Vũ Khí Bóng Đêm 1: Thành Phố Xương

Chương 10




8

VŨ KHÍ TỰ CHỌN

Cô ngạc nhiên đến quên cả hét. Cảm giác rơi xuống là phần tệ nhất; tim cô như xóc lên họng và dạ dày có cảm giác như hóa nước. Cô vung tay ra, cố nắm lấy cái gì đó, bất cứ thứ gì có thể giúp cô rơi chậm lại.

Tay cô bám vào những cành cây. Những chiếc lá tuốt đi trong nắm tay. Cô ngã đánh rầm xuống nền đất, khá đau, hông và vai đập xuống nền đất nện. Cô lăn người, hít lấy hít để. Cô vừa mới ngồi dậy thì một người khác rơi đè lên.

Cô lại ngã ngửa ra sau. Một cái trán đập vào trán cô, đầu gối cô đụng phải đầu gối một người khác. Tay chân vướng víu, cô khạc mớ tóc (không phải của mình) ra khỏi miệng và cố vùng vẫy trước sức nặng có cảm giác như đang đè cô bẹp dí.

“Ối,” Jace phẫn nộ nói bên tai cô. “Em chọc cùi chỏ vào anh rồi.”

“À, thì vì anh đáp xuống mình tôi.”

Anh chống tay lên và điềm tĩnh nhìn xuống cô. Clary có thể thấy bầu trời cao xanh, vài nhánh cây, và góc một căn nhà ghép ván màu xám. “À, thì em cũng đâu cho anh lựa chọn nào đâu nhỉ?” anh hỏi. “Còn lựa chọn gì nữa khi em quyết định tung tăng phóc vào cái Cổng Dịch Chuyển đó như nhảy lên tuyến tàu nhanh vậy. May mà nó không quẳng em tới tận sông Đông ấy.”

“Anh không cần phải đi theo tôi.”

“Ồ có chứ,” anh nói. “Em quá là không có kinh nghiệm bảo vệ bản thân trong tình huống nguy hiểm mà không có anh ở bên.”

“Dễ thương ghê. Có lẽ tôi sẽ tha lỗi cho anh.”

“Tha lỗi cho anh? Lỗi gì nào?”

“Vì dám bảo tôi im miệng.”

Mắt anh nheo lại. “Anh không... Được rồi, anh có nói đầy, nhưng em...”

“Thôi bỏ đi.” Cánh tay cô, bị ghim chặt dưới lưng, bắt đầu bị chuột rút. Trong khi lăn người sang một bên để rút tay ra, cô trông thấy một mảng cỏ chết màu nâu úa, một hàng rào mắt cáo, và thêm phần lớn ngôi nhà bằng ván ghép màu xám nọ, giờ quen thuộc tới khó chịu.

Cô cứng người. “Tôi biết chúng ta ở đâu.”

Jace không còn ấp úng nữa. “Gì cơ?”

“Đây là nhà chú Luke.” Cô ngồi thẳng dậy, đẩy Jace sang bên. Anh nhẹ nhàng lăn người đứng dậy và chìa tay giúp cô đứng lên. Cô lờ tịt anh và loạng choạng đứng lên, lắc lắc cánh tay tê cứng.

Họ đang đứng trước căn nhà liên kết màu xám nho nhỏ, nằm giữa những căn nhà cùng kiểu khác dọc bờ sông Williamsburg. Một cơn gió nhẹ từ dòng sông Đông thổi tới, lay động tấm biển nhỏ treo phía trên những bậc tam cấp bằng gạch. Clary quan sát Jace trong khi anh lớn tiếng đọc những con chữ viết hoa, “Tiệm sách Garroway. Chuyên sách cũ trong tình trạng tốt, sách mới và sách đã ngừng xuất bản. Đóng cửa vào Thứ Bảy.” Anh liếc nhìn cánh cửa tối màu, một ổ khóa kiên cố ngàm chặt tay cầm cửa. Thư từ của nhiều ngày vứt la liệt trên thảm trải chân, chưa mảy may được động tới. Anh liếc nhìn Clary. “Ông ấy sống trong hiệu sách à?”

“Chú ấy sống đằng sau hiệu sách.” Clary liếc nhìn con đường vắng vẻ, một đầu là cây cầu Williamsburg cong cong, đầu kia là xí nghiệp làm đường bị bỏ hoang. Bên kia dòng nước đang lững lờ trôi, mặt trời đang lặn xuống sau những tòa nhà chọc trời của vùng hạ Manhattan, làm những tòa kiến trúc đó tắm trong ánh vàng kim. “Jace, chúng ta đã tới đây bằng cách nào thế?”

“Đi qua Cổng Dịch Chuyển,” Jace vừa đáp vừa săm soi ổ khóa. “Nó sẽ đưa em tới bất cứ nơi nào em đang nghĩ đến.”

“Nhưng tôi có đang nghĩ tới chỗ này đâu,” Clary phản đối. “Tôi đã chẳng nghĩ tới nơi nào hết.”

“Hẳn là em có nghĩ đấy.” Anh bỏ qua cái đề tài chẳng hứng thú tí nào này. “Vậy thì, vì đằng nào chúng ta cũng ở đây rồi...”

“Thì sao?”

“Em muốn làm gì?”

“Tôi nghĩ chúng ta đi về thôi,” Clary cay đắng nói. “Chú Luke bảo tôi không được đến đây.”

Jace lắc đầu. “Và em cam tâm sao?”

Clary vòng tay ôm người. Dù cái ấm của ban ngày còn vướng vất trong không khí, nhưng cô vẫn thấy lạnh. “Tôi có quyền lựa chọn à?”

“Chúng ta luôn có quyền lựa chọn,” Jace nói. “Nếu là em, ngay lúc này anh sẽ rất tò mò về chú Luke. Em có chìa khóa vào nhà không?”

Clary lắc đầu. “Không, nhưng đôi khi chú ấy để ngỏ cửa sau.” Cô chỉ vào con hẻm hẹp giữa nhà chú Luke và nhà bên cạnh. Những thùng rác bằng nhựa được xếp ngay ngắn bên cạnh những chồng báo xếp gọn gàng và cái thùng nhựa đựng những chai sô đa rỗng. Ít ra chú Luke vẫn có ý thức về chuyện tái chế.

“Chắc chú ấy không ở nhà chứ?” Jace hỏi.

Cô liếc nhìn lề đường vắng vẻ. “Ừ thì xe chú ấy không có ở đây, cửa hàng thì đóng cửa, còn đèn đóm thì tắt hết rồi. Tôi nghĩ là không.”

“Vậy dẫn đường đi thôi.”

Đường hông hẹp giữa những căn nhà kết thúc bằng hàng rào mắt cáo cao cao. Hàng rào bao quanh khu vườn sau nho nhỏ của nhà chú Luke, nơi thứ cây cỏ duy nhất đang mọc sum suê dường như chỉ có cỏ dại, xuyên qua kẽ nứt của những phiến đá lát đường, đâm chồi lên thành những phiến lá đầy bụi.

“Nhảy lên rồi qua,” Jace nói và nhét mũi giày vào khe hàng rào. Anh bắt đầu trèo lên. Hàng rào kêu rền rĩ làm Clary chột dạ nhìn quanh, nhưng không có lấy một ngọn đèn nào bên nhà hàng xóm được bật sáng. Jace lên đến đỉnh hàng rào rồi nhảy xuống phía kia, đáp xuống những bụi cây, kéo theo tiếng mèo nheo nhéo tru tréo đinh tai.

Thoạt tiên Clary cứ tưởng anh đã rơi trúng một con mèo hoang nào đó. Cô nghe thấy Jace hét lên vì ngạc nhiên khi anh ngã ra sau. Một cái bóng – quá lớn không thể là mèo được – phóng ra khỏi bụi cây lao băng qua sân, rạp mình sát đất. Jace lăn ngồi dậy, phóng đuổi theo nó, mặt sát khí đằng đằng.

Clary bắt đầu trèo. Khi cô cho một chân sang bên kia hàng rào, chiếc quần bò của Isabelle mắc vào một đầu lưới xoắn nên rách toạt một bên. Cô thả mình xuống đất, giày lún trong đất mềm, đúng lúc Jace la lên trong chiến thắng. “Bắt được nó rồi!” Clary quay lại thấy Jace ngồi trên kẻ đột nhập đang nằm sấp mặt, tay giơ cao quá đầu. Jace nắm lấy cổ tay hắn, “Nào, để bọn tao xem mặt mày nào...”

“Xuống ngay khỏi người tao, thằng khốn nạn hợm mình” kẻ đột nhập gầm ghè, xô đẩy Jace. Hắn vùng vằng đã gần ngồi dậy được, cặp mắt kính nát như tương lệch hẳn sang bên.

Clary đứng sững lại như trờitrồng. “Simon hả?”

“Ôi Chúa ơi,” Jace than, nghe chừng như thối chí. “Thế mà mình thực lòng hy vọng mình đã tóm được cái gì vui vui chứ.”

“ Nhưng sao cậu trốn trong bụi cây nhà chú Luke để làm gì vậy?” Clary hỏi, phủi lá cây đang dính trên tóc Simon. Cậu chàng chịu đựng sự chăm sóc của cô với vẻ vùng vằng. Không hiểu sao cô cứ hình dung ra cuộc hội ngộ với Simon, sau khi mọi chuyện qua đi, thì cậu ấy sẽ trong tâm trạng tốt hơn. “Đấy là phần mình không hiểu.”

“Được rồi, đủ rồi. Tự mình lo vụ đầu tóc mình được, Fray,” Simon nói, nảy người né khỏi tay cô. Họ đang ngồi trên bậc thềm sau nhà chú Luke. Jace đã tót lên ngồi trên hàng lan can, giả vờ lờ tịt hai người kia đi, trong khi dùng thanh stele giũa giũa móng. Clary tự hỏi liệu hội Clave có đồng ý với hành động đó không.

“Ý mình là, chú Luke có biết cậu ở đây không?” cô hỏi.

“Tất nhiên là không rồi,” Simon khó chịu nói. “Dù chưa khi nào hỏi, nhưng mình dám đảm bảo chú ấy có chính sách cực kỳ khắc khe với bọn choai choai ba vớ thập thò trong bụi cây nhà chú.”

“Cậu không phải thứ ba vớ; chú ấy biết cậu mà.” Cô muốn đưa tay chạm vào má bạn, vẫn hơi rên rỉ máu ở nơi cành cây cào phải. “Nhưng cái chính là cậu vẫn ổn.”

“Mình vẫn ổn ư?” Simon cười, một tiếng cười sắc lạnh, chẳng vui vẻ tí nào. “Clary, cậu có biết mình đã sống thế nào trong mấy ngày qua không? Lần cuối cùng mình thấy cậu, cậu chạy khỏi Java và Jone như dơi trốn khỏi địa ngục, và sau đó cậu...biến mất. Cậu không nghe điện thoại – điện thoại nhà cậu cũng không liên lạc được – sau đó chú Luke bảo với mình rằng cậu đang ở với vài người họ hàng phía bắc bang trong khi mình biết cậu chẳng có họ hàng người quen nào cả. Mình cứ tưởng mình đã làm gì đó khiến cậu giận.”

“Cậu đã có thể làm những gì nào?” Clary chạm vào tay bạn, nhưng cậu rụt lại ngay lập tức mà không thèm nhìn cô.

“Chả biết,” cậu nói. “Chuyện này chuyện nọ.”

Jace, vẫn đang chú mắt vào thanh stele, khe khẽ chậc lưỡi.

“Cậu là bạn thân nhất của mình,” Clary nói. “Mình không giận cậu đâu.”

“Vậy sao, hừ, cậu rõ ràng còn chẳng thèm gọi điện mà nói với mình rằng cậu đang đi chơi đêm với một tay nhuộm tóc vàng hoe tập tành bắt chước dân Gothic mà có lẽ cậu đã gặp tại Xứ Quỷ,” Simon chua chát. “Trong khi suốt ngày qua mình cứ sợ rằng cậu đã chết.”

“Mình không chơi bời gì,” Clary nói, bụng mừng thầm vì trời tối khi máu dồn lên mặt.

“Và tóc tôi là tóc vàng tự nhiên,” Jace nói. “Nói cho cậu rõ.”

“Vậy cậu đã làm gì trong ba ngày qua hả?” Simon nói, đôi mắt tối sầm lại vì nghi hoặc. “Cậu thực sự có một bà dì tên Matilda bị cúm gà và cần người chăm sóc cho khỏe lại à?”

“Chú Luke thực sự nói thế sao?”

“Không. Chú ấy chỉ bảo cậu đi thăm một người họ hàng bị ốm, và rằng co lẽ điện thoại cậu lên đến vùng quê đó thì không hoạt động được. Nhưng mình không tin. Sau khi chú ấy đuổi mình ra khỏi hiên trước, mình lỉnh sang hông nhà mà nhìn qua cửa sổ sau. Thấy chú ấy sắp đổ vào cái túi vải xanh như định đi nghỉ cuối tuần. Thế là mình quyết định lảng vảng quanh đây và để mắt tới mọi chuyện.”

“Vì sao? Vì chú ấy sắp đổ à?”

“Chú ấy mang đi đủ loại vũ khí,” Simon bảo, dùng tay áo phông lau máu dính trên má. “Dao rựa, vài con dao găm, cả kiếm nữa. Thú vị là, vài món vũ khí có vẻ như còn phát sáng nữa chứ.” Cậu nhìn Clary và Jace, rồi lại nhìn Clary. Giọng cậu ta sắc nhọn như một trong những lưỡi dao của chú Luke vậy. “Nào, cậu định nói là mình tưởng tượng ra chứ gì?”

“Không,” Clary đáp. “Mình không định nói vậy.” Cô liếc nhìn Jace. Tia nắng cuối ngày tạo nên ánh vàng lóe lên trong đôi mắt anh. “Tôi sẽ kể sự thật cho cậu ấy đây,” cô bảo.

“Biết.”

“Anh có định ngăn tôi không?”

Jace nhìn xuống thanh stele trong tay. “Lời thề của anh trước Hiệp Định ràng buộc anh,” anh nói. “Nhưng chẳng có lời thề nào ràng buộc em cả.”

Cô quay sang Simon, hít một hơi thật sâu. “Được rồi,” cô nói. “Đây là những điều cậu phải biết.”

Mặt trời đã lặn hẳn xuống đường chân trời, hiên nhà hoàn toàn chìm trong bóng tối khi Clary ngừng nói. Nãy giờ Simon lắng nghe lời giải thích dài dòng của cô với vẻ mặt gần như là dửng dưng, chỉ hơi nhăn mặt một chút khi Clary kể tới quỷ Ravener. Kể lể xong, Clary húng hắng cổ họng khô khốc, đột nhiên khát khao có được một cốc nước. “Vậy,” cô nói, “cậu hỏi gì không?”

Simon giơ tay. “À có chứ. Nhiều lằm.”

Clary thở dài mệt mỏi. “Được rồi, nói đi.”

Cậu chỉ tay vào Jace. “Rồi, anh ta là – cậu gọi những người như anh ta là gì ấy nhỉ?”

“Thợ Săn Bóng Tối,” Clary nói.

“Một thợ săn quỷ,” Jace giải thích. “Tôi giết quỷ. Không có gì phức tạp lắm đâu, thật đấy.”

Simon lại nhìn Clary. “Thật sao?” Hai mắt cậu nheo nheo, như thể đang mong cô sẽ nói rằng toàn bộ câu chuyện chẳng có khúc nào là thật và rằng Jace thật sự là một tên điên nguy hiểnm trốn trại mà cô đã quyết định đánh bạn cùng vì tinh thần nhân đạo.

“Thật.”

Trên mặt Simon hiện ra vẻ chăm chú. “Và có cả ma cà rồng nữa ư? Người sói, pháp sư, tất cả những thứ đó?”

Clary cắn môi dưới. “Mình được nghe là thế.”

“Và anh giết họ luôn?” Simon hỏi, hướng tới Jace, anh đã nhét thanh stele vào túi vàđang kiểm tra bộ móng đẹp hoàn hảo kia còn chút tì vết nào không.

“Chỉ khi họ làm loạn thôi.”

Trong một đỗi Simon chỉ ngồi đấy và nhìn trân trối xuống đôi bàn chân. Clary tự hỏi liệu bắt cậu bạn phải tiếp nhận một đống thông tin kiểu đó có phải là việc sai lầm không. Simon là một người sống lý tính hơn bất cứ ai cô biết; có thể cậu sẽ ghét phải biết những chuyện như vầy, những câu chuyện chẳng có lấy một lời giải thích khoa học nào. Cô lo lắng nhoài người lên trước, đúng lúc Simon ngẩng đầu. “Chuyện này tuyệt đỉnh,” cậu nói.

Jace trông bàng hoàng như Clary. “Tuyệt đỉnh á?”

Simon gật đầu nhiệt tình tới mức những lọn tóc xoăn trên trán nảy cả lên. “Hoàn toàn. Giống như game Dungeons và Dragons, nhưng là đời thực.”

Jace đang nhìn Simon như thể cậu là một loài bọ quái thai nào đó. “Giống cái gì?”

“Đó là một trò chơi”, Clary giải thích. Cô thấy hơi xấu hổ. “Mọi người giả bộ là pháp sư và yêu tinh và họ giết quỷ và mấy thứ đại loại thế.”

Jace trông đần thối.

Simon cười toe toét. “Anh chưa từng nghe nói tới Dungeons và Dragons sao?”

“Tôi đã từng nghe tới ngục thất,” Jace nói. “Rồng nữa. Dù chúng hầu như đã tuyệt chủng rồi.”

Simon có vẻ thất vọng. “Anh chưa bao giờ giết rồng?”

“Có thể anh ấy cũng chưa bao giờ gặp một nữ yêu tinh nào cao mét tám thân hình nóng bỏng mặc bikini lông thú nữa,” Clary khó chịu lên tiếng. “Bình tĩnh đi, Simon.”

“Những yêu tinh thật sự chỉ có tám inch thôi,” Jace cho biết. “Với lại, lũ ấy cắn đấy.”

“Nhưng ma cà rồng bốc lắm, đúng không?” Simon nói. “Ý tôi là, một vài con ma cà rồng là mấy cô em bá cháy, nhỉ?”

Trong thoáng chốc Clary hơi lo là Jace sẽ phóng qua hàng hiên để bóp cổ Simon đến xỉu mất. Nhưng không, có vẻ anh đang ngẫm nghĩ. “Có vài con, chắc là vậy.”

“Tuyệt,” Simon lặp lại. Clary quyết định là mình thích hai người này đánh nhau hơn.

Jace trượt khỏi lan can. “Vậy chúng ta có khám nhà hay không?”

Simon lục tục đứng lên. “Tôi tham gia. Chúng ta tìm gì nào?”

“Chúng ta ư?” Jace nói, nhẹ nhàng nhưng độc địa. “Tôi không nhớ có mời cậu đi cùng.”

“Jace,” Clary bực bội.

Khóe miệng bên trái của anh ta cong lên. “Chỉ đùa thôi.” Anh ta bước sang bên nhường đường cho cô tới cửa. “Ta đi nhé?”

Clary lần sờ nắm đấm cửa trong bóng tôi. Cửa mở, làm đèn hiên bật lên, chiếu sáng lối vào. Cánh cửa dẫn vào hiệu sách đã đóng; Clary xoay xoay cái nắm đấm. “Cửa khóa rồi.”

“Cho phép tôi nhé, hai bạn người thường,” Jace nói và nhẹ nhàng đẩy cô sang bên. Anh rút thanh stele ra khỏi túi áo và giơ trước cửa. Simon quan sát với chút tủi hờn. Clary đồ rằng, dù có bao nhiêu em ma cà rồng bá cháy đi nữa cũng chẳng thể khiến cậu thích Jace được cả.

“Tay này khó chơi lắm, phải không?” Simon thì thầm. “Sao cậu chịu được anh ta?”

“Anh ấy cứu mạng mình.”

Simon liếc vội sang cô. “Sao...”

Cách, cửa mở. “Vào thôi,” Jace nói và nhét thanh stele vào túi. Clary nhìn thấy Ấn Ký trên cửa – ngay phí trên đầu anh – đang mờ dần cùng lúc họ đi qua. Cánh cửa hậu dẫn vào một nhà kho be bé; những bức tường đã tróc sơn. Hộp bìa các tông chồng chất khắp nơi, những gì chứa trong hộp được đánh dấu ngoằn ngoèo bằng viết lông: “Viễn tưởng,” “Thơ,” “Nấu ăn,” “Điểm đến trong vùng,” “Tình cảm.”

“Nhà đằng kia.” Clary đi về phía cánh cửa cô chỉ, ở phía cuối nhà kho.

Jace nắm lấy tay cô. “Đợi đã.”

Cô lo lắng nhìn anh. “Có chuyện gì không hay à?”

“Anh không biết.” Anh chui vào giữa hai chồng hộp các tông cao ngất và huýt sáo. “Clary, hẳn là em muốn sang đây xem cái này này.”

Cô nhìn quanh. Trong kho khá tối, chỉ được chiếu sáng nhờ ánh đèn hiên hắt qua cửa sổ. “Quá tối...”

Ánh sáng chan hòa, nhấn chìm cả căn phòng trong thứ hào quang lấp lánh Simon ngoảnh đầu sang bên, chơp chớp mắt. “Ối.”

Jace tặc lưỡi. Anh đang đứng trên một chiếc hộp dán kín, tay giơ cao. Thứ gì đó phát sáng trong lòng bàn tay anh, ánh sáng lọt qua kẽ những ngón tay khum khum. “Đèn phù thủy đấy,” anh nói.

Simon lầm bầm gì đó. Clary đã đang bước qua những cái hộp, len tới chỗ Jace. Anh đang đứng sau chồng sách truyện huyền bí xiên xẹo, ngọn đèn phù thủ phả vầng sáng kỳ quái trên mặt anh. “Nhìn kia kìa,” anh nói và chỉ vào chỗ cao cao trên tường. Lúc đầu cô cứ nghĩ anh đang chỉ vào thứ giống như cặp giá nến trang trí. Khi mắt đã thích ứng, cô nhận ra đó thực ra là những cái vòng sắt nối những sợi xích ngắn, một đầu xích ghim sâu trong tường. “Chúng là...”

“Cùm,” Simon vừa nói vừa len lỏi qua những cái hộp. “Cái đó, ờ...”

“Đừng nói là ‘kích dâm’ nhé.” Clary ném cho cậu cái nhìn cảnh cáo. “Chúng ta đang nói về chú Luke đấy.”

Jace vươn tay sờ mặt trong một trong hai vòng kim loại. Khi anh hạ tay xuống, những ngón tay anh phủ đầy bụi màu đỏ nâu. “Máu. Và nhìn xem.” Anh chỉ bức tường chung quanh sợi xích; vữa chừng như trồi ra. “Có người cố giật những thứ này tung ra khỏi tường. Cố gắng khá mạnh, theo như cho thấy.”

Tim Clary bắt đầu đập dồn dập trong lồng ngực. “Anh nghĩ chú Luke ổn chứ?”

Jace hạ ngọn đèn phù thủy xuống. “Anh nghĩ chúng ta nên tìm hiểu xem đã.”

Cánh cửa dẫn vào căn hộ không khóa. Cửa dẫn vào phòng khách nhà chú Luke. Dù ngoài hiệu sách đã có tới cả trăm cuốn, bên trong nhà còn cả trăm cuốn khác nữa. Những giá sach chạm tới tận trần nhà, cuốn nọ nối cuốn kia, hàng này nối hàng khác. Hầu hết là thơ và truyện khoa học viễn tưởng, bên cạnh đó còn có khá nhiều truyện giả tưởng và huyền bí. Clary nhớ mình ngốn ngấu hết bộ Biên niên sử Prydain tại nơi này, cuộn mình trên ghế ngồi cạnh cửa sổ nhà chú Luke trong khi mặt trời dần dần khuất xuống dòng sông Đông.

“Mình nghĩ chú ấy ở quanh đây,” Simon gọi lớn, đứng ở ngưởng cửa dẫn vào gian bếp nhỏ. “Bình pha cà phê vẫn bật và có cà phê nữa. Vẫn còn nóng.”

Clary nhìn qua cửa nhà bếp. Đĩa bẩn chât đầy trong chậu. Những chiếc áo khoác của chú Luke treo gọn gàng trong tủ áo khoác. Cô đi vào hành lang và mở cửa phòng ngủ nho nhỏ của chú. Căn phòng vẫn như cũ, giường phủ ga xám cùng mấy cái gối kê không được thu dọn, mặt bàn giấy để đầy tiền xu lẻ. Cô quay người đi. Một phần trong cô đã chắc chắn rằng khi đi vào đây, họ sẽ thấy nơi này bị xới tung, chú Luke bị trói, bị thương hoặc còn tệ hơn nữa. Giờ cô không biết mình nghĩ gì nữa.

Cô tê dại băng qua hành lang tới căn phòng ngủ nho nhỏ dành cho khách, nơi cô thường ngủ lại mỗi khi mẹ có việc đi khỏi thành phố. Hai chú cháu thường thức khuya xem những bộ phim kinh dị cũ chiếu trên chiếc TV đen trắng nhấp nháy liên tục. Cô thậm chí còn có một chiếc ba lô đựng vật dụng cá nhân ở đây để không phải vác đồ qua lại.

Clary quỳ xuống, nắm quai ba lô xanh màu ô liu lôi nó ra khỏi gầm giường. Ba lô gắn chi chít huy hiệu, hầu hết đều do Simon cho. GAME THỦ LÀM HAY HƠN. HẦU GÁI OTAKU. VẪN CHƯA PHẢI LÀ VUA. Bên trong ba lô là vài ba bộ quần áo gấp gọn, vài bộ đồ lót, lược, thậm chí là dầu gội. Tạ ơn chúa, cô nghĩ thầm, đưa chân đá đóng cửa phòng ngủ lại. Cô nhanh nhẹn thay quần áo, cởi bộ đồ quá khổ của Isabelle ra – giờ còn dây màu cỏ xanh và ướt nhẹp mồ hôi nữa chứ - rồi mặc vào chiếc quần nhung kẻ của mình, mềm mại như giấy nhàu, cùng chiếc áo thun bó át nách màu xanh da trời in chữ tiến Trung Quốc ở mặt trước. Cô nhét quần áo của Isabelle vào ba lô, kéo khóa, rồi rời khỏi phòng ngủ, chiếc ba lô nảy lên một cách quen thuộc trên hai xương đòn. Thật dễ chịu khi lại có được thứ gì đó thuộc về mình.

Cô thấy Jace trong phòng làm việc ngập sách của chú Luke, đang xem xét chiếc túi xanh nằm tênh hênh trên bàn. Đúng như Simon đã nói, túi này chứa đầy vũ khí – những con dao còn nằm trong vỏ, cuộn roi da, và một thứ giống như cái đĩa kim loại sắc như dao cạo.

“Chakhram đấy,” Jace nói, ngước mắt lên khi Clary bước vào phòng. “Một vũ khí của người Sikh. Em xoay chúng trên ngón trỏ trước khi phóng đi. Chúng rất hiếm và khó dùng. Lạ là chú Luke lại có chúng. Chúng từng là vũ khí tự chọn của bác Hodge đấy, thời trước kia. Hay đó là những gì bác kể.”

“Chú Luke sưu tập nhiều thứ. Những món đồ nghệ thuật. Anh biết đấy,” Clary nói và chỉ cái giá sau bàn, nơi bày biện đầy những bức tượng đồng từ Ấn Độ và Nga. Cô thích nhất bức tượng Kali, nữ thần hủy diệt của Ấn Độ, đang huơ kiếm và một cái đầu bị chặt trong khi nhảy múa, đầu ngửa ra sau, mắt nhắm chặt. Bên cạnh là tấm bình phong cổ của Trung Hoa, chạm khắc từ gỗ cẩm lai sáng bóng. “Những thứ xinh đẹp.”

Jace vui vẻ bỏ cái chakhram sang bên. Rất nhiều quần áo đổ ra khỏi miệng túi không được cột lại của chú Luke, như thể sau một hồi ngẫm nghĩ, chú đã bỏ chúng ra vậy. “Mà này, anh nghĩ cái này là của em.”

Jace lôi ra một vật hình chữ nhật ẩn trong đống quần áo: một tấm hình lồng trong khung gỗ với vết nứt dài chạy dọc trên mặt kính. Vết nứt tạo ra những đường rạn như mạng nhện lan ra trên khuôn mặt đang cười của Clary, chú Luke và mẹ. “Cái này là của tôi,” Clary vừa nói vừa giật khung hình khỏi tay anh.

“Bị rạn rồi,” Jace nhận xét.

“Tôi biết. Chính tôi – tôi đã đập vỡ nó. Khi tôi ném nó vào quỷ Ravener.” Cô nhìn anh, thấy được sự vỡ lẽ trên mặt anh. “Vậy là chú Luke đã trở lại nhà em sau vụ tấn công. Có thể thậm chí là ngày hôm nay...”

“Hẳn chú ấy là người cuối cùng đi qua Cổng Dịch Chuyển,” Jace nói. “Vì thế cổng mới đưa chúng ta tới đây. Lúc đó em chẳng nghĩ tới gì, nên cổng đã đưa chúng ta tới điểm sau cùng mà nó đến.”

“Thật mừng vì Dorothea đã bảo với chúng ta là chú ở đó,” Clary nói.

“Có thể chú ấy đã trả tiền để bà ta ngậm miệng. Hoặc có lẽ bà ta tin chú Luke hơn tin chúng ta. Điều ấy có nghĩa có thể chú ấy không phải là...”

“Mọi người ơi!” Đó là giọng Simon, hoảng hốt lao vào phòng mà la lên. “Có người tới.”

Clary làm rơi bức hình. “Có phải chú Luke không?”

Simon liếc ra hành lang rồi gật đầu. “Đúng. Nhưng chú không chỉ có một mình – còn có hai người nữa đi cùng.”

“Người à?” Jace sải chân vài bước băng ngang phòng, chõ mắt nhìn qua cửa rồi lầm bầm văng tục. “Pháp sư.”

Clary trố măt. “Pháp sư ư? Nhưng...”

Jace lắc đầu, lùi tránh khỏi cánh cửa. “Có lối vào khác để ra khỏi đây không? Cửa hậu chẳng hạn?”

Clary lắc đầu. Tiếng bước chân trên hành lang giờ đã khá rõ, nện thêm nỗi sợ vào ngực cô.

Jace tuyệt vọng nhìn quanh. Mắt anh dừng lại ở tấm bình phong bằng gỗ cẩm lai. “Trốn ra sau đây,” anh chỉ tay vào đấy. “Ngay lập tức.”

Clary để tấm hình vỡ xuống bàn rồi lỉnh ra sau tấm bình phong, lôi Simon theo. Jace ngay sát sau lưng hai người, thanh stele cầm sẵn trong tay. Anh vừa mới ẩn thân xong thì Clary đã nghe thấy tiếng cửa bật mở, tiếng người bước vào phòng làm việc của chú Luke – rồi những giọng nó. Ba người đang nói. Cô lo lắng nhìn Simon, giờ mặt mũi đã trắng bệch, rồi nhìn Jace, đang cầm thanh stele, theo kiểu hình vuông, trên mặt sau tấm bình phong. Trong khi Clary nhìn chăm chú, hình vuông đó trở nên trong suốt, như một tấm kính. Cô nghe thấy tiếng Simon hít hơi vào – âm thanh nhỏ xíu, khó nghe rõ – thế mà Jace lắc đầu nhìn hai người, miệng mấp máy: Họ không thể nhìn thấy chúng ta qua chỗ này, nhưng chúng ta có thể nhìn thấy họ.

Clary bặm môi, dịch chuyển đến rìa ô vuông mà nhìn ra, cảm nhận được hơi thở của Simon phả xuống cổ mình. Cô có thể nhìn thấu toàn bộ căn phòng ngoài kia: những giá sách, bàn giấy có cái túi nằm vắt ngang qua – và chú Luke, trông thảm hại và hơi lòm khòm, kính đẩy lên trên đỉnh đầu, đang đứng gần cửa. Thật đáng sợ kể cả khi cô biết chú không thể nhìn thấy cô, rằng ô cửa sổ Jace tạo ra giống kính trong phòng thẩm tra tại đồn cảnh sát: kính một chiều.

Chú Luke quay người, nhìn ra sau qua lối cửa. “Đúng, cứ thoải mái tìm đi,” chú nói, giọng sặc mùi mỉa mai. “Thật mừng khi hai người lại hứng thú tới vậy.”

Một tiếng chậc lưỡi nho nhỏ vang lên từ góc phòng. Với một cú vẫy cổ tay nóng nảy, Jace vỗ vào khung cái “cửa sổ” của mình, mở nó rộng ra hơn, cho thấy thêm toàn cảnh căn phòng. Có hai người đàn ông đứng đó cùng chú Luke, cả hai đều mặc áo chùng đo đỏ, mủ trùm kéo ra sau. Một người gầy, để ria xám tỉa tót đẹp mắt cùng chòm râu chằm nhọn đầu. Khi cười, hắn lộ ra hàm răng trắng sáng lóa mắt. Người còn lại đô con lực lưỡng như đô vật, mái tóc đỏ cắt sát da đầu. Da hắn màu tím đen, hai bên gò má bóng loáng, như thể bị căng quá mức.

“Những người đó là pháp sư ư?” Clary thì thầm khe khẽ.

Jace không trả lời. Toàn thân anh căng thẳng, cứng đơ như một thanh sắt. Anh ấy sợ mình sẽ bỏ chạy đi, cố tới chỗ chú Lukeđây mà, Clary nghĩ. Cô ước gì có thể làm anh yên tâm rằng mình sẽ không làm vậy. có gì đó về hai gã đàn ông kia, trong hai cái áo chùng dày cui mang màu đỏ máu, thật đáng sợ.

“Không,” anh thì thào. Người anh trắng bệch như một bóng ma. “Thợ Săn Bóng Tối. Trong áo chùng của pháp sư.”

“Cứ coi đây lần theo dõi nhắn lại thân thiện đi, Graymark,” người đàn ông ria xám nói. Nụ cười của hắn phô ra hàm răng sắc đến mức trong như thể chúng được mài dũa để ăn thịt người.

“Anh chẳng có gì là thân thiện hết, Pangborn.” Chú Luke ngồi xuống cạnh bàn, áng mình để người chú chắn đi tầm nhìn của hai gã đàn ông kia về phía cái túi xanh và mọi vật dụng trong đó. Giờ khi chú ở gần hơn, Clary thấy rằng mặt và tay chú bị bầm dập ghê gớm, những ngón tay trầy xước và chảy máu. Một vết cắt dài dọc xuống cổ và biến mất sau cổ áo. Chuyện quái quỷ gì xảy ra với chú đây?

“Blackwell, đừng chạm vào... nó quý lắm đấy,” chú Luke nghiêm nghị nhắc.

Gã đàn ông to lớn tóc đỏ, vừa cầm lên bức tượng nữ thần Kali ở trên nóc giá sách, trầm ngâm vuốt những ngón tay to tướng dọc bức tượng. “Đẹp,” hắn nói.

“À,” Pangborn lên tiếng, giật tượng khỏi tay người bạn đồng hành. “Đây người được sinh ra để chiến đấu với con quỷ mà cả thần lẫn người đều không giết được. Ôi, Kali, đức mẹ của niềm vui! Người vợ đẹp tuyệt trần củaShiva toàn năng, vũ công của mọi vũ công. Người nhảy điệu múa của muôn điệu múa, và chúng con chẳng là gì, ngoài những món đồ chơi tầm thường của Người.”

“Hay lắm,” chú Luke nói. “Thế mà tôi không biết anh là sinh viên khoa truyền thuyết Ấn Độ cơ đấy.”

“Mọi truyền thuyết đều là sự thực,” Pangborn nói, và Clary thấy cơn lạnh chạy dọc xương sống. “Hay là ảnh cũng quên mất điều đó rồi?”

“Tôi chẳng quên gì cả,” chú Luke đáp. Dù chú trông có vẻ thư giãn, nhưng Clary nhận ra sự căng thẳng qua vai và khóe môi chú. “Tôi đoán là Valentine cử các anh tới phải không?”

“Phải,” Pangborn nói. “Ngài ấy nghĩ biết đâu anh đã nghĩ lại.”

“Tôi chẳng việc gì phải nghĩ lại cả. Tôi đã nói là tôi chẳng biết gì rồi. À mà áo choàng đẹp đấy.”

“Cám ơn,” Blackwell nói kèm một nụ cười quỷ quyệt. “Tôi lột xác hai pháp sư để làm đấy.”

“Những cái này là áo choàng chính thức của Accord, đúng không? Chú Luke hỏi. “Từ vụ Nổi Loạn ấy à?”

Pangborn khe khẽ tặc lưỡi. “Chiến lợi phẩm.”

“Các anh không sợ có người sẽ nhầm anh với thứ thật sao?”

“Không,” Blackwell đáp, “trừ khi họ tới gần.”

Pangborn nghịch nghịch đuôi áo. “Anh còn nhớ vụ Nổi Loạn không, Lucian?” hắn nhẹ nhàng hỏi. “Một ngày vừa vĩ đại vừa kinh khủng. Anh còn nhớ chúng ta được huấn luyện thế nào cho trận chiến không?”

Mặt chú Luke rúm lại. “Quá khứ mãi là quá khứ. Tôi không biết phải nói gì với các quý ngài đây nữa. Tôi không thể giúp các vị rồi. Tôi chẳng biết gì cả.”

“Chẳng gì cả là một từ chung chung quá, thật không rõ ràng,” Pangborn nói, nghe có vẻ u uất. “Chắc chắn một người sở hữu nhiều sách thế này phải biết gì đó.”

“Nếu anh muốn biết chỗ tìm nhạn móng rẽ vào mùa xuân, tôi sẽ chỉ cho anh tựa sách tham khảo phù hợp. Nhưng nếu anh muốn biết Cốc Thánh đã biến mất đi đâu...”

“Biến mất có lẽ không phải từ đúng cho lắm,” Pangborn gừ gừ. “Bị giấu thì đúng hơn. Bị Jocelyn giấu.”

“Có thể,” chú Luke nói. “Vậy cô ấy vẫn chưa khai ra nó ở đâu à?”

“Cô ta vẫn chưa tỉnh,” Pangborn ngoáy ngó những ngón tay dài ngoằng. “Valentine rất thất vọng. Ngài rất mong chờ sự đoàn tụ này.”

“Tôi chắc chắn cô ấy sẽ không đáp lại tình cảm đó,” chú Luke lầm bầm.

Pangborn cười khúc khích. “Ghen phải không, Graymark? Có lẽ anh không còn cảm nhận cô ta theo kiểu anh đã từng nữa rồi.”

Cơn run rẫy đã chớm bắtđầu từ những ngón tay của Clary, run quá đỗi khiến cô phải đan chặt tay lại giữ cho tay không lật bật. Jocelyn à? Có phải họ đang nói về mẹ mình không?

“Thật ra, tôi chưa từng có cảm nhận kiểu gì với cô ấy cả,” chú Luke nói. “Hai Thợ Săn Bóng Tối, bị trục xuất khỏi đồng loại, anh có hiểu vì sao chúng tôi có lẽ giao du với nhau. Nhưng tôi không định can thiệp vào kế hoạch Valentine dành cho cô ấy, nếu đó là điều hắn lo.”

“Tôi không nói là ngài ấy lo lắng đâu,” Pangborn nói. “Tò mò thì đúng hơn. Chúng tôi đều tự hỏi liệu anh có còn sống không. Có còn nhìn ra giống người không.”

Chú Luke nhướn mày. “Và?”

“Có vẻ anh vẫn khỏe mạnh,” Pangborn nói một cách miễn cưỡng. Hắn trả bức tượng thần Kali về giá sách. “Có một đứa nhỏ, phải không nhỉ. Một bé gái.”

Chú Luke có vẻ giật mình. “Hả?”

“Đừng giả ngốc nữa,” Blackwell gầm ghè. “Chúng tôi biết con quỷ cái đó có con. Họ tìm thấy những tấm hình của con nhóc trong nhà cô ta, trong phòng ngủ...”

“Tôi tưởng các anh đang hỏi về con tôi,” chú Luke ngắt lời một cách trơn tru. “Đúng, Jocelyn có một cô con gái. Clarissa. Tôi đoán là con bé trốn rồi. Valentine bảo các anh đi tìm con bé hả?”

“Không phải chúng tôi,” Pangborn nói. “Nhưng ngài ấy đang tìm.”

“Chúng ta có thể soát chỗ này,” Blackwell nói thêm.

“Theo tôi thì các anh không nên,” chú Luke nói rồi trượt khỏi bàn. Cái nhìn của chú vào hai gã kia có vẻ tàn nhẫn lạnh lùng nhất định, dù vẻ mặt chú không thay đổi. “Làm sao các người nghĩ con bé còn sống chứ? Tôi nghĩ Valentine đã sai quỷ Ravener tới dọn sạch chỗ đó rồi. Với độc Ravener đủ liều, hầu hết mọi người sẽ tan thành cát bụi, chẳng để lại lấy một dấu vết.”

“Có một con quỷ Ravener đã chết,” Pangborn nói. “Thế nên Valentine mới nghi ngờ.”

“Mọi chuyện đều khiến Valentine nghi ngờ,” chú Luke bảo. “Có lẽ Jocelyn đã giết nó. Cô ấy chắc chắn có đủ khả năng.”

Blackwell gầm gừ. “Có lẽ.”

Chú Luke nhún vai. “Nghe này, tôi không biết con bé ở đâu, nhưng dù vì lý do gì đi nữa, tôi cũng nghĩ con bé chết rồi. Nếu không, giờ nó đã quay về nhà. Hơn nữa, con bé cũng chẳng gây nhiều nguy hiểm. Nó mới mười lăm tuổi, chưa từng nghe về Valentine, và không tin có quỷ.”

Pangborn tặc lưỡi. “Một đứa nhỏ may mắn.”

“Không còn may mắn nữa rồi,” chú Luke nói.

Blackwell nhướn lông mày. “Anh nghe có vẻ giận dữ đấy Lucian.”

“Tôi không giận, tôi chỉ cáu thôi. Tôi không định can thiệp vào kế hoạch của Valentine, các anh có hiểu không? Tôi không ngốc.”

“Thật sao?” Blackwell nói. “Thật mừng vì thấy anh đã gầy dựng được sự tôn trọng đúng mực với đồng loại anh sau từng ấy năm, Lucian ạ. Trước đây anh không phải luôn biết người biết ta như thế.”

“Anh biết là,” Pangborn nói, giọng trao đổi, “rằng chúng tôi sẽ đổi ả, Jocelyn ấy, lấy Cốc Thánh chứ? Sẽ được giao hàng an toàn, tới tận cửa nhà anh. Đó là lời hứa của chính Valentine.”

“Tôi biết,” chú Luke nói. “Tôi không có hứng. Tôi không biết chiếc Cốc quý báu của các anh ở đâu, và tôi không muốn dính vào trò chính trị của các anh. Tôi ghét Valentine,” chú nói thêm, “nhưng tôi tôn trọng hắn. Tôi biết hắn sẽ gạt bỏ bất cứ ai dám ngáng đường. Tôi là tôi sẽ tránh ngay khi chuyện đó xảy đến. Hắn là một con quái vật – một cỗ máy giết người.”

“Nghe xem ai đang nói kìa,” Blackwell gầm gừ.

“Theo tôi hiểu thì đây là những thứ do anh chuẩn bị để tránh khỏi đường của Valentine ấy phỏng?” Pangborn nói, ngón tay dài ngoằng chỉ vào cái túi được che chắn một nữa trên bàn. “Trốn khỏi thị trấn, phải không Lucian?”

Chú Luke chậm rãi gật đầu. “Sẽ về nông thôn ở. Tôi lên kế hoạch ở ẩn một thời gian.”

“Chúng tôi có thể ngăn anh,” Blackwell nói. “Bắt anh ở lại.”

Chú Luke mỉm cười. Nụ cười đã thay đổi khuôn mặt chú. Đột nhiên chú không còn là người đàn ông hiền hậu, học thức đã từng đẩy xích đu cho Clary trong công viên và dạy cô đi xe ba bánh nữa. Đột nhiên trong ánh mắt chú ánh lên tia nhìn nguy hiểm, hoang dã và lạnh lẽo. “Anh cứ việc thử.”

Pangborn liếc nhìn Blackwell, tên này lắc đầu một cái, thật chậm rãi. Pangborn quay lại Luke. “Anh sẽ báo ngay cho chúng tôi nếu đột nhiên nhớ ra gì nhé?”

Chú Luke vẫn cười. “Anh sẽ là người đầu tiên tôi báo.”

Pangborn gật đầu cái rụp. “Tôi nghĩ chúng ta nên đi thôi. Thiên Thần sẽ bảo vệ anh, Lucian.”

“Thiên thần không bảo vệ những người như tôi,” chú Luke nói. Chú cầm cái túi lên và đóng lại. “Đi nhé, các quý ngài?”

Kéo mũ lên che mặt lại, hai gã đàn ông rời khỏi phòng, một lát sau chú Luke đi theo. Chú dừng lại trước cánh cửa, liếc nhìn quanh như để xem có quên gì không. Đoạn chú cẩn thận đóng lại.

Clary ở nguyên tại chỗ, chết trân, nghe tiếng cửa đóng lại rồi tiếng khóa lách cách xa xa khi chú Luke khóa ổ khóa to lại. Cô vẫn nhìn thấy cái vẻ mặt chú Luke khi nãy, nhớ tới nhơ lui, khi chú nói chú không hứng thú gì với chuyện xảy ra cho mẹ cô.

Cô cảm nhận một bàn tay đang đặt lên vai mình. “Clary này?” Là Simon, giọng hơi ngần ngừ, gần như êm dịu. “Cậu ổn không?”

Cô lắc đầu, câm lặng. Cô còn lâu mới ổn. Thật ra, cô có cảm giác không bao giờ còn ổn được nữa.

“Tất nhiên là không ổn rồi.” Đó là giọng Jace, lạnh như băng đá. Anh nắm lấy tấm bình phong và đẩy mạnh sang bên. “Ít nhất giờ chúng ta đã biết ai sai khiến con quỷ đuổi theo mẹ em. Những tên kia nghĩ mẹ em giữ chiếc Cốc Thánh.”

Clary cảm thấy môi mình mỏng thành đường kẻ mảnh. “Chuyện đó hoàn toàn lố bịch và không có khả năng.”

“Có thể,” Jace nói và dựa vào bàn chú Luke. Anh nhìn thẳng vào cô bằng đôi mắt mờ đục như kính trong khói. “Trước đây em đã gặp qua mấy tên ấy chưa?”

“Chưa.” Cô lắc đầu. “Chưa bao giờ.”

“Có vẻ chú Lucian quen biết họ. Từng thân thiết với họ.”

“Tôi sẽ không gọi đấy là thân thiết đâu,” Simon nói. “Tôi thấy họ đang kiềm chế sự thù địch ấy chứ.”

“Chúng không giết chú ấy ngay tại chỗ,” Jace nói. “Chúng nghĩ chú ấy biết nhiều hơn những điều chú ấy nói.”

“Có lẽ vậy,” Clary nói, “hoặc có thể chúng chỉ ngại chưa dám giết thêm một Thợ Săn Bóng Tối nữa.”

Jace cười to, một âm thanh khàn khàn, gần như là hằn học khiến long tay Clary dựng đứng. “Anh nghi lắm.”

Cô khó chịu nhìn anh. “Sao anh dám chắc chắn đến thế chứ? Anh biết họ sao?”

Tiếng cười biến mất hoàn toàn khi anh đáp lời cô. “Anh có biết họ không à?” anh nhắc lại. “Em có thể nói vậy. Đấy là những kẻ đã giết bố anh.”