Bức Thư Tình Cuối

Chương 26




Jennifer thân yêu?

Có đúng là em đấy không? Hãy tha thứ cho anh. Anh đặt bút viết bức thư này hàng chục lần mà anh vẫn chưa biết phải viết gì.

Anthony O’Hare

Ellie dọn dẹp đống giấy tờ trên bàn làm việc, tắt máy tính, kéo nắp túi lại và đi ra khỏi phòng Phóng sự, thầm tạm biệt một cách lịch sự với Rupert. Anh ta đang khom người phỏng vấn một tác giả, người anh phàn nàn cả buổi chiều nay là một gã buồn tẻ. Cô đã yêu cầu rõ ràng rằng không cần có bài viết cho chuyên mục Tác phẩm nữa. Cô đã viết một phóng sự về những bà mẹ chuyên đi đẻ thuê, và ngày mai cô sẽ bay tới Paris để phỏng vấn một nhân viên làm từ thiện người Trung Quốc. Cô ta đã không được phép quay về Trung Quốc vì những bình luận gây tranh cãi của cô trong một bộ phim tài liệu của Anh. Cô kiểm tra lại địa chỉ rồi chạy vội ra bến xe buýt. Khi cô kiếm được một chỗ ngồi trên chiếc xe buýt chật ních, ngay lập tức đầu cô bắt đầu sắp xếp các mẩu thông tin cô vừa có và tổng hợp thành những đoạn viết ngắn.

Vào cuối ngày cô gặp Corinne và Nicky tại một nhà hàng mà cả hai chưa bao giờ dám mơ tưởng tới. Douglas cũng được mời. Cậu ta tỏ ra rất dễ thương khi nhận điện thoại của cô vào ngày hôm trước - thật lạ là đã quá lâu rồi họ không nói chuyện với nhau. Chỉ mất một giây cậu ta đã đoán được ngay chuyện gì xảy ra với John. Corinne và Nicky sẽ luôn có một công việc dành cho họ tại tòa soạn của tờ Nation, nếu lúc nào đó họ chán ngấy công việc hiện tại của họ, cô nói vậy. ‘Đừng lo, bọn tớ sẽ không nói những chuyện đàn bà tào lao đâu,’ cô trấn an khi cậu đồng ý tới cuộc gặp.

‘Ơn Chúa,’ Douglas nói.

‘Và tớ sẽ mời cậu bữa tối. Để nói lời xin lỗi.’

‘Không có làm tình ngẫu hứng chứ?’

‘Chỉ khi bạn gái cậu cũng tới. Cô ấy nhìn dễ thương hơn cậu nhiều.’

‘Biết ngay là cậu sẽ nói thế.’

Cô cười ngoác khi đặt máy điện thoại xuống.

Anthony thân yêu,

Đúng, là em đây. Cho dù em giờ thế nào, so với cô gái trẻ anh từng biết, em đoán là anh đã biết người bạn làm báo của chúng ta đã kể hết với em. Em vẫn đang cố hiểu những điều cô ấy nói.

Rồi sáng nay khi em đi tới Hòm thư Bưu điện, bức thư của anh ở đó. Với những dòng chữ viết tay của anh, bốn mươi năm đã qua. Điều đó có ý nghĩa gì? Từng ấy thời gian đã qua giờ chỉ như là một hạt cát. Em vẫn chưa thể tin em đang cầm trên tay bức thư do chính anh viết hai ngày trước đó, chưa thể tin nó nghĩa là gì.

Cô bạn nhà báo không kể nhiều về anh. Em ngồi và tự hỏi, và không dám mơ rằng có một ngày em còn được ngồi và nói chuyện với anh.

Em hy vọng anh có một cuộc sống hạnh phúc.

Jennifer

Đó là thuận lợi của những người làm báo: số bài viết của bạn sẽ tăng chóng mặt, có thể nói là tăng nhanh gấp đôi. Chỉ với hai phóng sự hay là bạn đã trở thành đề tài bàn tán của cả tòa soạn, là nhân vật trung tâm của những câu chuyện gẫu và những cái nhìn thán phục. Bài viết của bạn sẽ được đăng tải lên mạng và gửi cho các tờ báo liên kết ở New York, Úc và Nam Phi. Họ rất thích bài viết của cô, Hiệp hội các tờ báo liên kết đã nói với cô thế. Đây chính là đề tài mà họ nghĩ đầy tiềm năng để họ tiếp tục đi sâu phát triển. Trong vòng bốn tám tiếng, cô nhận được không biết bao nhiêu thư điện tử do độc giả gửi tới, tâm sự với cô những câu chuyện của riêng họ. Một nhà xuất bản thậm chí đã gọi điện cho cô, hỏi cô có đủ tư liệu để phát triển bài báo đó thành một cuốn sách không.

Về Melissa, Ellie không làm gì khiến bà phiền lòng cả. Nếu cần một bài phóng sự khoảng một ngàn từ thật hay, cô sẽ là người đầu tiên bà gửi gắm. Đã hai lần trong tuần này, những bài viết ngắn của cô được lên trang nhất. Cũng giống như việc trúng xổ số. Càng được biết đến nhiều có nghĩa là cô càng nhận được nhiều yêu cầu viết bài. Cô thấy đề tài để viết ở mọi nơi. Cô là một cục nam châm: các bài phóng sự, những cuộc gặp gỡ liên tục đến với cô. Cô có mặt ở bàn viết lúc chín giờ sáng và chỉ về nhà vào lúc chiều muộn. Cô biết mình không nên bỏ lỡ cơ hội này.

Khoảng không gian làm việc của cô sáng trưng và bóng loáng trên chiếc bàn bầu dục lớn, trên đó để một màn hình độ phân giải cao mười bảy inch và một chiếc điện thoại dán tên cô với số máy lẻ được ghi rõ ràng.

Rupert không còn pha trà mời cô nữa.

Jennifer thân yêu,

Xin lỗi em vì đã trả lời chậm trễ thế này. Có vẻ như với em anh đã trở nên ít nói hơn. Sự thực là đã nhiều năm rồi anh không đặt bút viết trên giấy ngoại trừ viết séc trả hóa đơn và một vài lần gửi thư khiếu nại. Anh không biết phải viết gì. Hàng chục năm nay anh chỉ sống thông qua lời nói của những người khác; anh sắp xếp chúng, lưu trữ chúng, sao chép thêm để lưu giữ và phân loại chúng. Anh đảm bảo chúng luôn được an toàn. Anh ngỡ rằng đã từ lâu anh quên mất luôn cả giọng nói của mình. Người viết những bức thư gửi cho em giống như một người xa lạ với anh.

Em có vẻ đã thay đổi nhiều so với cô gái anh gặp ở khách sạn Regent. Nhưng, điều tuyệt vời nhất là em vẫn là em. Anh vui vì em vẫn ổn. Anh vui vì cuối cùng anh cũng có cơ hội để nói với em điều này. Anh mong được gặp em, nhưng anh sợ em sẽ thất vọng khi gặp một người ông già đã khác xa rất nhiều so với chàng thanh niên mà em nhớ. Anh không biết nữa.

Hãy tha thứ cho anh.

Anthony

Hai ngày trước đó Ellie nghe tiếng người khẽ gọi tên cô khi cô bước xuống bậc thang của tòa nhà văn phòng cũ lần cuối cùng. Cô quay lại và thấy Anthony O’Hare đang đứng ở trên. Ông cầm một mẩu giấy trên đó ghi nguệch ngoạc một địa chỉ.

Cô vội bước lên lại.

‘Ellie Haworth này, tôi nghĩ là,’ giọng ông tràn đầy sự hứng khởi xen lẫn bối rối và nuối tiếc, ‘đừng nên viết thư. Có lẽ sẽ tốt hơn nếu cô tới gặp cậu ta. Gặp trực tiếp cậu ta, cô biết đấy.’

Boot thân yêu, thân yêu nhất đời của em.

Những từ ngữ dường như đã vỡ òa trong em! Em tưởng như mình đã sống nửa thế kỷ không thể cất tiếng nói. Tất cả dường như đã vượt quá giới hạn, em cố gắng thoát ra khỏi những tổn thương để sống cho tốt. Em âm thầm hối lỗi vì những điều em đã làm. Còn bây giờ… bây giờ? Em mải mê tâm sự với Ellie Haworth cho tới khi cô gái đó kinh ngạc nhìn em chằm chằm và em có thể đọc được suy nghĩ trong cô: lòng tự trọng của bà già này đâu rồi? Sao bà có thể nói chuyện như một cô bé mười bốn tuổi vậy? Em muốn nói chuyện với anh, Anthony. Em muốn nói với anh cho tới khi giọng nói của cả hai chúng ta khản đặc và chúng ta không thể nói được nữa. Em cần phải nói bù cho bốn mươi năm qua.

Làm sao anh có thể nói là anh không biết nữa? Đó không thể là sự sợ hãi. Anh nghĩ em thất vọng khi nhìn thấy anh ư? Sau tất cả những gì đã xảy ra, điều duy nhất em cảm thấy lúc này là niềm hạnh phúc tột cùng khi có cơ hội được gặp lại anh. Tóc của em cũng đã bạc trắng rồi, không còn là mái tóc vàng ngày xưa nữa. Những nếp nhăn trên mắt cũng rõ hơn. Em đã đau đớn và chật vật để qua được nỗi đau đó. Những đứa cháu ngoại của em không tin em có thể là gì khác hơn một bà già từ thời cổ lai hi.

Chúng ta đã già rồi, Anthony ạ. Và chúng ta sẽ không có thêm bốn mươi năm phía trước nữa. Nếu anh vẫn còn ở đó, nếu anh sẵn lòng để em vẽ lại hình ảnh của cô gái anh vẫn lưu giữ trong tâm trí, em sẽ rất vui được làm điều đó vì anh.

Jennifer X

Jennifer Stirling đứng ở giữa phòng, trong chiếc áo choàng mặc nhà, tóc bà dựng sang một bên. ‘Nhìn tôi này,’ bà nói một cách chán chường. ‘Thật là xấu xí. Quá xấu xí. Đêm qua tôi đã không thể ngủ và chỉ chợp mắt một lúc sau năm giờ sáng. Tôi đã ngủ qua giờ đặt chuông báo thức và lỡ hẹn với tiệm làm tóc.’

Ellie nhìn bà chằm chằm. Cô chưa bao giờ thấy bà trong bộ dạng như thế. Sự lo lắng thể hiện rõ trên nét mặt bà. Không được trang điểm, da bà mỏng manh như một đứa trẻ trên một gương mặt dễ bị tổn thương. ‘Bác - bác trông cũng ổn mà.’

‘Tối qua tôi gọi cho con gái và kể sơ qua câu chuyện này. Không kể tất cả, cô biết đấy. Tôi nói với nó tôi sắp gặp lại người đàn ông tôi đã từng yêu và đã không gặp lại từ thời con gái. Đó có phải là một lời nói dối quá đáng không?’

‘Không hề,’ Ellie nói.

‘Cô biết nó đã viết gì cho tôi sáng nay không? Xem này.’ Bà thảy trước mặt cô một tờ giấy với những chữ viết in, một mẩu báo trên một tờ báo của Mỹ, kể về một cặp đôi cưới nhau sau năm mươi năm mất liên lạc.

‘Tôi sẽ phải làm gì với nó chứ? Cô đã bao giờ thấy một việc làm điên rồ như thế chưa?’ Giọng bà vỡ vụn run rẩy.

‘Bác hẹn gặp ông ấy lúc mấy giờ?’

‘12h trưa. Tôi vẫn chưa sẵn sàng cho cuộc gặp đó. Tôi chắc phải hủy thôi.’

Ellie đứng dậy và đặt ấm đun nước lên bếp. ‘Bác sửa soạn quần áo đi. Chúng ta chỉ còn bốn mươi phút nữa. Cháu sẽ chở bác tới đó,’ cô nói.

‘Cô nghĩ tôi thật điên khùng, đúng không?’ Cô lại thấy đây là lần đầu tiên Jennifer Stirling bình tĩnh như vậy. ‘Một mụ già dở người. Giống như một thiếu nữ trong ngày hẹn hò đầu tiên vậy.’

‘Không hề,’ Ellie nhấn mạnh.

‘Sẽ chẳng có gì nếu đó chỉ là những bức thư,’ Jennifer thì thầm đến mức chính bà cũng không nghe thấy. ‘Tôi vẫn có thể là tôi. Tôi vẫn là người phụ nữ anh ấy từng biết. Tôi đã từng rất bình tĩnh và quyết tâm. Còn bây giờ… Điều an ủi duy nhất trong toàn bộ câu chuyện này là tôi biết ở ngoài kia vẫn có một người đàn ông đã từng yêu tôi, người nhìn thấy những điều tốt đẹp nhất ở tôi. Ngay cả ở lần gặp mặt cuối cùng của chúng tôi, tôi biết anh ấy nhìn thấy ở tôi một điều gì đó mà anh khát khao hơn bất kì điều gì trên đời này. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu giờ đây gặp lại tôi và ông ấy sẽ vô cùng thất vọng? Điều ấy còn tồi tệ hơn việc chúng tôi không bao giờ gặp lại nhau nữa. Tồi tệ hơn.’

‘Cho cháu đọc thư của ông ấy được không ạ?’ Ellie hỏi.

‘Tôi không thể tới gặp ông ấy. Cô không nghĩ đôi khi sẽ tốt hơn nếu ta không làm gì ư?’

‘Bức thư đâu, bác Jennifer?’

Jennifer lấy bức thư từ trong tủ ra, chần chừ một lúc rồi đưa cô.

Jennifer thân yêu,

Người già có được phép khóc không nhỉ? Anh ngồi đây và đọc đi đọc lại bức thư của em và anh vẫn chưa tin nổi cuộc đời mình lại có một bước ngoặt bất ngờ và hạnh phúc đến vậy. Hạnh phúc này dường như không phải dành cho chúng ta. Anh đã học cách để biết ơn những gì cuộc đời đã ban cho anh tới giờ phút này: một đứa con trai, những đứa cháu, một cuộc sống ổn định, nếu không nói là ẩn dật. Anh đã sống sót. Đúng vậy, vẫn luôn sống sót.

Và em lại xuất hiện. Những lời nói của em, xúc cảm trong em đã lại thôi thúc lòng tham trong anh. Liệu chúng ta có thể đòi hỏi nhiều hơn thế nữa không? Liệu anh có đủ dũng cảm gặp lại em? Số phận đã không hề rộng lượng với chúng ta, vì vậy một phần nào đó trong anh vẫn luôn tin rằng chúng ta sẽ không thể gặp lại nhau. Anh sẽ bất ngờ bị ốm, bị xe đâm trên đường tới gặp em, bị con quái vật trên sông Thames nuốt chửng.

Hai đêm vừa rồi những lời nói của em vẫn trở đi trở lại trong giấc ngủ của anh. Anh nghe thấy giọng em, chúng khiến anh muốn cất lời hát. Anh nhớ lại những điều anh đã muốn quên đi. Anh mỉm cười khi nhớ lại những khoảnh khắc đáng sợ đã đe dọa gia đình anh và đã đẩy anh đến việc gần như phải điều trị chứng mất trí.

Hình ảnh người con gái anh gặp lần cuối cùng thật mong manh, dễ vỡ, giờ biết em đã gây dựng được cho bản thân một cuộc sống như thế khiến anh phải xem xét lại đánh giá của anh về toàn bộ thế giới này. Thật là một thế giới bác ái, nơi đã cưu mang em và con gái em. Em không thể biết anh đã vui mừng thế nào khi biết điều đó. Sẻ chia. Anh không thể viết thêm gì nữa. Vì vậy anh quyết định mạo hiểm, với một chút lo lắng.

Gặp em tại công viên Postman. Thứ Năm. 12h trưa?

Boot của em, X

Mắt Ellie nhòe lệ. ‘Bác biết không?’ cô nghẹn ngào. ‘Cháu thực sự nghĩ bác không có gì phải lo lắng cả.’

Anthony O’Hare chọn một chiếc ghế băng ở cái công viên ông đã không một lần quay trở lại trong vòng bốn mươi năm qua với một tờ báo chắc ông sẽ không hề liếc mắt và ông nhận ra, với một chút ngạc nhiên, rằng ông vẫn có thể hiểu những gì người ta viết trên những phiến đá ghi những sự kiện đáng nhớ.

MARY ROGERS, NỮ PHỤC VỤ TRÊN TÀU, ĐÃ TÌNH NGUYỆN HY SINH BẰNG VIỆC NHƯỜNG LẠI PHAO CỨU SINH CHO NGƯỜI KHÁC VÀ RỜI KHỎI TÀU TRƯỚC KHI TÀU CHÌM.

WILLIAM DRAKE ĐÃ HY SINH KHI CỐ NGĂN CHẶN MỘT TAI NẠN KHỦNG KHIẾP CỦA MỘT QUÝ BÀ Ở CÔNG VIÊN HYDE PARK DO CON NGỰA CỦA BÀ TỰ DƯNG DỞ CHỨNG KHÔNG THỂ KIỂM SOÁT ĐƯỢC VÀ ANH ĐÃ BUỘC PHẢI PHÁ RỜI CỖ XE RA KHỎI CON NGỰA.

JOSEPH ANDREW FORD, CỨU SỐNG SÁU NGƯỜI TRONG MỘT VỤ HỎA HOẠN Ở MỘT CON HẺM NHỎ VÀ VÀO NHỮNG GIY PHÚT ANH HÙNG CUỐI CÙNG ANH ĐÃ BỊ THIÊU SỐNG TỚI CHẾT.

Ông ngồi đây từ lúc mười giờ bốn lăm phút. Giờ đã là mười hai giờ bảy phút.

Ông đưa đồng hồ lên tai và lắc nhẹ. Tự sâu thẳm trong tim ông vẫn không tin rồi điều này sẽ thành hiện thực. Sao có thể được? Nếu bạn đã từng làm lâu năm cho kho lưu trữ của một tờ báo, bạn sẽ thường xuyên được đọc những câu chuyện lặp đi lặp lại: chiến tranh, nạn đói, khủng hoảng tài chính, những mối tình tan vỡ, ly hôn. Cái chết. Đau tim. Có một vài chuyện kết thúc có hậu. Tất cả những gì ông có đều đơn giản là phần thưởng, ông tự nhủ một cách chắc nịch khi kim đồng hồ tiếp tục dịch chuyển. Đó là điệp khúc quen thuộc khiến ông đau đớn.

Mưa bắt đầu nặng hạt và công viên trở nên vắng lặng. Chỉ còn ông ngồi lại trong chiếc chòi nhỏ. Ở phía xa là con đường lớn với những chiếc xe chạy ào ào trong mưa, bắn nước tung tóe lên hai bên đường.

Đã mười hai giờ mười lăm phút.

Anthony O’Hare tự nhắc mình về tất cả những gì ông đã biết ơn vì cuộc đời mang lại cho ông. Bác sỹ của ông cũng phải ngạc nhiên vì ông vẫn còn sống sót. Anthony ngờ rằng vị bác sĩ đó từ lâu đã sử dụng câu chuyện của ông như một minh chứng cho các bệnh nhân bị bệnh gan khác. Tình trạng sức khỏe tồi tệ của ông là một thách thức cho các bác sỹ và nền y học. Ông thoáng tự hỏi có nên làm một chuyến du lịch cuối đời không. Ông không muốn thăm lại Congo, nhưng Nam Phi có thể là một điểm đến hấp dẫn. Cũng có thể là Kenya. Ông sẽ về nhà và lên kế hoạch. Ông sẽ để mình bận rộn với những kế hoạch này.

Ông nghe tiếng phanh kít của một chiếc xe buýt, tiếng hét thất thanh đầy giận dữ của một người đi xe đạp. Chỉ cần biết bà đã từng yêu ông, thế là đủ rồi, đúng không? Chắc chắn một trong những món quà mà tuổi già mang lại chính là khả năng có thể sắp xếp mọi thứ trong một tổng thể hợp lý. Ông đã từng yêu một người đàn bà, người đã yêu ông hơn cả ông từng nghĩ. Bà vẫn ở đó. Thế là đủ cho ông.

Mười hai giờ hai mươi mốt phút.

Và rồi, khi ông vừa định đứng dậy, cuộn tròn tờ báo trong tay và đi về nhà, ông nhìn thấy một chiếc ô tô nhỏ xinh dừng ngay trước cửa công viên. Ông dừng lại, bị che khuất tầm nhìn bởi chiếc chòi nhỏ.

Hơi một chút lưỡng lự. Cửa xe bật mở và dưới chiếc ô vừa được mở xuất hiện một cặp chân chuẩn bị bước ra khỏi xe cúi xuống nói gì đó với người lái xe và đôi chân đó sải từng bước về phía công viên, theo lối mòn nhỏ về phía chòi.

Anthony O’Hare đứng thẳng dậy, vuốt lại chiếc áo choàng và mái tóc cho đỡ rối. Ông không thể rời mặt khỏi đôi giầy và những sải chân dứt khoát dù bị chiếc dù che mất một phần. Ông tiến một bước về phía trước, không biết nên nói gì và làm gì. Tim ông thổn thức đập. Tai ông như nghe thấy những lời ca. Đôi chân, với chiếc tất sẫm màu, dừng lại trước mặt ông. Chiếc ô từ từ hạ xuống. Và bà đứng đó, vẫn như ngày xưa, khiến người đối diện phải choáng váng, vẫn nụ cười nơi khóe miệng khi mắt bà gặp mắt ông. Ông không thể cất lên lời. Ông không ngừng nhìn bà, khi trong tai ông vẫn văng vẳng tên của bà.

Jennifer

‘Chào Boot,’ bà nói.

Ellie ngồi trong xe, dùng tay áo lau hơi nước đọng mờ trên cửa xe. Cô đậu ngay ở khu vực cấm dừng đỗ, chắc chắn sẽ là mục tiêu cho cảnh sát giao thông, nhưng cô không quan trọng chuyện đó. Cô không thể lái đi chỗ khác.

Cô nhìn theo Jennifer bước dọc theo con đường nhỏ, thỉnh thoảng bà ngập ngừng như thể vẫn còn lo sợ. Đã hai lần bà nhất định đòi quay về, rằng họ đã tới quá trễ, rằng mọi thứ đã mất rồi, và vô ích thôi. Ellie giả đò như không nghe thấy gì. Cô còn hát lalalalalala cho tới khi Jennifer Stirling quay sang nói với cô, với sự bực tức hiếm khi thấy ở bà, rằng cô là một cô gái ‘kỳ quặc và dai như đỉa’.

Cô vẫn tiếp tục nhìn theo bóng dáng Jennifer mảnh mai dưới chiếc ô và chỉ sợ bà đổi ý và quay đầu chạy. Cô bỗng nhận ra rằng tuổi tác không phải là cản trở đối với một tình yêu đích thực. Cô đã nghe Jennifer tâm sự, thấy bà vô cùng bối rối giữa một bên có thể là kết thúc tốt đẹp và một bên là thảm họa. Rồi cô nghe thấy chính mình đang mổ xẻ những lời nói của John, niềm khao khát mãnh liệt để biến một điều sai sót thành điều đúng đắn.

Nhưng Anthony O’Hare là một người hoàn toàn khác.

Cô lau cửa kính lần nữa và thấy Jennifer bước chậm dần rồi dừng lại. Và ông bước ra từ trong chiếc chòi trú mưa, có vẻ cao hơn so với những lần cô gặp ông, ông cũng ngập ngừng dừng lại một lúc trên lối đi ra trước khi ông đứng ngay trước bà. Họ đối mặt nhau, người phụ nữ mảnh mai trong chiếc áo đi mưa và người phụ trách thư viện. Ngay cả từ khoảng cách này Ellie cũng có thể thấy họ dường như quên rằng họ đang đứng dưới mưa, ở một công viên nhỏ bé với rất nhiều ánh mắt hiếu kỳ xung quanh. Mắt họ gắn chặt vào nhau và họ đứng đó như thể họ sẽ đứng đó thêm một nghìn năm nữa. Jennifer thả chiếc ô xuống, đầu nghiêng sang một bên và rất nhẹ nhàng đưa tay lên rờ mặt ông. Anthony đưa tay lên và áp chặt bàn tay bà vào mặt ông.

Ellie Haworth dõi theo họ một lúc, rồi cô quay đi và để mặc cho cửa kính xe mờ đi vì hơi nước. Cô trở về sau tay lái, hỉ mũi và khởi động máy. Một nhà báo giỏi là người biết dừng câu chuyện đúng lúc.

Tòa nhà nằm trên một con phố với những ngôi nhà kiến trúc đặc trưng thời Victoria, cửa sổ và lối đi được lát đá trắng, những tấm rèm cửa chẳng hề giống nhau cho thấy tòa nhà có nhiều căn hộ được sở hữu bởi những người khác nhau. Cô tắt máy, bước ra khỏi xe và đi về phía cửa chính, dò tên trên những chiếc chuông gắn trên tường. Chỉ có duy nhất tên anh ở căn hộ tầng trệt. Cô hơi ngạc nhiên; cô vẫn nghĩ anh không thể có một căn hộ của riêng mình. Nhưng, thực tế là, cô đã biết gì về anh? Chẳng có gì cả.

Cô để bài báo mình viết trong một bao thư lớn màu nâu, đề tên anh ở ngoài. Cô đút bức thư qua cửa và quay ra phía cổng chính. Cô bước lên bậc thềm và ngồi trên một chiếc trụ gạch, quấn khăn choàng quanh mặt. Cô đã quá quen với việc ngồi và chờ đợi thế này rồi. Được ngồi yên tĩnh nhìn thế giới chuyển động quanh mình cũng có cái thú của nó. Đôi khi chúng thú vị ở ngay những điều mình không ngờ tới.

Ở bên kia đường, một phụ nữ cao lớn đang vẫy tay chào tạm biệt cậu thanh niên. Cậu ta kéo mũ trùm đầu, gắn tai nghe vào tai và không hề ngoái lại nhìn mẹ. Phía cuối đường, hai người đàn ông tựa người cạnh nắp capo của một chiếc ô tô lớn. Họ đang nói chuyện với nhau và chẳng có vẻ gì để tâm tới dàn động cơ xe. ‘Cô viết sai tên Ruaridh rồi.’

Cô liếc nhìn ra phía sau, anh xuất hiện ngay ở cửa xe với tờ báo trên tay. ‘Tôi đã làm nhiều việc sai.’

Anh mặc đúng chiếc áo thun dài tay mà anh đã gặp lần đầu tiên họ nói chuyện với nhau, chiếc áo đã khá cũ sau nhiều năm sử dụng. Cô nhớ là cô đã rất ấn tượng trước việc anh không quá chú ý tới chuyện quần áo. Cô cũng nhớ cảm giác những ngón tay của cô ở trên chiếc áo thun đó.

‘Một bài viết hay,’ anh nói và giơ tờ báo lên. ‘“John thân yêu, Những Bức Thư Cuối Cùng Của Một Mối Tình 50 năm”. Tôi thấy giờ cô đã trở thành cục vàng của ban Phóng sự rồi.’

‘Chỉ là bây giờ thôi,’ cô nói, ‘thực ra, có một tình tiết tôi đã dựng lên. Là một điều tôi chắc chắn sẽ nói. Nếu tôi có cơ hội.’

Hình như anh không nghe cô nói. ‘Vậy là Jennifer đồng ý để cô sử dụng bức thư đầu tiên đó?’

‘Đúng vậy. Để nặc danh. Tôi kể cho bà tất cả và bà đã cư xử rất tuyệt.’ Gương mặt anh không hề thay đổi.

Anh có nghe tôi nói không? Cô thầm hỏi anh. ‘Tôi nghĩ bà đã khá ngạc nhiên, nhưng sau tất cả những gì xảy ra, tôi không nghĩ bà quan tâm tới những gì tôi đã làm.’

‘Anthony tới đây hôm qua. Ông hoàn toàn lột xác thành một người khác. Tôi không biết vì sao ông tới đây. Tôi nghĩ chắc ông cần một ai đó để nói chuyện.’ Anh gật đầu, nhớ lại. ‘Ông mặc một chiếc áo sơ mi mới và thắt cà vạt mới. Với một mái tóc mới được cắt gọn gàng.’

Ý nghĩ đó khiến cô mỉm cười.

Im lặng một lúc, rồi Ruaridh bước về phía bậc thềm, hay tay để lên đầu.

‘Cô đã làm được một việc có ý nghĩa.’

‘Tôi hy vọng vậy,’ cô nói. ‘Thật tuyệt khi biết một ai đó có được một kết cục hạnh phúc.’

Một ông già dẫn chó đi dạo ngang qua trước mặt họ, chóp mũi ông ửng đỏ vì lạnh, họ khẽ chào nhau. Cô ngẩng lên và thấy Ruaridh đang nhìn xuống chân. Cô nhìn anh, tự hỏi liệu đây có phải là lần cuối cùng họ còn nhìn thấy nhau. Em xin lỗi, cô thầm nói với anh.

‘Lẽ ra tôi nên mời cô vào nhà,’ anh nói, ‘nhưng tôi đang đóng gói. Có quá nhiều thứ phải dọn dẹp.’

Cô đưa một tay lên, cố không để lộ sự thất vọng. Cô bước xuống chiếc trụ gạch, vải quần của cô chạm nhẹ lên mặt thềm và cô khoác túi lên vai. Cô thấy như mình đang đứng không trọng lượng.

‘Vậy… cô còn mong muốn gì nữa không? Ngoài việc là, cô biết đấy, một cô gái làm bàn giấy thích vui chơi?’

Trời bỗng rất lạnh. Cô nhét chặt tay vào túi áo. Anh nhìn cô kiên nhẫn và chờ đợi. Cô sợ phải nói ra. Nếu anh nói không, cô biết mình sẽ đau lòng như thế nào. Đó là lý do vì sao phải mất hàng tuần cô mới đủ can đảm tới gặp anh. Nhưng cô còn gì để mất? Cô sẽ không còn cơ hội gặp anh lần nữa.

Cô hít một hơi dài. ‘Tôi muốn biết… anh có thể viết thư cho tôi không.’

‘Viết cho cô?’

‘Những lúc anh đi xa. Ruaridh, em suy sụp. Em không thể đòi hỏi anh điều gì, nhưng em nhớ anh. Em thực sự rất nhớ anh. Em vẫn muốn nghĩ rằng chúng ta có thể làm gì đó. Chúng ta có thể…’ Cô bối rối, lau mũi, ‘… viết thư cho nhau.’

‘Viết thư.’

‘Chỉ cần viết về… những chuyện lặt vặt. Anh đang làm gì. Mọi việc ra sao. Anh ở đâu.’ Những từ ngữ bật ra một cách yếu ớt.

Anh dúi tay vào túi áo khoác và nhìn xuống đường. Anh không trả lời. Khoảnh khắc im lặng dài dằng dặc như con đường trước mặt. ‘Trời rét cóng,’ cuối cùng anh cũng cất tiếng.

Cô thấy có cái gì đó trĩu nặng đè xuống tim cô. Câu chuyện của họ đã chấm hết. Anh thậm chí không còn gì để nói với cô. Anh liếc nhìn phía sau như một lời xin lỗi. ‘Tôi đã cắt toàn bộ hệ thống sưởi trong nhà.’

Cô không thể nói lời nào. Cô nhún vai và cố mỉm cười dù cô nghĩ nó trông giống như cô đang nhăn nhó hơn. Cô quay mặt đi và nghe giọng anh cất lên lần nữa.

‘Tôi nghĩ cô có thể vào nhà và làm cho tôi một ly cà phê nóng. Trong lúc tôi xếp đống tất của mình. Hình như nếu tôi nhớ không lầm, cô vẫn nợ tôi một ly cà phê.’

Khi cô ngoảnh lại nhìn anh, mặt anh không còn sự lạnh lùng như trước nữa. Chưa hẳn là hoàn toàn rạng ngời nhưng đã có nét nào đó rất ấm áp. ‘Có thể cô liếc qua visa đi Peru của tôi, xem có lỗi chính tả nào không.’

Cô đưa mắt nhìn anh, nhìn đôi chân đi tất của anh, mái tóc màu nâu hiếm khi nào gọn gàng của anh. ‘Anh chắc chắn không muốn nhầm lẫn giữa Patallacta với Phuyupatmarca,’ cô nói.

Anh nhướng mắt nhìn lên trời, khẽ lắc đầu. Và, cố gắng giấu nụ cười tươi, Ellie bước vào nhà sau anh.

Lời cảm ơn

Mỗi chương trong cuốn sách này được lấy cảm hứng từ những bức thư cuối cùng mà những người tình gửi cho nhau, có thể là thư tay, thư điện tử hay một hình thức liên lạc tương tự nào đó, ngoại trừ bức thư trong chính cuốn truyện này.

Hầu hết những bức thư được chủ nhân của chúng hào phóng mến tặng tôi nhờ vào lời kêu gọi của tôi, và trong tất cả những bức thư chưa công bố trước đây tôi đã giấu danh tính của người gửi và người nhận, để bảo vệ những người không liên quan (hoặc không liên quan nhiều lắm).

Tuy nhiên, để tổng hợp những bức thư này tôi đã cần tới sự trợ giúp của một vài người và tôi rất vui mừng được ngỏ lời cám ơn họ ở đây. Xin gửi lời cảm ơn tới Brigid Coady, Suzanne Parry, Kate Lord Brown, Danuta Kean, Louise McKee, Suzanne Hirsh, Fiona Veacock và những con người hào phóng tuyệt vời khác nhưng không muốn nêu tên đã cung cấp cho tôi những bức thư tình cuối cùng của họ.

Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Jeanette Winterson, gia đình F. Scott Fitzgerald và trường Đại học Báo chí New England đã cho phép tôi trích dẫn những bức thư văn học dùng trong cuốn sách này.

Cám ơn đội ngũ làm việc tuyệt vời tại Hachetter: biên tập viên Carolyn Mays, Francesca Best, Eleni Fostiropoulos, Lucy Hale, đội ngũ tiếp thị sách và kỹ năng biên tập đáng nể của Hazel Orme.

Xin cảm ơn đội ngũ làm việc tại Curtis Brown, đặc biệt đại lý của tôi, bà Sheila Crowley. Xin được bày tỏ sự biết ơn Thư Viện Báo Chí Anh Quốc tại Colindate, một kho tàng tuyệt vời cho những nhà văn muốn đắm mình trong một thế giới hoàn toàn khác.

Cảm ơn bố mẹ tôi, Jim Moyes và Lizzi Sanders, và Brian Sanders. Cảm ơn hội đồng Writersblock, một nguồn động viên và khích lệ tôi liên tục và cũng là nơi tôi dành nhiều thời gian nhất.

Cuối cùng, lời cám ơn lớn nhất xin dành cho gia đình tôi, Charles, Saskia, Harry và Lockie.