Trời Sinh Quyến Rũ

Chương 7




Riley Patriot sống ở Nashville, Tennessee, trong một ngôi nhà gạch trắng có sáu cái cột trắng, sàn đá hoa cương trắng và một chiếc Mercedes-Benz trắng bóng lộn trong ga ra. Trong phòng khách, một chiếc piano trắng khổng lồ đặt gần một bộ đôi sofa trắng đồng bộ trên một tấm thảm trắng muốt. Riley không được phép vào phòng khách kể từ khi lên sáu, lúc con bé xịt tung tóe một hộp nước nho ép ở đó.

Mặc dù giờ Riley đã mười một tuổi, nhưng mẹ con bé vẫn chưa bao giờ tha thứ hay quên - không chỉ là vụ nước nho ép, mà còn rất nhiều thứ khác - và giờ thì mọi chuyện đã quá muộn. Mười ngày trước, cả đám người đã thấy mẹ con bé, Marli Moffatt, ngã qua hàng rào chấn song bị gãy trên boong con tàu hơi nước Old Glory xuống dòng sông Cumberland. Mẹ con bé đã đập đầu vào thứ gì đó khi rơi xuống nước, khi ấy là ban đêm, và lúc người ta tìm thấy mẹ nó thì đã quá muộn. Ava, aupair[1] thứ mười triệu của Riley, đã dựng con bé dậy để báo cái tin đó.

[1] Aupair: một từ đã được quốc tế hóa, dùng để chỉ những sinh viên được gửi ra nước ngoài sống như một thành viên trong gia đình nhận nuôi. Aupair sẽ giúp gia đình nhận nuôi các công việc như trông trẻ, làm việc nhà và hằng tháng sẽ có một khoản tiền tiêu vặt. Đổi lại họ được miễn phí ăn ở để thực hiện việc học hành của mình.

Giờ, một tuần rưỡi sau đó, Riley đang trên đường bỏ trốn để tìm anh trai nó.

Dù mới chỉ cuốc bộ có một tòa nhà kể từ nhà nó, nhưng chiếc áo phông đã bám dính vào da con bé, thế nên Riley bèn mở khóa áo phao màu hồng. Chiếc quần nhung kẻ màu hoa oải hương của nó là cỡ mười hai to đùng, thế mà vẫn quá chật. Em họ Trinity của nó chỉ mang đồ cỡ tám nhỏ, nhưng chỉ riêng bộ xương không có chút da thịt nào của Riley thôi cũng đã to hơn cỡ tám nhỏ ấy rồi. Con bé chuyển cái ba lô nặng trịch sang tay bên kia. Trọng lượng hẳn sẽ nhẹ hơn nhiều nếu nó để lại cuốn sổ ảnh lưu niệm, nhưng con bé không thể làm thế.

Nhưng ngôi nhà trên con phố nhà Riley nằm sát với đường, vài căn phía sau cổng, nên chẳng có chút vỉa hè nào, nhưng vẫn có đèn đường và Riley cố tránh chúng trong khả năng có thể. Không có nghĩa là ai đó sẽ đi tìm nó. Chân nó bắt đầu ngứa ran, và nó cố gãi qua lớp quần nhung, nhưng như thế chỉ càng làm cho cảm giác ngứa ngáy tệ hơn. Đến lúc con bé thấy chiếc xe đỏ ọp ẹp của Sal ở cuối tòa nhà tiếp theo thì hai chân nó đã như trên lửa.

Sal đỗ xe dưới một ngọn đèn đường, như một tên ngốc, và đang hút thuốc lá theo kiểu phập phù giập cục. Khi thấy nó, hắn ta bắt đầu liên láo nhìn quanh, như kiểu nghĩ là cảnh sát có thể xuất hiện bất cứ lúc nào. “Đưa tiền cho tao,” hắn bảo khi con bé đến gần chiếc xe.

Riley không thích đứng dưới ngọn đèn nơi mà bất kỳ ai đi ngang qua cũng có thể thấy chúng, nhưng tranh cãi sẽ mất nhiều thời gian hơn là đưa tiền cho hắn. Riley ghét Sal. Hắn làm trong đội chăm sóc cây cảnh của bố hắn mỗi khi không đi học, đó là lý do Riley biết hắn, nhưng không phải là lý do con bé ghét hắn. Riley ghét hắn vì hắn cứ tự xoa bóp mình khi hắn nghĩ là chẳng có ai đang nhìn, rồi hắn khạc nhổ, và hắn nói những thứ bẩn thỉu. Nhưng hắn mười sáu tuổi rồi, và kể từ khi hắn lấy được bằng lái từ bốn tháng trước, Riley đã trả tiền để hắn đưa nó đi chỗ này chỗ kia. Hắn là một tài xế dở ẹc, nhưng trước khi đủ mười sáu tuổi, Riley chẳng có nhiều lựa chọn cho lắm.

Con bé rút tiền từ túi trước của chiếc ba lô màu xanh. “Giờ là một trăm đô. Tôi sẽ đưa anh phần còn lại khi chúng ta đến trang trại.” Đã xem rất nhiều phim điện ảnh, nên nó hoàn toàn biết người ta nên chia tiền ra thế nào.

Hắn trông như thể muốn vồ ba lô của con bé, nhưng như thế sẽ chẳng có ích gì cho hắn, vì con bé đã giấu phần tiền còn lại trong tất. Hắn đếm tiền, mà theo Riley như thế thật thô bỉ vì nó đang đứng ngay trước mặt hắn, chẳng khác nào gọi nó là kẻ lừa đảo hạng nặng vậy. Cuối cùng, hắn nhét tiền vào túi quần jean. “Ông già tao mà phát hiện ra chuyện này là nện tao nhừ tử luôn đấy.”

“Ông ta sẽ không phát hiện ra từ tôi được. Anh là kẻ duy nhất ba hoa thôi.”

“Mày đã làm gì với Ava?”

“Peter sẽ ở lại qua đêm. Chị ấy chẳng biết được đâu.”

Aupair của Riley đến từ Hamburg nước Đức từ hai tháng trước. Peter là bạn trai của Ava, và tất cả nhưng gì họ làm với nhau là hôn hít. Khi mẹ Riley còn sống, Ava không được phép cho Peter vào nhà, nhưng khi bà qua đời rồi thì gần như đêm nào anh ta cũng ngủ lại. Phải đến bữa sáng thì Ava mới phát hiện ra Riley đã bỏ đi, mà ngay cả lúc đó cũng chưa chắc, vì mai hai người họ không phải đi học do có hội thảo cuối năm của giáo viên. Riley đã dán một mẩu giấy lên cửa phòng viết là nó bị đau bụng và đừng đánh thức nó dậy.

Sal vẫn chưa vào xe. “Tao muốn hai trăm rưỡi. Tao quên mất vụ xăng xe.”

Riley kéo cửa xe, nhưng hắn đã khóa cửa. Con bé gãi chân. “ Tôi sẽ đưa anh thêm hai mươi đô nữa.”

“Mày giàu mà. Mày đâu cần phải kẹt xỉ thế.”

“Hai lăm đô, và chỉ thế thôi. Tôi nói thật đấy, Sal. Tôi chẳng muốn đi đến mức đấy đâu.”

Dối trá trắng trợn. Nếu không muốn đến trang trại của anh trai nó thì nó đã tự khóa mình trong ga ra và nổ máy chiếc Benz của mẹ nó - nó biết cách - rồi ngồi trong xe cho đến khi ngạt thở mà chết. Chẳng ai có thể bắt nó ra ngoài, kể cả Ava, hay dì Gayle của nó hay thậm chí là bố nó - làm như bố thèm quan tâm nó có chết hay không vậy.

Sal hẳn phải tin nó vì cuối cùng hắn cũng mở khóa cửa. Riley thả chiếc ba lô xuống sàn ghế trước, rồi chui vào thắt dây an toàn. Bên trong chiếc xe bốc mùi thuốc lá va mùi hamburger thiu. Nó lôi bảng chỉ dẫn từ MapQuest[2] trong ngăn có dây khóa của chiếc ba lô ra. Sal ngoặt xe ra khỏi lề đường mà chẳng buồn nhìn xem có chiếc xe nào trờ tới hay không.

[2] MapQuest: trang web trực tuyến miễn phí cung cấp bản đồ và chỉ dẫn đi lại của Mỹ.

“Cẩn thận”

“Thả lỏng đi. Đã nửa đêm rồi. Chẳng có ai đâu.” Hắn có mái tóc nâu bết bền bệt, và vài cọng râu trên cằm mà hắn nghĩ là làm mình trông rất ngầu.

“Anh phải đi trên đường cao tốc số 40,” nó nói.

“Làm như tao không biết ấy.” Hắn quăng điếu thuốc qua cửa sổ xe. “Trên radio giờ người ta toàn mở đĩa của chị em nhà Moffatt. Tao cá mày phải kiếm được cả triệu đô.”

Tất cả những gì Sal muốn nói đến là tiền và sex, mà Riley tuyệt đối không muốn hắn nói về sex, nó bèn giả vờ nghiên cứu bản đồ, mặc dù nó đã thuộc lòng mọi thứ.

“Mày thật may mắn,” Sal tiếp tục. “Mày chẳng phải làm việc hay gì cả, thế mà vẫn có cả đống tiền ấy.”

“Tôi có được tiêu đâu. Tiền vào tài khoản ủy thác của tôi hết.”

“Mày có thể tiêu chỗ tiền mà bố mày cho mày.” Hắn chỉ lái xe bằng một tay, nhưng nếu Riley nói gì về chuyện đó, hắn sẽ nổi điên lên ngay. “Tao đã thấy bố mày khi lão đến dự đám tang. Lão ta thậm chí còn nói chuyện với tao. Lão ta tử tế hơn mẹ mày nhiều. Nghiêm túc đấy. Một ngày nào đó tao sẽ mặc quần áo ngầu như lão và lượn lờ đây đó trên một con limo.”

Riley không thích người khác nói về bố nó, mà người ta thì cứ thích nói, như kiểu họ tưởng nó sẽ giới thiệu họ hay đại loại thế trong khi nó gần như chẳng bao giờ gặp được bố. Giờ khi mẹ nó đã mất, bố dự định chuyển Riley đến trường nữ sinh Chatsworth, một trường nội trú nơi tất cả mọi người sẽ ghét nó vì nó béo ị và sẽ chẳng ai muốn làm bạn với nó trừ phi muốn tiếp cận bố nó. Giờ nó đang học ở Kimble, nhưng đó không phải trường nội trú, và thậm chí chuyện học cùng lớp với đứa em họ Trinity còn tốt hơn là một ngôi trường phải ngủ lại đó. Nó đã cầu xin bố cho nó được ở lại Kimble và sống với Ava trong một căn hộ hay gì đấy, nhưng bố bảo là như thế không được.

Đó là lý do vì sao nó phải đi tìm anh trai nó.

Thực ra anh ấy là anh cùng cha với nó, và anh ấy là một bí mật. Chỉ một số người biết Riley và anh ấy là ruột thịt, và thậm chí Riley cũng không biết bố nó đã có một người con khác từ lâu, rất lâu rồi nếu nó không nghe lỏm được mẹ nó và bồ cũ của mẹ nói chuyện. Mẹ nó là một thành viên trong ban nhạc chị em nhà Moffatt, cùng với dì Gayle, mẹ của Trinity. Hai người họ đã biểu diễn cùng nhau từ khi mười lăm tuổi, nhưng đã sáu năm rồi họ chẳng có bài hit nào trong bảng xếp hạng quốc gia, và CD mới của họ Everlasting Rainbows cũng không được khả quan cho lắm, đó chính là lý do họ có mặt trên con tàu hơi nước tối hôm ấy, để tiến hành vụ quảng bá với cả đám đài phát thanh đến tham dự một cuộc hội thảo ở Nashville. Giờ, với thông tin đại chúng về vụ chết đuối của mẹ nó, bản CD đã leo lên đầu các bảng xếp hạng. Riley nghĩ mẹ nó sẽ vui vì chuyện này, nhưng nó chẳng chắc lắm.

Lúc mất mẹ nó ba tám tuổi, hơn dì Gayle hai tuổi. Cả hai người họ cùng gầy nhom với mái tóc vàng, ngực bự, vài tuần trước vụ tai nạn, mẹ Riley đã đến gặp bác sĩ làm mặt của dì Gayle và tiêm mấy mũi cho môi căng phồng. Riley nghĩ trông mẹ như một con cá, nhưng mẹ nó đã bảo nó giữ cái quan điểm ngu ngốc đó cho riêng mình. Nếu Riley biết trước mẹ nó sẽ ngã khỏi tàu chết đuối, nó sẽ chẳng bao giờ nói gì cả.

Góc cuốn sổ lưu niệm đâm vào cổ chân nó qua cái ba lô. Riley ước gì mình có thể lôi cuốn sổ ra xem ảnh. Chuyện đó luôn làm thấy nó khá hơn. Nó túm lấy bảng điều khiển. “Anh nhìn đường có được không? Đèn đỏ kìa.”

“Thì sao? Có cái xe nào lao đến đâu.”

“Nếu bị tai nạn, anh sẽ mất bằng cho xem.”

“Tao sẽ không bị tai nạn.” Hắn mở radio nhưng rồi lại tắt đi. “Tao cá là bố mày đã chơi đến cả chục nghìn đứa con gái rồi ấy nhỉ.”

“Anh im mồm đi!” Riley ước gì nó có thể nhắm mắt lại giả vờ mình đang ở đâu đó khác, nhưng nếu nó không trông chừng Sal lái xe, rất có thể hắn sẽ tông vào đâu đó.

Khoảng lần thứ một nghìn, con bé tự hỏi không biết anh trai có biết nó không. Năm ngoái, khi nó phát hiện ra chuyện về anh ấy, đó là điều thú vị nhất từng xảy đến với nó. Nó bắt đầu làm cuốn sổ ảnh lưu niệm bí mật ngay lập tức, dán từng bài báo trên Internet, thêm những bức ảnh của anh ấy mà nó tìm được trên báo và tạp chí. Trên ảnh anh ấy luôn tỏ ra hạnh phúc, như thể anh ấy chẳng bao giờ nghĩ những điều dơ bẩn về người khác, và như thể anh ấy có thể trân trọng bất kỳ ai, ngay cả nếu người đó không xinh đẹp hay không gầy hay mới có mười một tuổi.

Mùa đông năm ngoái, nó đã gửi cho anh ấy một lá thư đến trụ sở của đội Chicago Stars. Nó chưa nhận được hồi đáp gì, nhưng nó biết những người như bố và anh nó nhận nhiều thư đến nỗi họ chẳng tự mình đọc hết được. Khi đội Stars đến Nashville để thi đấu với đội Titans, nó đã lên kế hoạch đi gặp anh. Nó định lén trốn đi và tìm một chiếc taxi để đến sân vận động. Khi đã đến đó, nó sẽ tìm xem các cầu thủ ra từ cửa nào và chờ anh. Nó hình dung ra mình gọi tên anh rồi anh nhìn thấy nó, và nó nói, “Chào anh, em là Riley. Em là em gái của anh đây.” Cả gương mặt anh ấy sẽ sáng bừng hạnh phúc, rồi khi đã biết về nó, anh ấy sẽ bảo nó đến sống với anh hay thậm chí chỉ ở với anh trong kỳ nghỉ để nó không phải ở với dì Gayle và Trinity như lúc này.

Nhưng thay vì đến xem trận đấu của Titans, nó lại bị viêm họng phải nằm cả tuần trên giường. Kể từ đó, nó đã gọi đến trụ sở của Stars cả đống lần, nhưng dù nó có nói gì với người trực tổng đài thì họ cũng chẵng bao giờ cho nó số điện thoại của anh.

Họ đã ra khỏi Nashville, và Sal bật radio to đến nỗi ghế ngồi của Riley rung lên. Nó cũng thích mở nhạc to, nhưng tối nay trong khi nó lo lắng thế này thì không. Nó tìm ra thông tin về trang trại của anh trai nó vào cái ngày sau lễ tang khi nghe bố nói chuyện với ai đó trên điện thoại. Khi tra tìm cái thị trấn mà bố nó đã nhắc đến và thấy nơi đó nằm ở phía Đông Tennessee, nó đã hào hứng đến mức váng vất. Nhưng bố nó chẳng nói trang trại nằm chính xác ở đâu, chỉ bảo ở gần Garrison, và vì không thể hỏi bố, nó bèn sử dụng khả năng thám tử của mình.

Nó biết người ta mua nhà và trang trại từ các đại diện nhà đất vì bồ cũ của mẹ nó từng làm nghề này, vậy nên nó tra tìm trên Interner tất cả các công ty nhà đất quanh Garrison. Sau đó nó bắt đầu gọi cho họ bảo rằng nó đã mười bốn tuổi và đang làm một bản báo cáo về những người phải bán trang trại.

Hầu hết các đại lý nhà đất đều rất tử tế và kể cho nó nghe đủ các thể loại chuyện về mấy cái trang trại, nhưng vì những chỗ đó vẫn đang còn rao bán, nên nó biết đó không phải là của anh mình. Tuy nhiên, hai ngày trước, nó đã gặp được một chị làm thư ký, và chị ta đã kể Riley nghe về trang trại Callaway và chuyện một vận động viên nổi tiếng vừa mới mua trang trại đó, nhưng chị ta không được phép nói ra đó là ai. Người phụ nữ đó cho Riley biết cái trang trại đó nằm ở đâu, nhưng khi Riley hỏi liệu vận động viên nổi tiếng kia giờ có mặt ở đó không, thì chị ta bắt đầu nghi ngờ và bảo là chị ta phải đi. Riley suy luận như thế nghĩa là có. Ít ra nó cũng hy vọng thế. Vì nếu anh ấy không ở đó, nó chẳng biết mình sẽ làm gì nữa.

Một lần trong đời Sal lái xe cũng không qua tệ, có lẽ bởi vì đường cao tốc khá thẳng. Hắn xỉa ngón tay cái về phía ba lô của Riley và hét toáng lên át tiếng nhạc. “Mày có cái gì ăn không?”

Nó không muốn chia phần ăn nhanh của mình, nhưng nó cũng chẳng muốn hắn dừng lại. Rồi hắn lại bắt nó trả tiền cho xem, thêm nữa chuyến đi sẽ bị kéo dài, thế nên nó sục vào ba lô đưa cho hắn ít bánh quy giòn. “Anh đã nói gì với bố anh?”

Hắn dùng răng xé túi bánh. “Ông ấy nghĩ tao sẽ ngủ qua đêm ở nhà Joey.” Riley chỉ mới gặp Joey có một lần, nhưng nó nghĩ anh ta tử tế hơn Sal. Nó bảo cho Sal số đường phải rẽ, mặc dù cũng còn lâu mới đến nơi đó. Nhưng nó sợ nếu mình ngủ thiếp đi thì hắn sẽ phóng vọt qua mất, vì càng nhìn các đường kẻ trắng trên đường, nó càng khó ngăn hai mắt khỏi díp lại...

Thoáng cái, nó choàng tỉnh khi chiếc xe trượt vèo đi và bắt đầu quay tròn. Vai nó đập vào cánh cửa, dây an toàn siết lấy ngực nó. Trên radio, 50 Cent đang gào thét, và cái bảng thông báo kia đang lao thẳng vào chúng. Nó hét lên trong tiếng nhạc, và tất cả những gì nó có thể nghĩ đến là giờ nó không thể nào gặp anh trai nó hay sở hữu một trang trại nuôi cún khi nó lớn lên được nữa.

Ngay trước khi chúng đâm vào bảng thông báo, Sal giật mạnh vô lăng, và chiếc xe tròng trành khựng lại. Riley thấy gương mặt hắn trong ánh đèn bảng điều khiển. Miệng hắn há ra, mắt trợn trừng hoảng hốt. Nó không muốn chết, bất chấp những gì nó đã từng nghĩ về chiếc Benz của mẹ nó và cái ga ra.

Bên ngoài, sự yên tĩnh bao trùm lên chiếc xe. Bên trong, 50 Cent đang đọc rap, nhưng Riley thì thốt lên những tiếng thút thít, trong khi Sal đại loại là hớp không khí để thở. Đoạn đường cao tốc thoai thoải ở phía sau bọn chúng, và con đường tối thui, chỉ có ngọn đèn lớn đang chiếu sáng rọi xuống một bảng quảng cáo chợ của thuyền trưởng G. ĐỒ ĂN. BIA. ĐỒ UỐNG CÓ GA. BÁNH KẸP. Dù vô cùng muốn tìm anh trai nhưng nó ước gì mình đang nằm trên giường ở nhà. Đồng hồ trên bảng điều khiển chỉ 2:05.

Hắn quay xe vòng lai ngay chính giữa con đường đồng tối thui, thế nên nó biết là chúng đã xoay tròn về hướng ngược lại. Nách nó đẫm mồ hôi, còn tóc thì ướt bết vào da đầu. Tay nó run lẩy bẩy khi nó vuốt thẳng bản chỉ dẫn đường. Sal tắt radio mà không cần nó phải yêu cầu, và nó đọc lên những gì chúng phải làm, đi tiếp 5,9 dặm trên đường Smoky Hollow, sau đó rẽ phải vào đường Callway đi thêm 1,3 dặm, trang trại nằm ở đó.

Sal bảo nó đưa cho hắn một gói Cheese Nips nữa. Bản thân nó cũng ăn một gói và sau đó, vì vẫn còn quá sợ, nên nó lại ăn thêm ít bánh cốm gạo Rice Krispies Treats nữa. Nó buồn tiểu khủng khiếp, nhưng lại không thể bảo với Sal như thế, vậy nên nó siết chặt hai chân lại với nhau và hy vọng chúng sẽ đến nơi sớm. Sal không còn đi nhanh như trước nữa. Sau vụ suýt tông xe, hắn đã lái bằng cả hai tay, và hắn tắt radio. Chúng vượt qua đường Smoky Hollow vì trời quá tối không thấy được bảng chỉ và thế là phải quay lại.

“Sao mày cứ ngọ nguậy nhiều thế?” Sal vẫn có vể rất điên tiết, như thể chuyện hắn không chịu đi chậm lại khi ra khỏi đường cao tốc là lỗi của nó vậy.

Nó không thể nói là mình buồn tiểu. “Tôi mừng vì chúng ta gần đến nơi rồi.”

Nó đang căng mắt tìm bảng hiệu đường Callaway thì điện thoại của Sal đổ chuông. Cả hai cùng nhảy dựng lên. “Cứt thật.” Khuỷu tay hắn va vào cửa xe khi hắn cố lôi điện thoại ra khỏi túi áo khoác. Trông hắn thực sự hoảng sợ, và khi trả lời điện thoại, giọng hắn gần như the thé. “A lô?”

Ở tuốt phía bên kia chiếc xe, Riley vẫn có thể nghe thấy tiếng bố Sal gào lên, hỏi hắn đang ở chỗ chết tiệt nào và bảo hắn nếu không quay về ngay lập tức thì ông ta sẽ gọi cảnh sát. Sal sợ bố, và trông hắn như sắp sửa khóc òa lên. Khi ông bố đã cúp máy, Sal dừng xe ngay giữa đường và bắt đầu gào vào mặt Riley.

“Đưa tao số tiền còn lại! Ngay lập tức!”

Trông hắn như kiểu đang phát điên. Riley rúm người lại trên ghế. “Ngay khi chúng ta tới đó.”

Hắn túm áo khoác của nó mà lắc. Chút bong bóng dãi phì ra từ khóe miệng hắn. “Đưa tao không thì mày sẽ hối hận.”

Nó giập người ra, nhưng hắn làm nó sợ đến nỗi nó đá tung cả giày. “Tôi có tiền đây.”

“Nhanh lên. Đưa ngay cho tao!”

“Đưa tôi đến trang trại trước đã.”

“Nếu mày không đưa tiền cho tao ngay, tao sẽ đánh mày.”

Biết hắn nói thật, nó đành vồ lấy tất lôi tiền ra. “Tôi sẽ đưa cho anh khi chúng ta đến đó.”

“Đưa cho tao ngay lập tức!” Hắn vặn cổ tay nói.

Nó ngửi thấy mùi Cheese Nips trong hơi thở của hắn, cộng thêm mùi gì đó chua chua. “Bỏ tôi ra!”

Hắn nạy ngón tay của nó ra vồ số tiền. Rồi hắn giật tung dây an toàn của con bé, với qua người nó mở tung cửa. “Ra ngoài!”

Nó hoảng sợ đến nỗi bắt đầu khóc òa. “Đưa tôi đến trang trại trước đã. Đừng làm thế này. Xin anh đấy.”

“Ra ngoài ngay!” Hắn đẩy nó thật mạnh. Nó cố bám lấy cánh cửa, nhưng bị trượt ngã lăn ra đường. “Đừng có mà nói với ai đấy,” hắn gào lên. “Nếu mày nói với ai, mày sẽ hối hận.” Hắn quang ba lô của nó ra, sập cửa lại phóng đi.

Nó nằm giữa đường cho đến khi tiếng động cơ xe biến mất. Tất cả những gì nó nghe thấy là tiếng khóc của chính nó. Trời quá tối, là đêm tối nhất trong toàn bộ cuộc đời nó. Chẳng có cây đèn đường nào như ở Nashville, và thậm chí còn chẳng thấy trăng, chỉ có một khoảng xam xám sau những đám mây, hẳn là mặt trăng đang náu phía sau đó. Nó nghe thấy tiếng chân kéo lê và nhớ lại bộ phim nó đã xem, trong đó có một gã đàn ông nhảy từ trong rừng ra, bắt cóc cô gái nọ rồi đưa về nhà hắn và cắt nhỏ cô gái ra. Ý nghĩ đó làm nó sợ chết khiếp, đến nỗi nó vồ ngay cái ba lô rồi chạy băng qua đường về phía cánh đồng.

Khuỷu tay chỗ bị đập xuống đường lúc nó ngã giờ ran rát, chân thì đau, và nó buồn tiểu đến nỗi són một ít ra quần. Bặm chặt môi, nó vật lộn với khóa quần. Vì cái quần quá chật nên hì hục mãi nó mới kéo khóa xuống được. Nó dán mắt vào khu rừng bên kia đường trong lúc hành sự. Khi đã xong và tìm thấy một tờ giấy ăn, nó đã có thể thấy rõ hơn một chút trong bóng tối, và chẳng có gã nào lao ra từ rừng cây, nhưng răng nó thì vẫn đang va vào nhau lập cập.

Nó nhớ bản chỉ dẫn MapQuest. Đường Callaway không thể xa đến thế, và khi tìm thấy con đường đó, tất cả những gì nó phải làm là đi bộ 1,3 dặm đến trang trại; 1,3 dặm đâu có xa. Chỉ có điều nó chẳng nhớ được nó và Sal đang đi theo hướng nào.

Nó lấy ống tay áo khoác chùi mũi. Khi Sal đẩy nó ra khỏi xe, chẳng hiểu sao nó bị lăn đi một đoạn rồi mất phương hướng. Nó tìm một tấm bảng hiệu trong bóng tối, nhưng vì con đường đang lên dốc nên tất cả những gì nó có thể thấy là bóng tối. Biết đâu một chiếc xe hơi sẽ tới? Nhưng sẽ thế nào nếu một tên bắt cóc đang lái xe đó? Hay một kẻ giết người hàng loạt?

Nó nghĩ có thể lúc chúng đang đi lên dốc thì bố Sal gọi điện. Mặc dù không chắc lắm, nó vẫn nhặt ba lô lên và bắt đầu bước đi vì nó không thể ở đây mãi. Những tiếng động buổi đêm ầm ĩ hơn nhiều so với nó tưởng. Tiếng cú kêu như ma quỷ, gió thổi răng rắc qua các cành cây, và có nhưng âm thanh trơn tuột mà nó hi vọng không phải là rắn vì nó cực kỳ sợ rắn. Cho dù có cố kìm nén đến mức nào thì những tiếng thút thít khe khẽ vẫn buột ra từ miệng nó.

Riley bắt đầu nghĩ về mẹ. Nó đã nôn thốc vào thùng rác khi Ava báo cho nó biết tin đó. Đầu tiên, tất cả những gì nó có thể nghĩ đến là bản thân nó và chuyện gì sẽ xảy đến với nó. Nhưng sau đó nó nghĩ lại rằng mẹ thường hát những bài hát ngớ ngẩn cho nó nghe. Đó là khi Riley còn là một đứa nhóc dễ thương, trước khi nó phát phì và mẹ nó thôi không còn thích nó nữa. Trong suốt lễ tang, Riley cứ tưởng tượng ra cảnh mẹ nó hẳn phải hoảng sợ ra sao khi cảm thấy nước tràn vào phổi, và nó bắt đầu khóc dữ dội đến nỗi Ava phải đưa nó ra khỏi nhà thờ. Sau đó, bố nó bảo nó không được phép đến nghĩa trang lúc làm lễ mai táng, và bố cùng với dì Gayle đã cãi nhau to về chuyện đó, nhưng bố nó không sợ dì Gayle như những người khác, thế nên Ava đành đưa Riley về nhà, cho nó ăn bao nhiêu bánh pop-Tarts tùy thích, rồi đặt nó lên giường.

Gió quất lên mái tóc nâu rậm của Riley, chẳng phải màu vàng bóng mượt như mẹ nó hay dì Gayle và Trinity. “Màu này đẹp đấy, Riley. Như màu tóc ngôi sao điện ảnh vậy.”

Đó là những gì Riley tưởng tượng ra anh trai của nó sẽ nói về tóc nó. Anh ấy sẽ giống như bạn thân của nó vậy.

Càng đi xa lên trên đồi, nó càng khó thở hơn, và gió càng đẩy nó về sau mạnh hơn. Nó tự hỏi không biết mẹ nó trên thiên đàng có nhìn xuống nó lúc này và có khi còn đang cố nghĩ cách giúp nó hay không. Nhưng nếu ở trên thiên đàng thì hẳn mẹ nó đang tám chuyện điện thoại với bạn bè và hút thuốc rồi.

Chân Riley như thiêu đốt ở chỗ chúng cọ vào nhau, ngực nó nhức buốt, và nếu đang đi đúng hướng thì hẳn đến giờ nó phải thấy bảng hiệu rồi. Cái ba lô đã trở nên nặng đến nỗi nó phải kéo lê. Nếu chết ở đây, nó tự hỏi liệu có con sói nào ăn mất mặt nó trước khi có người tìm thấy nó không, mà có khi chẳng ai biết được đó là nó, Riley Patriot ấy chứ.

Khi vẫn chưa lên đến đỉnh đồi thì nó thấy một bảng hiệu kim loại uốn cong. ĐƯỜNG CALLAWAY. Cái bảng hiệu cũng dốc lên. Con đường nhựa vụn nát hai bên lề, và nó vấp ngã. Chiếc quần nhung kẻ của nó rách toạc, và nó băt đầu khóc, nhưng nó ép mình đứng dậy. Con đường này không thẳng như con đường vừa nãy mà ngoằn ngoèo khiến nó hoảng sợ vì nó không biết được có gì ở phía bên kia.

Nó gần như chẳng quan tâm mình có chết lúc này không, nhưng không muốn chó sói ăn mất mặt mình, nó bèn tiếp tục bước tới. Cuối cùng, nó đã lên đến đỉnh đồi. Nó cố nhìn xuống xem biết đâu thấy được trang trại, nhưng trời quá tối. Ngón chân nó bị ép chặt trong đôi giày thể thao khi nó bắt đầu xuống đồi. Cuối cùng, rừng cây cũng mở ra đôi chút, và nó thấy một hàng rào thép gai. Gió thổi lạnh ngát trên má nó, nhưng bên trong chiếc áo phao màu hồng người nó ướt sũng mồ hôi. Dường như nó đã cuốc bộ cả trăm dặm rồi. Sẽ thế nào đây nếu nó đã vượt qua trang trại mà thậm chí còn chẳng nhận ra?

Ở chân đồi, nó thấy một hình thù gì đó. Một con sói! Tim nó đập thình thịch. Nó chờ đợi. Có cảm giác trời phải sáng rồi mới phải, nhưng không. Hình thù đó không chuyển động. Nó thận trọng bước một bước về trước, rồi một bước nữa, càng lúc càng đến gần hơn cho đến khi nó thấy đó là một hộp thư cũ. Có lẽ có chữ ở bên hông, nhưng trời quá tối làm nó không đọc được, và dù sao thì chắc cũng chẳng phải tên anh nó, vì những người như anh và bố nó đều cố không để người ta biết nơi họ sống. Nhưng đây hẳn là trang trại của anh ấy, thế nên nó rẽ vào.

Con đường nay mới là tồi tệ nhất, toàn sỏi chứ không rải nhựa và cây cối cao to khiến trời càng tối hơn. Nó lại ngã, và gót chân nó nhức nhối vì sỏi. Cuối cùng, nó rẽ qua một khúc quanh nơi không còn cây cối và nhìn thấy ngôi nhà, nhưng chẳng có bóng điện nào sáng. Một bóng cũng không. Nhà nó ở Nashville có điện báo trộm, để nếu có trộm đến gần vào ban đêm thì nó sẽ sáng lên. Nó ước gì ngôi nhà này cũng có điện báo chống trộm, nhưng nó không nghĩ ở nông thôn có thứ này.

Nhấc ba lô lên đến gần, nó thấy nhiều nhà hơn. Có bóng dáng một cái nhà kho. Lẽ ra nó phải nghĩ đến chuyện mình sẽ làm gì nếu chẳng còn ai thức. Mẹ nó ghét phải thức dậy quá sớm. Có thể anh trai nó cũng thế. Tệ nhất là, sẽ thế nào nếu anh trai nó thực sự không có ở đây? Sẽ thế nào nếu anh ấy vẫn đang ở Chicago? Đó là điều mà nó đã cố hết sức không nghĩ đến.

Nó cần một nơi nghỉ trước khi trời sáng. Nó sợ phải đến nhà kho, thế nên nó nhìn về phía ngôi nhà. Từ từ, nó đi thẳng lên con đường mòn.