Xin Cho Tôi Gọi Cô Là Em Yêu

Chương 29




Do thoả thuận ngầm, Kerry và Geoff tránh thảo luận về vụ án Reardon, cho tới lúc uống cà phê. Trong phần đầu của bữa ăn, Geoff nói chuyện về thời thơ ấu của anh ở New York.

- Tôi đã tưởng những anh chị em họ của tôi sống ở miền quê, - anh nói. - Rồi, sau khi gia đình tôi dọn đến và tôi đã lớn lên tại đó, tôi đã quyết định ở lại.

Anh kể với Kerry anh có bốn cô em gái.

- Tôi ganh tỵ với anh, - nàng nói. - Tôi chỉ có một đứa con, và tôi thường thích đến thăm nhà những người bạn có một gia đình lớn. Tôi vẫn luôn luôn nghĩ sẽ thích thú khi có rất nhiều anh chị em chung quanh. Ba tôi đã qua đời lúc tôi mười chín tuổi và mẹ tôi đã tái giá khi tôi hai mươi mốt tuổi và bà ấy chuyển tới Colorado. Tôi gặp bà ấy hai lần mỗi năm.

Ánh mắt của Geoff dịu xuống.

- Như vậy chị đã không nhận được nhiều hỗ trợ của gia đình, - anh nói.

- Không, tôi nghĩ là không, nhưng Jonathan và Grace Hoover đã lấp đầy khoảng trống. Họ đã rất tuyệt vời đối với tôi, hầu như là cha mẹ.

Họ nói chuyện về trường luật, đồng ý rằng năm thứ nhất là một nỗi kinh hoàng mà họ ghét phải tiếp tục chịu đựng.

- Điều gì đã khiến anh quyết định trở thành một luật sư biện hộ? - Kerry hỏi.

- Hồi tôi còn là một đứa bé, một phụ nữ trong cùng toà nhà của chúng tôi, Anna Owens, là một trong những người tử tế nhất mà tôi từng quen biết. Tôi nhớ khi tôi khoảng tám tuổi và chạy qua tiền sảnh để bắt kịp thang máy, tôi đã đâm sầm vào bà ấy và làm cho bà ấy ngã. Bất cứ một ai khác chắc đã điên tiết gào lên, nhưng bà ấy chỉ gượng đứng lên và nói: "Geoff, thang máy sẽ trở xuống, cháu biết mà". Rồi bà ấy cười. Bà ấy thấy rõ tôi đang hổ thẹn tới mức nào.

- Điều đó đã không làm cho anh trở thành một luật sư biện hộ, - Kerry mỉm cười.

- Không. Nhưng ba tháng sau, khi bị chồng bỏ rơi bà ấy đã theo dõi ông ta đến tận căn hộ của cô bạn gái mới của ông ta và bắn ông ta. Tôi tin chắc đó là một cơn mất trí nhất thời, luật sư của bà ấy đã biện hộ như thế, nhưng dù sao đi nữa bà ấy đã phải vào tù hai mươi năm. Theo ý tôi, cách nói then chốt là "tình tiết giảm nhẹ". Khi tôi tin đó là sự thật, hoặc khi tôi tin bị cáo vô tội, như trường hợp của Skip Reardon, tôi sẽ nhận biện hộ. - Anh ngừng lại một lát. - Và điều gì đã khiến chị trở thành một công tố viên?

- Nạn nhân và gia đình của nạn nhân, - nàng chỉ nói. - Căn cứ theo giả thuyết của anh, tôi đã có thể bắn Rob Kinellen và biện hộ theo dạng tình tiết giảm nhẹ.

Đôi mắt của Geoff anh lên vẻ hơi bực tức, rồi trở nên thích thú.

- Chẳng hiểu vì sao tôi không thấy chị bắn bất cứ ai, Kerry.

- Tôi cũng không, trừ phi... - Kerry chợt do dự, rồi nói tiếp. - Trừ phi Robin gặp nguy hiểm. Lúc đó tôi sẽ làm bất cứ gì để cứu nó. Tôi chắc chắn như vậy.

Trong bữa ăn tối, Kerry tự nhiên nói tới cái chết của cha nàng.

- Hồi ấy tôi là sinh viên năm thứ hai trường đại học Boston. Sau một thời gian làm cơ trưởng của Pan Am, ông ấy chuyển qua bộ phận hành chính và được đề cử chức vụ phó chủ tịch. Từ khi tôi mới lên ba, ông ấy đã đưa mẹ tôi và tôi đi khắp nơi. Đối với tôi, ông ấy là người đàn ông vĩ đại nhất thế giới. - Nàng nuốt hơi. - Thế rồi, một cuối tuần khi tôi từ trường về nhà, ông ấy than phiền là cảm thấy mệt. Nhưng ông ấy đã không nghĩ tới việc đi khám bác sĩ bởi vì ông ấy vừa được kiểm tra sức khoẻ hàng năm. Ông ấy nói sáng hôm sau ông ấy sẽ ổn thôi. Nhưng sáng hôm sau ông ấy đã không thức dậy.

- Và mẹ chị đã tái giá hai năm sau đó?

- Phải, ngay trước năm tôi tốt nghiệp đại học. Sam goá vợ và là một người bạn tốt của ba tôi. Chú ấy sắp sửa nghỉ hưu ở Vali khi ba tôi mất. Chú ấy có một ngôi nhà tuyệt đẹp ở đó. Nơi đó rất tốt cho cả hai người.

- Ba chị đã nghĩ như thế nào về Bob Kinellen?

Kerry bật cười.

- Anh thật là tinh tế, Geoff Dorso. Tôi nghĩ chắc ông ấy đã có ấn tượng không được tốt.

Cuối cùng, trong lúc uống cà phê, họ thảo luận về vụ án Reardon. Kerry bắt đầu bằng cách nói thẳng thắn:

- Tôi đã ngồi nghe toà tuyên án cách đây mười năm, và nét mặt cũng như lời nói của anh ta đã khắc sâu vào ký ức của tôi. Tôi đã từng nghe nhiều kẻ phạm tội thề thốt họ vô tội - xét cho cùng, họ có phải mất gì đâu? - nhưng trong lời nói của anh ta có một điều gì đó khiến tôi xúc động.

- Bởi vì anh ta đang nói sự thật.

Kerry nhìn thẳng vào mặt anh.

- Tôi báo trước với anh, Geoff, tôi có ý định chơi trò biện hộ cho kẻ đã bị kết án, và trong lúc đọc tập biên bản có nhiều vấn đề khiến tôi chú ý, chắc chắn nó vẫn không thuyết phục tôi rằng Reardon là một người vô tội. Chuyến đến thăm ngày hôm qua cũng vậy. Hoặc là anh ta đang nói dối, hoặc là bác sĩ Smith đang nói dối.

Reardon có một lý do rất xác đáng để nói dối. Smith thì không. Tôi vẫn nghĩ thật đáng tiếc là đúng ngày Suzanne chết, Reardon đã bàn cãi chuyện ly hôn và hiển nhiên đã nổi giận khi anh ta hay biết việc đó sẽ khiến anh ta mất nhiều tiền.

- Kerry, Skip Reardon là một con người tự lập. Anh ta xuất thân từ cảnh ngộ nghèo khổ và đã trở nên rất thành đạt. Suzanne đã khiến anh ta mất rất nhiều tiền. Chị đã nghe anh ta nói. Cô ta là một phụ nữ có bản chất thích tiêu pha, mua bất cứ gì hợp ý cô ta. - Anh dừng lại một lát. - Không. Nổi giận và nói toạc điều đó ra là một việc. Nhưng có cả một cách biệt rất lớn giữa việc thổ lộ cơn bực tức và việc giết người. Cho dù việc ly dị vẫn rất tốn kém, thậm chí anh ta vẫn nhẹ nhõm trong lòng vì cuộc hôn nhân dối trá sắp chấm dứt, như vậy anh ta sẽ có thể ổn định cuộc sống.

Họ nói chuyện về những đoá hoa hồng.

-Tôi hoàn toàn tin Skip đã không mang đến hoặc gửi tới, - Geoff nói trong lúc anh ta nhấm nháp cà phê. - Vì vậy, nếu chúng ta chấp nhận điều đó, thì có nghĩa là còn có một nhân vật khác.

Trong lúc Geoff thanh toán phiếu tính tiền, cả hai người đồng ý rằng lời khai của bác sĩ Smith là mấu chốt đã buộc tội Skip Reardon.

-Bác sĩ Smith đã khai rằng Suzanne sợ hãi Skip và những cơn giận vì ghen của anh ta. Nhưng nếu cô ta sợ hãi anh ta như thế, làm sao cô ta có thể đứng trước mặt anh ta và bình tĩnh cắm vào bình những đoá hoa mà người đàn ông kia đã gửi cho cô ta, và chẳng những cắm vào bình mà còn có vẻ khoe khoang, tối thiểu theo lời của Skip. Điều đó có lý không?

- Nếu Skip đã nói thật, nhưng chúng ta không có bằng chứng, phải không? - Kerry nói.

- Riêng điều đó tôi tin anh ta, - Geoff quả quyết nói. - Vả lại, không có một nhân chứng nào xác nhận lời khai của bác sĩ Smith. Hai vợ chồng Reardon được nhiều người biết tới. Chắc chắn nếu anh ta tỏ ra quá đáng đối với vợ, một người nào đó sẽ ra mặt nói rõ.

- Có lẽ như vậy, - Kerry nhượng bộ, - nhưng thế thì tại sao không có một nhân chứng gỡ tội nào xác nhận anh ta đã không ghen một cách điên khùng? Tại sao chỉ có hai nhân chứng về tư cách được gọi ra để chống lại lời khai của bác sĩ Smith? Không, Geoff, tôi e rằng căn cứ theo việc trình bày tình tiết vụ án cho bồi thẩm đoàn, họ không có lý do nào để không tin hoặc tin bác sĩ Smith. Hơn nữa, không phải chúng ta vẫn thường tin tưởng một bác sĩ hay sao?

Họ im lặng trong lúc chạy xe về nhà. Trong lúc Geoff đưa Kerry vào tận cửa, anh lấy chìa khoá khỏi tay nàng.

- Mẹ tôi bảo phải luôn luôn mở cửa cho phụ nữ. Tôi hy vọng như thế không có tính chất phân biệt giới tính.

- Không, không đâu. Tối thiểu đối với tôi. Nhưng có lẽ tôi hơi cổ hủ.

Bầu trời phía trên đầu họ có màu xanh thẫm và lấp lánh nhiều vì sao. Một cơn gió mạnh đang thổi, và Kerry rùng mình vì lạnh. Geoff nhận thấy và xoay nhanh chìa khoá rồi đẩy cánh cửa mở ra.

- Chị không mặc đủ ấm cho thời tiết buổi tối. Chị nên vào nhà ngay đi.

Trong lúc nàng bước vào bên trong, anh vẫn đứng ngoài cổng, không có một biểu hiện nào tỏ ra anh trông đợi nàng mời anh vào nhà. Thay vì vậy, anh nói:

- Trước khi ra về, tôi cần hỏi, sau đây chúng ta sẽ đi đâu?

- Tôi định gặp bác sĩ Smith ngay sau khi ông ta cho tôi một cuộc hẹn. Nhưng tốt hơn tôi nên đi một mình.

- Thế thì chúng ta sẽ nói chuyện trong vài ngày tới. - Geoff nói.

Anh thoáng mỉm cười và bước xuống các bậc tam cấp. Kerry đóng cửa và bước vào phòng khách nhưng không bật đèn ngay. Nàng nhận ra nàng còn đang thưởng thức giây phút khi Geoff lấy chìa khoá khỏi tay nàng và mở cửa cho nàng. Rồi nàng tới bên cửa sổ và chăm chú nhìn trong lúc anh lùi chiếc xe hơi ra khỏi lối đi và biến mất trong đường phố.

Thật hết sức thích thú khi được ở với ba, Robin nghĩ trong lúc ngồi xuống một cách mãn nguyện bên cạnh Rob Kinellen trong chiếc Jaguar. Hai cha con đã đi xem căn chòi trượt tuyết mà Rob đang định mua. Robin nghĩ căn chòi rất tuyệt, nhưng Bob bảo nó không được như ý của anh.

- Ba muốn chúng ta có thể trượt tuyết tới tận cửa, - anh nói rồi bật cười. - Chúng ta chỉ cần tiếp tục tìm kiếm.

Robin mang theo máy ảnh, và cha em để cho em có thời gian chụp hai cuộn phim. Mặc dầu chỉ có một chút tuyết trên các đỉnh, cô nghĩ ánh sáng trên những ngọn núi thật huyền ảo. Em chụp được những tia nắng cuối cùng của mặt trời đang lặn, rồi hai cha con bắt đầu quay về. Bob nói anh biết một nơi tuyệt diệu họ co thể ăn món tôm rất ngon.

Robin biết rằng mẹ đang giận ba bởi vì Bob đã không nói chuyện với Kerry sau khi xảy ra tai nạn, nhưng Bob đã để lại một tin nhắn. Và quả thực, Kerry đã không gặp Bob nhiều, nhưng mỗi lần hai bố con ở bên nhau, Bob thật tuyệt vời.

Lúc sáu giờ rưỡi, họ dừng lại ở nhà hàng. Họ vừa ăn tôm và sò vừa trò chuyện. Bob hứa chắc chắn năm nay họ sẽ đi trượt tuyết, chỉ hai cha con với nhau.

- Một ngày nào đó, khi mẹ bận đi chơi với ai. - Bob nháy mắt.

- Ồ! Mẹ không đi chơi nhiều đâu, - Robin nói - Mùa hè năm nay có một người con có cảm tình đã đưa mẹ đi chơi hai lần, nhưng mẹ nói ông ta chán ngắt.

- Ông ta làm nghề gì?

- Ông ta là một kỹ sư, con nghĩ thế.

- Khi mẹ trở thành một thẩm phán, có lẽ cuối cùng mẹ sẽ làm bạn với một thẩm phán khác. Sẽ có rất nhiều người vây quanh mẹ.

- Đêm hôm trước, một luật sư đã đến nhà. - Robin nói. - Chú ấy rất tử tế. Nhưng con nghĩ đó chỉ là công việc.

Nãy giờ Bob Kinellen chỉ lơ đễnh theo dõi cuộc trò chuyện. Lúc này, anh chợt trở nên chăm chú.

- Chú ấy tên là gì?

- Geoff Dorso. Chú ấy mang đến một hồ sơ dày cộm cho mẹ đọc.

Khi cha em đột nhiên trở nên im lặng, Robin có cảm tưởng tội lỗi rằng có lẽ em đã nói quá nhiều, có lẽ cha cô đang giận em. Trở lại xe hơi, em ngủ trong đoạn đường còn lại, và khi cha em cho em xuống xe lúc chín giờ rưỡi, em vui mừng vì đã về nhà.

Thứ Hai, ngày 30 tháng 10