức nở khô khốc kéo dài bị chặn lại nơi cổ họng bà và tạo ra một âm thanh nghẹn ngào. “Cô Alice à?” Bobby hỏi.

“Dĩ nhiên đó là cô Alice,” tôi nói. “Vào trong đi.”

Anh đến và đứng cạnh tôi. “Cô Alice?” Anh nói, như thể anh không nhận ra bà.

Tôi đặt tay lên vai bà. Tôi không định ôm bà. Tôi chỉ giữ lấy bà, để bà không có cảm giác hụt hẫng.

“Ôi, cô Alice, con xin lỗi,” anh nói. “Ôi Chúa ơi, con rất, rất xin lỗi.”

“Con đâu có làm...” là tất cả những gì Alice có thể thốt ra.

Bobby hít một hơi thở mạnh và cũng bật khóc. Tôi muốn đấm anh. Sao anh dám tỏ ra yếu đuối trong một khoảnh khắc như thế này? Tôi thực sự đã giơ một tay lên để làm thế, để tát anh thật mạnh. Tôi đã luôn muốn làm một động tác như vậy. Nhưng tay tôi dừng lại nửa chừng và thay vào đó, theo đà của sự kiềm chế, nhẹ nhàng đặt lên lưng anh. Tôi còn có thể làm mình với tay mình nữa? Tôi không phải mẫu người anh hùng. Tôi không định dùng bạo lực. Bobby rung lên, và khi tôi chạm vào anh, sự run rẩy của anh truyền qua tôi như một cú sốc điện. Tôi bất chợt nghĩ đến bố tôi. Đột nhiên tôi thấy ông hiện ra trong óc mình, rõ ràng như trong một tấm ảnh, điển trai và ngạo mạn trong chiếc áo choàng mùa đông. Tôi để một tay trên người Alice và một tay trên người Bobby. Tôi có thể thấy bố tôi một cách rõ ràng, và mẹ tôi: phẫn nộ, giỏi giang, có tuổi trong chiếc áo khoác đỏ vai vuông. Tôi thấy Ned rõ rệt như thể tôi biết rõ ông, bị người vợ bất mãn xua đuổi, đang xem phim giữa lượng khán giả cứ ít dần đi, mơ về Faye Dunaway[59] hay Elizabeth Taylor[60].

[59] Faye unaway (sinh ngày 14 tháng 01 năm 1941): nữ diễn viên nổi tiếng người Mỹ.

[60] Elizabeth Taylor (sinh ngày 27 tháng 2 năm 1932): nữ diễn viên người Mỹ sinh tại Anh, nổi tiếng vì sắc đẹp và tài năng diễn xuất. Bà đã được Viện phim Mỹ xếp vào hàng ngũ những ngôi sao điện ảnh Mỹ vĩ đại nhất mọi thời đại.

Tôi ôm lấy Bobby và Alice, rồi bỗng dưng ngửa đầu ra sau và cười. Không phải vì có gì đó đáng cười. Mà tôi chỉ cười vậy thôi. Tôi biết tôi nên cảm thấy xấu hổ, vì đã cười trong một thời điểm như thế, nhưng mọi chuyện đã đi quá xa. Tôi quyết định không ngại ngùng gì hết, và thực sự cảm thấy thế. Tôi cứ cười mãi. Việc chẳng có gì đáng cười có vẻ chỉ càng làm cho tôi cười nhiều thêm.

Rồi một bàn tay e dè nhẹ nhàng đặt lên vai tôi. Đó là Jonathan, trông rụt rè và khao khát. Bằng cái chạm vai đó, cậu ngỏ ý muốn được cùng đứng vào trong vòng tròn. Tôi tạo khoảng trống giữa tôi và Bobby cho cậu, và vòng tay tôi qua vai cậu để tôi vẫn có thể đặt tay lên Bobby. Tôi vẫn cười. Tôi cảm thấy một thứ gì đó nặng nề bắt đầu lớn dần lên trong tôi, một thứ to lớn và ướt sũng, như một cục bột đã bị tôi nuốt từ lâu lắm rồi đến mức tôi đã quên bẵng đi làm nó đang nằm trong ruột tôi. Tôi cười bố tôi, một người say khướt bị hành hạ vì đã hiến mình cho sự dơ bẩn và lộn xộn, cười người mẹ mạnh mẽ, hay thù hằn của tôi. Tôi cười Ned, một con người mơ mộng đã hóa thành tro và xương, tôi cười Jonathan yếu đuối, cười Bobby và cười chính bản thân tôi, đã mang thai ba tháng sau sinh nhật tuổi bốn mươi với một người đàn ông mà tôi không chắc là mình có thích không. Tôi cười Alice, bị mắc kẹt trong một ngôi nhà “rởm” trong sa mạc vì bà không thể mường tượng ra một cuộc sống không có cái tủ chạn ở góc bếp. Và tôi cười trước tất cả những thứ vụn vặn dơ dáy.