Trái Tim Em Thuộc Về Đất

Chương 24




Vào sáng sớm của ngày trước ngày Hạ chí, Hazel đi lang thang trên những sườn đồi. Ở đó bầy cừu trong nắng sớm trông vàng rực như trong sách Phác âm, tha thẩn ăn trên những vạt cỏ ướt nhợt nhạt trông tựa như làn khói mỏng. Nàng không ghen tị trước sự yên bình của chúng như những con người hay ngượng ngập của xã hội văn minh thường ghen tị. Nhưng nàng nói với một con cừu trông rất nhàn nhã và thỏa mãn bằng giọng bâng khuâng, “Mày thoải mái lắm, phải không?” Trong lúc đi về nhà ăn sáng nàng cũng đã nghĩ như thế về bà Marston.

Sau đó họ đi hái quả lý chua, bà Marston ngồi trên ghế gấp đội chiếc mũ rộng vành hình nấm, chiếc mũ bao giờ cũng hơi nghiêng khiến bà trông có vẻ ngông nghênh. Mỗi khi một con chim két bay vọt ra khỏi bụi lý gai có những chùm quả đỏ sắp chín, cất lên tiếng kêu tức giận cho thấy sinh lực dồi dào của mình, bà lại ngẩng lên, nói, “Con chim hư đốn.” Bà thong thả hái lý gai và đặt chúng vào giỏ với vẻ hàm ơn. Hôm ấy trời nóng, nắng rực rỡ, một ngày khiến cho đám lá héo rũ và những thảm hoa nứt nẻ. Nhưng ở trong bóng râm của cây tần bì gần những bụi lý gai, không khí khá mát mẻ, và một làn gió nhẹ mang theo mùi cỏ xạ hương và mùi thơm của rêu đùa giỡn quanh vườn như một đứa trẻ vô hình.

Mười một giờ Martha mang bánh và sữa ra cho họ, còn Edward thì đã trở về sau khi đi thăm ông già Solomon đang ốm nặng. Sau đó họ lại tiếp tục hái quả, trong khi Edward đọc cho họ nghe vài trích đoạn của cuốn Quy luật tự nhiên. Hazel được tiếng đọc sách của chàng ru ngủ. Trong tiết trời nóng bức, tiếng đọc sách ấy hòa với tiếng vo ve của bầy ong bay quanh vạc mẫu đơn đỏ, tiếng cắt cỏ từ xa xa vọng lại, màn độc thoại đều đặn trang nghiêm của một con chim két giấu mình trong một cây dẻ nở hoa hồng rực. Hazel cảm thấy thích được đi hái quả lý gai mãi mãi, mỗi ngày lại thêm giống bà Marston hơn, để rồi cuối cùng (có thể là bằng lòng nhân từ tuyệt đối) trở thành một người bà. Dường như cuộc sống của nàng không có chỗ dành cho Reddin, không có thời gian dành cho Rừng Của Thợ Săn. Nàng nghĩ, “Mình sẽ không đi. Mình sẽ ở lại với Ed’ard, và sẽ chẳng có tai họa nào đến với mình hết.” Nhưng một giọng dứt khoát lại nói với nàng rằng nàng phải đi, và lòng nàng lại ngổn ngang những cảm xúc mà nàng thậm chí chưa bao giờ tưởng tượng ra. Trong khi những cảm xúc ấy đấu tranh với nhau như những con vật trong bóng tối. Hazel, ngồi trong bóng râm thoang thoảng hương quả lý gai, ngủ thiếp đi, và bởi vì bà Marston hẳn là chưa bao giờ làm cái việc đánh thức ai đó đang ngủ, bà ngủ luôn cho đến khi Martha rung chuông báo hiệu giờ ăn tối. Vậy là một ngày nắng vàng, yên bình trôi qua nhường chỗ cho buổi tối đầy sức sống. Đó là một ngày mà Hazel nhớ mãi.

Khi bóng râm vươn dài và màn sương bắt đầu buông xuống, khi hoa cúc trên những ngôi mộ làm cho ngôi nhà tràn ngập mùi hương ngây thơ thoang thoảng và khép những cánh hoa cỏ viền màu hồng của chúng lại trước màn đêm. Hazel cảm thấy rất khổ sở. Đó là đêm nàng sẽ đi tìm dấu hiệu cuối cùng – một bông dương xỉ diều hâu – và với bông hoa đỏ ở dưới gối, nàng mơ thấy bất cứ ai thì người đó chắc chắn là người yêu của nàng. Nàng cảm thấy mình làm như vậy là phản bội Edward. Nàng và Edward đã kết hôn. Vậy thì làm sao nàng có thể có người yêu khác ngoài Edward chứ? Tại sao nàng lại đi tìm dấu hiệu đó? Nàng suy nghĩ về những câu hỏi đó trong đầu khi cầu nguyện, nhưng không có lời đáp nào dành cho các câu hỏi của nàng. Cuộc sống là bà mẹ lầm lì, và bà mẹ đó dạy dỗ con mình bằng roi vọt nhiều hơn là bằng sự chỉ dẫn. Edward đang đọc Kinh Thánh Thị Thiên 23, bài kinh luôn khiến mẹ chàng cảm động đến rơi lệ, và trong khi đọc giọng của chàng rất dịu dàng, “…Dẫn tôi đến mé nước bình tịnh.”

Căn phòng tràn ngập sự tán tụng và cảm xúc mạnh mẽ của sự tin cậy.

“Mình đã đi dọc mé nước,” Hazel nghĩ, “và ngắm những con chim bạc má bay lượn. Và mình nghĩ đó là mé nước bình tịnh. Chỉ có điều ông Reddin đã đến, làm lũ chim sợ hãi và khiến dòng nước đục ngầu.” Nàng không cảm thấy chắc chắn như những người khác về mé nước bình tịnh.

“Hay quá, con ạ,” bà Marston thì thầm, “giống ông bố tội nghiệp của con quá.”

Lời chúc ngủ ngon của Edward dành cho Hazel cộc lốc hơn thường lệ, Nàng trông đáng yêu một cách đầy bí ẩn. Sự căng thẳng của trí óc đã khiến khuôn mặt nàng mang đậm vẻ đẹp tinh thần, mà ở đời thì chằng có gì khuấy động cảm xúc say đắm bằng vẻ đẹp tinh thần. Nàng mặc một chiếc váy dài có kiểu dáng gọn gàng gợi nhớ đến những món đồ sứ cổ, và gài một nhành cúc trên bờ vai.

Trong một giây, khi nàng ngẩng đầu lên để chàng hôn, đứng trên ngưỡng cửa phòng riêng mờ trong ánh trăng, Edward lưỡng lự. Rồi chàng đột ngột quay gót và đóng cửa phòng mình lại.

Cơ hội cuối cùng của chàng đã đến. Cơ hội cuối cùng của chàng đã trôi qua.

Hazel đứng bên cửa sổ đọc quẻ.

“Vào đêm Hạ chí, vào lúc nửa đêm hãy trải áo lót của bạn ra chỗ có những cây dương xỉ diều hâu. Vì đây là đêm dương xỉ nở vào lúc nửa đêm. Nhưng trước khi trời sáng nó sẽ héo. Hãy quay trở lại vào lúc con chim đầu tiên cất tiếng hót. Nếu bạn thấy có gì trên áo lót thì hãy nhặt lấy; đó là bụi của hoa. Hãy ngủ trên những hạt đó, và bạn sẽ mơ thấy người yêu của mình. Quẻ này chắc chắn không thể sai.”

Nàng lấy một chiếc áo lót sạch từ trong ngăn tủ ra và khi chiếc đồng hồ ở đầu cầu thang báo mười hai rưỡi đêm, nàng lẻn ra sườn đồi để trải và vuốt áo cho thẳng thớm thì cũng là lúc mặt trăng ló ra khỏi đám mây, hắt bóng đen to của nàng lên sườn đồi. Sợ hãi, nàng chạy về nhà, cời lửa và tự pha cho mình một tách trà để giữ cho mình tỉnh táo.

Ngồi uống trà trong phòng khách mờ tối, nơi những thứ quen thuộc trông thật kỳ quái, nàng nghĩ đến Reddin và những hành động lạ lùng của gã kể từ sau đám cưới của nàng.

“Edward sẽ tức giận nếu như chàng biết chuyện,” nàng nghĩ. “Tại sao ông Reddin cứ đến khi mà ông ta biết rõ mình không muốn ông ta làm thế?”

Cổ và thái dương nàng đỏ rần lên khi nàng đoán ra phần nào câu trả lời.

Nàng đợi đến gần hừng đông – một giờ thai nghén tương lai. Giờ đó đầy hy vọng; bởi vì có việc quan trọng nào không thể được thực hiện, ý tưởng siêu phàm nào cho âm nhạc hoặc thơ ca hay hội họa lại bị giam hãm, cảm xúc hiếm hoi nào lại bị nỗi đau đớn át đi trong thời khắc ngày đang tới chứ? Đó cũng là giờ của đau khổ ngập tràn; bởi bao nhiêu thứ đẹp đẽ sẽ bị chà đạp, những giấc mơ bị xé tan, những linh hồn nhạy cảm bị đóng đinh câu rút trong thời khắc nhập nhoạng giữa ánh sáng và bóng tối? Bởi vì đàn chó săn ma giờ nào cũng hoành hành, ngày cũng như đêm; đàn chó đó không phải là bóng ma nhợt nhạt của những giấc mơ. Chúng không được tạo thành từ những con chó săn với đôi mắt dữ tợn – “Giai điệu” rùng rợn, một “Khúc nhạc” khủng khiếp – mà từ những người đồng chí của chúng ta, tất cả đều có sức mạnh mà không có lòng trắc ẩn. Đôi khi bạn bè và họ hàng, những người thân thiết nhất của chúng ta, lại đi đâu; đứng trước cửa tử, cất tiếng kêu cảnh báo khi phát hiện thấy chúng trong khi chúng ta nấp vào nơi ẩn náu trong hy vọng. Trước đàn chó săn ma, sự giết chóc không khiến chúng ta kinh hãi bằng sự thiếu động lực để dừng việc giết chóc. Bởi vì thế giới được tạo thành và xây dựng trên cái chết, và hiện thực về cái chết không phải là điều để người ta đặt câu hỏi hay sợ hãi. Cái chết là một giấc mơ u ám, nhưng nó không phải là một cơn ác mộng. Chính sự thiếu nhân từ và lòng trắc ẩn của loài người, thiên hướng gây đau đớn cho kẻ khác có tính tiền định của loài người mới là ác mộng. Khi một người đàn ông hoặc một người đàn bà đứng trước nỗi kinh hoàng tuyệt vọng mà không có sự thôi thúc từ bên trong để thực hiện hành động cứu rỗi, thì thế giới sẽ trở thành địa ngục. Chính điều này, cái điều lờ mờ nhưng lại được cảm nhận một cách mãnh liệt, đã khiến Hazel lùi bước trước Reddin. Bởi vì nếu có sự thôi thúc cứu rỗi và không có cái đầu của một kẻ tàn ác thiếu lòng trắc ẩn, làm sao gã có thể theo đuổi lạc thú đơn thuần của việc gây ra đau đớn một cách hoàn toàn không cần thiết, chẳng hạn như việc săn cáo?

Nàng nhìn sao Kim lùi xa khỏi hồ nước bạc. Lòng tràn ngập cảm giác lo lắng. Liệu nàng có mơ thấy Reddin không? Liệu nàng có ngủ được không? Chiếc ghế tựa của bà Marston hiện ra lờ mờ trong ánh sáng đang dồn tụ lại, và nàng lại cảm thấy có lỗi.

Bầu trời phía Đông biến đổi, như thể ai đó đã thắp một ngọn đèn ở đó. Nàng mở cửa sổ, và sự ngọt ngào không tả xiết của bình minh ùa vào. Bụi tử đinh hương ở gần cửa sổ bếp đưa đến thứ hương thơm đậm đà, kích thích giác quan. Nàng hít hà mùi hương vào sâu trong lồng ngực, và nghĩ đến chiếc váy màu xanh của Reddin, nghĩ đến vẻ lạ lùng trong mắt gã khi gã nhìn nàng đăm đăm. Giờ đây mỗi khi nàng nghĩ đến Reddin, cảm giác phục tùng kỳ quặc vô cùng lạ lẫm lại tìm đến với nàng. Gã trông như thế nào, gã sẽ nói gì, gã sẽ điên cuồng ôm nàng nếu nàng đến Rừng Của Thợ Săn chăng? Niềm hân hoan không mong muốn xâm chiếm lấy nàng khi nàng nghĩ về điều đó. Nàng băn khoăn tự hỏi, tạo sao Edward không hôn nàng như Reddin đã hôn nàng. Nàng đối với chàng giống như một đứa con đối với cha mẹ.

Bỗng nhiên con chim đầu tiên cất lên tiếng hót trong như tiếng bạc, làm xáo động bóng tối. Đó là một con chim chiền chiện, và trong sự im lặng mênh mông bài ca của nó dường như xao động hơn thường lệ. Trước nốt nhạc đầu tiên của bài hát đó, mọi ý nghĩ về Reddin trong đầu Hazel lùi mất. Dường như sự trong trẻo, tinh khôi và âm nhạc trong tâm trí nàng đều dẫn lối đến Edward. Nàng không nghĩ đến ai khác, chỉ nghĩ đến chàng trong lúc chạy trên thảm cỏ điểm những hạt sương nhỏ li ti để lên đồi.

“Có lẽ sẽ không có bông hoa nào, và như thế quẻ đó không đúng,” nàng nghĩ trong hy vọng. “Nếu quẻ đó không đúng, mình sẽ không thể mơ được, và mình sẽ không đi đến đó.”

Nhưng khi đi tới chỗ chiếc áo lót màu trắng được đặt lúc trước, ẩm ướt và mờ nhạt trong ánh sáng lờ mờ, nàng hít thật sâu. Ở chính giữa chiếc áo có một cánh hoa nhỏ xíu màu xanh. Sự nhỏ bé của cánh hoa đó chứng tỏ cho nàng thấy phép mầu nhiệm. Đó là một bông hoa thần tiên. Nàng cung kính nhặt nó lên và đi về nhà với vẻ trang nghiêm như một đứa trẻ bước vào nhà thờ. Khi nàng đặt mình xuống giường, với cánh hoa màu xanh để dưới gối, chẳng mấy chốc nàng chìm vào giấc ngủ. Nàng mơ thấy Reddin, bởi gã chiếm cứ ý nghĩ của nàng nhiều hơn Edward, chàng kích thích cảm xúc của nàng, trong khi Reddin lại khuấy động bản năng của nàng. Choàng tỉnh vì tiếng gõ cửa của Martha, nàng tự nhủ, với cảm giác hân hoan pha lẫn chán nản:

“Các dấu hiệu bảo mình hãy đi đến đó. Mình phải đi. Cáo Nhỏ muốn mình đi.” Có lẽ nàng sẽ không tin dấu hiệu thứ ba chẳng phải là một bông hoa thần tiên, mà chỉ là một cánh hoa thuộc loại em út của họ hàng nhà dương xỉ diều hâu – bị chính bàn tay căng thẳng của nàng làm rụng trong đêm hôm trước.