Cha Và Con

Chương 17




Sáng hôm sau, hai cha con lên đường từ rất sớm. Chưa đi được bao xa thì thằng bé bỗng khựng lại níu lấy tay anh. Phía đằng trước có một dải khói bay lên. Hai cha con đứng yên.

-Mình làm gì bây giờ hở cha?

-Có lẽ là chúng ta nên nhìn thử một chút.

-Hay chúng ta cứ đi thôi.

-Nếu họ cũng đi cùng đường với chúng ta thì sao?

-Thì sao ạ?

-Thì họ sẽ ở ngay sau lưng chúng ta. Cha muốn biết xem đó là ai.

-Nếu đấy là lại là một toán lính thì sao ạ.

-Đám củi ấy nhỏ thôi.

-Sao chúng ta không đợi hở cha?

-Chúng ta không đợi được con ạ. Chúng ta sắp hết thức ăn rồi. Chúng ta phải đi tiếp.

Họ để xe lại trong rừng. Anh xem lại khẩu súng và vị trí của đám lửa. Hai cha con căng tai ra nghe ngóng. Tia khói ngoằn ngoèo bay thẳng lên trời. Trời lặng gió. Vạn vật lặng như tờ. Thảm lá dưới chân hai cha con êm và mềm do trận mưa vừa qua. Anh quay lại nhìn con.Anh đọc được sự sợ hãi trên khuôn mặt nhỏ bé và lem luốc của con. Hai cha con tiếng lại gần nhưng vẫn giữ một khoảng cách nhất định. Thằng bé nắm chặt tay anh. Anh cúi xuống và vòng cánh tay qua người. Hai cha con đứng im nghe ngóng trong một lúc lâu.

-Cha nghĩ là họ bỏ đi rồi con ạ - anh thì thầm một lúc lâu.

-Sao ạ?

-Cha nghĩ là họ đã đi rồi. Có lẽ họ đã phát hiện ra cha con mình.

-Đấy có thể là một cái bẫy.

-Ừ. Chúng ta đợi một lúc nữa xem sao.

Hai cha con ngồi đợi và nhìn chăm chú dải khói qua những thân cây. Gió bắt đầu thổi, lay động làn khói làm chúng lan tỏa. Họ có thể ngửi thấy mùi khói và mùi nấu nướng.

-Cha con mình đến gần hơn một chút nữa nào.

-Con nắm tay cha nhé.

-Đây con.

-Rừng toàn những thân cây cháy. Chẳng nhìn thấy một ai cả. Cha nghĩ là họ đã nhìn thấy chúng ta rồi. Và họ thấy ta có súng thế là họ bỏ đi.

-Họ bỏ cả đồ ăn đang nấu ạ?

-Ừ. Chúng ta xem qua một chút nhé.

-Cha ơi con sợ lắm.

-Không có ai đâu con. Không có chuyện gì đâu.

Họ tiến dần ra khoảng rừng trống, thằng bé nắm chặt tay anh. Những người đó đã mang tất cả mọi thứ đi trừ một cái xiên trên than. Anh đứng xem xét xung quanh rồi đột nhiên thằng bé úp chặt mặt vào lưng anh. Anh vội ngoảnh lại xem có chuyện gì xảy ra.

-Gì thế con? Sao vậy con?

Người thằng bé run lên bần bật.

-Ôi cha ơi, thằng bé nói.

Anh quay lại nhìn con một lần nữa. Ở cái xiên đặt trên than là một cơ thể cháy dở của một đứa bé mới sinh đã bị chặt đầu và moi hết nội tạng. Anh xốc con lên vừa chạy lên đường vừa ôm thằng bé thật chặt.

-Cha xin lỗi, con trai, cha xin lỗi.

Anh không biết là liệu thằng bé có bao giờ cất được lời nói nữa không. Hai cha con dừng chân bên cạnh một con sông. Anh ngồi bên đống lửa nhìn xuống dòng nước đang chảy vào bóng đêm. Anh biết đây là chỗ không an toàn chút nào vì âm thanh từ dòng sông sẽ thu hút những kẻ khác, nhưng anh nghĩ nó có thể làm cho con cảm thấy vui hơn. Họ đã ăn đến những phần cuối cùng của số thức ăn dự trữ. Anh xem xét tấm bản đố. Anh đo đi đo lại đoạn đường trên tấm bản đồ bằng một sợi dây. Còn xa lắm mới đến được bờ biển. Anh không biết là anh sẽ nhìn thấy gì ở bờ biển nữa. Anh gom những mảnh của tấm bản đồ lại cất vào trong một cái túi nhựa rồi nhìn đăm đăm vào đống than.

Ngày hôm sau, hai cha con vượt qua một cái cầu hẹp bằng sắt để sang sông và lọt vào một khu nhà máy cũ. Họ vào những căn nhà gỗ nhưng không tìm được gì cả. Chỉ có xác của một người công nhân với bộ quần áo bảo hộ lao động dựa vào cổng. Trông anh ta cứ như là một người đang chuẩn bị thông báo tin tức về ngày nghỉ. Hai cha con đi dọc bứ tường cháy đen của nhà máy, những cửa sổ đã vỡ hết. Những đám bụi đen đang đuổi bắt nhau trước mặt họ.

Những đồ vật nằm ngổn ngang trên đường. Các thiết bị điện. Đồ gia dụng. Các công cụ. Chúng đã bị bỏ lại từ lâu bởi những kẻ lang thang chết dần chết mòn trên đường. Mộ năm trước đây thôi, thỉnh thoảng thằng bé vẫn còn nhặt những đồ linh tinh và mang theo trên đường một thời gian nhưng bây giờ nó không làm như vậy nữa. Hai cha con ngồi nghỉ, tu hết chỗ nước sạch cuối cùng rồi đặt cái bình xuống mặt đường.

-Nếu như cha con mình có được đứa bé đó thì nó có thể đi cùng chúng ta.

-Ừ.

-Không biết họ đã tìm thấy nó đâu.

Anh không trả lời.

-Liệu có còn đứa bé như thế ở đâu không hở cha?

-Cha không biết. Có lẽ có.

-Con thấy tiếc về những điều con nói về những người đó.

-Những người nào hả con?

-Những người đã bị thiêu cháy. Bị giết trên đường rồi bị thiêu cháy.

-Cha không biết là con đã nói điều gì tệ.

-Nó không tê. Chúng ta đi chưa cha?

-Được rồi. Con lên xe ngồi nhé.

-Con không sao mà.

-Lên ngồi một đoạn thôi.

-Con không muốn. Con ổn mà.

Một dòng nước lặng lờ qua một dải đất bằng phẳng. Những bãi lấy hai bên đường xám đen và im lìm. Những con sông của vùng duyên hải chảy ngoằn ngoèo qua những vùng canh tác đã bị tàn phá. Hai cha con đi tiếp. Phía trước con đường là một vùng trũng toàn những cây lau sậy.

-Cha nghĩ là đằng kia có một cái cầu. Có lẽ là qua một con suối.

-Thế mình có uống được nước ở đây không cha?

-Chúng ta không còn sự lựa chọn nào khác con ạ.

-Nó sẽ không làm cha con mình ốm đâu.

-Cha không nghĩ thế. Có thể là nó cạn rồi con ạ.

-Con đi lên trước nhé.

-Ừ.

Thằng bé lao xuống xuống con dốc. Lâu lắm rồi anh không nhìn thấy con chạy. Tay thì khuỳnh ra, chiếc giày to quá cỡ loẹt quẹt trên đường. Anh cắn môi nhìn con chăm chú.

Nước chảy rỉ rỉ như một cái rãnh. Anh có thể thấy dòng nước đang chảy xuống phía dưới lớp bê tông của con đường. Anh khoắng thử vao trong nước và xem xét. Anh lấy ra một mảnh vải bịt nó vào miệng bình rồi dìm nó xuống nước cho đến khi đầy. Anh đưa ra trước ánh sáng để nhìn cho rõ. Cũng không đến nỗi tệ. Anh bỏ tấm vải ra và đưa nước cho con.

-Con uống đi.

Thằng bé cầm chai tu rồi đưa lại cho anh.

-Uống thêm đi con.

-Cha uống một chút đi.

-Ừ.

Hai cha con ngồi gạn lọc một hồi và uống cho đến khi căng bụng. Thằng bé nằm vật ra cỏ.

-Chúng ta phải lên đường thôi con ạ.

-Con mệt lắm cha à.

-Cha biết.

Anh ngồi nhìn con. Hai ngày rồi hai cha con không có gì bỏ bụng. Chỉ trong hai ngày nữa nếu cứ tiếp tục thế này thì họ sẽ lả đi. Anh lách qua những cây sậy lên bờ nhìn ra đường. Tối tăm và chẳng có dấu hiệu gì của sự sống. Cơn gió bốc tro bụi lên khỏi mặt đất. Nơi đây đã từng là mảnh đất màu mỡ. Bây giờ không có một bóng dáng nào của sự sống. Anh chẳng biết mình đang ở nơi nào trên trái đất nữa. Những cái tên, những thành phố, những dòng sông.

-Hai cha con mình phải đi thôi, đứng dậy đi con, anh nói.

Càng ngày họ càng ngủ nhiều hơn. Hơn một lần hai cha con tỉnh dậy với tư thế sõng soài trên mặt đường như những kẻ bị tai nạn. Giấc ngủ vùi của cái chết. Anh ngồi dậy lấy khẩu súng. Tối hôm đó, anh đứng tựa vào xe nhìn qua cách đồng xám xịt. Cách đó khoảng một dặm là một ngôi nhà. Thằng bé đã nhìn thấy nó. Ẩn hiện sau màn tro bụi, ngôi nhà giống như hình ảnh của một giấc mơ chập chờn. Anh tựa người vào xe và nhìn con. Họ sẽ phải rất vất vả mới đến được ngôi nhà. Anh lấy chăn và giấu xe. Hai cha con có thể đến được ngôi nhà nhưng sẽ không còn sức để quay lại.

-Chúng ta không còn sự lựa chọn nào khác con ạ, chúng ta phải xem xét ngôi nhà đó.

-Con không muốn cha ạ.

-Hai cha con mình đã không ăn uống gì trong vài ngày rồi.

-Con không thấy đói.

-Không, con sắp chết vì đói.

-Con không muốn đến đó đâu cha ơi.

-Không có ai ở đó đâu. Cha hứa đấy.

-Làm sao cha biết.

-Cha biết điều đó. Vậy thôi.

-Họ có thể ở đó lắm chứ.

-Không đâu. Họ không ở đó đâu. Hai cha con mình sẽ ổn thôi.

Hai cha con quấn chăn vào người rồi băng qua cánh đồng, mang theo khẩu súng và một chai nước. Chánh đồng này đã được bừa lần cuối trước khi bị thiêu trụi. Nhũng gốc ra bị lật lên nằm khắp nới và vẫn thấy được dấu vết của bừa dĩa từ phía đông sang phía tây. Gần đây chắc trời mưa nên lớp đất dưới chân hai cha con lún xuống, mềm nhão. Hai cha con lầm lũi đi. Đột nhiên anh dừng lại và nhặt một mũi tên từ dưới đất lên. Anh nhổ một ít nước bọt, lau nó vào một bên quần rồi đưa cho thằng bé. Trắng sáng hoàn hảo như mới.

- Thế nào cũng còn nữa, con nhìn xuống đất xem.

Anh tìm được thêm hai cái nữa. Cứng và xám. Anh nhặt lên một đồng xu cũng có thể chỉ là một cái nút. Nó được bao bọc bởi một lớp gỉ đồng dày.. Anh dùng móng tay cào cào lớp vỏ gỉ. Một đồng xu. Anh lấy con dao ra và cẩn thận cậy cho bong lớp gỉ. Trên đồng có khắc chữ Tây Ban Nha. Anh định gọi con lại nhưng nhìn lên bầu trời âm u và cánh đồng xám xịt, anh thả đồng xu xuống và vội bắt theo thằng bé.

Hai cha con đứng ngoài nhìn vào ngôi nhà. Có một lối đi rải sỏi ngược về phía nam. Hàng hiên bằng ngói. Hai bậc thềm để dẫn lên cổng vào. Phía sau ngôi nhà là một đống đổ nát có lẽ trước đây là bếp. Xa hơn một chút là một cái nhà kho. Anh nhấc chân định bước lên thềm thì thằng bé níu tay anh lại.

-Cha ơi, chúng ta đợi một lát được không?

-Cũng được, nhưng trời sắp tối rồi.

-Con biết.

-Thôi được.

Hai cha con ngồi xuống và nhìn bao quát ra khắp vùng quê.

-Không có ai ở đây đâu con ạ.

-Dạ.

-Con vẫn còn sợ à?

-Vâng.

-Cha con mình sẽ ổn thôi.

-Vâng

Họ đứng dậy bước lên thềm qua cái cổng vòm lát gạch. Cánh cổng đen kịt được chống bằng một thân gỗ cháy sém. Trong sân, gió cuốn cỏ và lá khô bay xào xạc. Thằng bé lại níu lấy tay anh.

-Sao cửa lại mở hở cha.

-Trước đó nó đã mở rồi. Có thể nó đã như thế từ nhiều năm nay rồi con ạ. Có lẽ là những người cuối cùng ở đây đã mở để vận chuyển đồ.

-Có lẽ chúng ta nên đợi đến ngày mai cha à.

-Can đảm lên con trai, chúng ta sẽ xem xét qua mọi thứ một chút trước khi trời quá tối. Nếu ở đây an toàn thì chúng ta sẽ nhóm lửa.

-Nhưng chúng ta sẽ không ở trong nhà phải không ạ?

-Chúng ta không nhất thiết phải ở trong nhà.

-Vâng.

-Con uống một chút nước đi.

-Vâng.

Anh lôi chai nước từ trong túi áo ra, vặn nắp và đưa cho con. Anh nhìn nó uống nước. Sau đó anh cũng uống rồi vặn nắp lại và cất chai nước vào chỗ cũ. Anh nắm lấy tay con và hai ca con bước vào gian phòng ngoài tối om. Trần nhà rất cao. Một chùm đèn lộng lẫy. Ở chân cầu thang là một khung cửa sổ lớn theo kiểu palladian. Cái khung ấy đã bị đổ ập xuống cầu thang, lờ mờ trong những tia sáng cuối cùng của ngày.

-Chúng ta không cần lên cầu thang đúng không cha? Thằng bé thì thào. Ừ, có thể là mai con ạ.

-Khi chúng chúng ta biết chắc là ở đây an toàn ạ?

-Ừ.

-Vâng.

Hai cha con bước vào phòng khách. Tấm thảm phủ đầy bụi. Những đồ đạc được phủ bằng những tấm ga trắng. Những ô vuông trên tường trước đây là những bức tranh. Trong căn phòng bên cạnh phòng chờ có một cây đàn pianô to. Hình ảnh phản chiếu của hai cha con nhòe nhoẹt trên tấm kính mỏng ròng ròng nước của cánh cửa sổ trong phòng này sang phòng khác như những kẻ mua nhà khó tính. Họ đứng nhìn ra ngoài trời tối qua những khung cửa sổ cao.

Trong bếp là dụng cụ ăn, xoong nồi và các đồ sứ của Anh. Sau cánh cửa là một cái tủ đựng thức ăn. Sàn lát đá và trên những cái giá xếp hàng dọc theo tường có vài tá bình thạch anh. Anh băng qua căn phòng, lượm một cái bình lên và thổi bụi bám trên đó. Đậu xanh. Ớt thái lát được xếp hàng ngăn nắp. Khoai tây. Ngũ cốc. Cà chua. Mướp tây. Thằng bé chăm chú nhìn anh. Anh phủi cho hết bụi ở miệng bình rồi thử dùng ngón cái bẩy nắp bình ra. Không được. Trời sụp tối rất nhanh. Anh mang hai cái bình ra bệ cửa sổ và dốc ngược nó lên xem xét. Anh nhìn con.

-Nó có thể có độc. Cha con mình phải chế biến thật kỹ.

-Con thấy sao?

-Con không biết.

-Con muốn làm gì với chúng?

-Cha nói đi.

-

-Con cũng phải nói chứ.

-Cha có nghĩ là nó an toàn không?

-Cha nghĩ chúng ta nấu thật kĩ thì không có chuyện gì cả.

-Vâng, thế cha có nghĩ là có ai đó đã ăn chúng rồi không?

-Cha nghĩ không ai tìm thấy chúng cả. Họ không thể phát hiện ra ngôi nhà từ ngoài đường xa.

-Nhưng chúng ta đã phát hiện ra đấy thôi.

-Con chứ.

Thằng bé nhìn chăm chăm vào cái bình.

-Con nghĩ sao?

-Con nghĩ là cha con mình không còn sự lựa chọn nào khác.

-Con nói đúng đấy. Hai cha con mình phải đi kiếm ít củi trước khi trời tối hơn.

Hai cha con vác về hàng ôm những cành cây khô phía sau bếp và mang vào phòng ăn. Khi đủ củi thì họ gần như kiệt sức. Anh nhóm lửa trong lò sưởi. Khói cuộn ra khắp phòng. Anh lấy một tờ tạp chí quạt cho lửa bùng lên. Một lúc sau lửa đã cháy rừng rực hắt ánh sáng lên trần nhà và lên vô số các cạnh của chiếc đèn chùm. Khói chui ra ngoài theo một cái ống thông trên bếp lò. Ngọn lửa chiếu sáng cả những tấm kính ám muội của khung cửa sổ nơi hai cha con đang đứng với cái bóng khổng lồ của mình. Trông thằng bé cứ như là bị choáng vì hơi nóng tỏa ra từ ngọn lửa. Anh lột tấm ga của chiếc bàn ăn dài ở giữa phòng, giũ sạch làm ổ cho hai cha con ngay trước nền lò sưởi. Anh bế con đặt vào giữa cái ổ, tháo giày và những mảnh giẻ rách cuốn quanh chân con.Anh dịu dàng thầm thì nói với con.

-Mọi chuyện sẽ ổn thôi.

Anh tìm thấy vài cái nên ở trong ngăn kéo và thắp hai cây lên, cho sáp nhỏ xuống bệ rồi đặt hai cây nến lên trên đó. Anh đi ra ngoài lấy thêm củi và xếp thành chồng bên cạnh lò sưởi. Thằng bé không động cựa gì cả. Có đủ nồi niêu, xoong chảo trong bếp. Anh cố gắng mở nắp mấy cái bình nhưng không được. Anh bê một cái bình đỗ xanh và một bình khoai tây ra cửa trước.Trong ánh sáng của ngọn nến đặt trên mảnh kính, anh quỳ xuống để cái nắp bình nằm ngang ra giữa khung cửa và mép cánh cửa. Sau đó anh ngồi xổm kẹp chặt nút bình giữa cánh và khung cửa, dùng chân lèn chặt mép cửa và bắt đầu cố gắng xoay bình để giật nắp ra. Phần lồi ra của nắp cọ vào làm xước cả sơn cửa. Anh ấn chặt hơn và thử lại một lần nữa. Cái nắp trượt trên gỗ nhưng không suy chuyển. Anh cẩn thận dựng cái bình rồi mang nó đặt trên bệ lò. Khi thử mở cái bình thứ hai cũng không được, anh mang cả hai bình vào phòng. Anh thủ dùng tay bẩy những bình còn lại nhưng nó quá chặt. Anh nghĩ đó là một dấu hiệu tốt. Anh để khe của nắp bình trên bệ, dùng tay đấm lên đo cho đến khi cái nắp bật ra, rơi xuống sàn. Anh nâng bình lên mũi ngửi. Mùi rất thơm. Anh dốc khoai tây và đậu xanh ra một cái nồi rồi cho lên lò.

Hai cha con ngồi đối diện nhau trên cái bàn dài, ở giữa là một ngọn nến, lặng lẽ ăn đậu xanh và khoai tây trong hai cái bát sứ . Khẩu súng nằm đó, sát cạnh tay anh như một kẻ thứ ba cũng đang chậm rãi ăn khẩu phần của mình. Ngôi nhà ấm dần lên, kêu cọt kẹt khắp nơi. Chúng rên rỉ không ngừng như những con thú ngủ đông bị đánh thức. Thằng bé ngủ gật, đánh rơi cả thìa xuống sàn. Anh vòng qua bàn, bế con vào nằm trước lò sưởi và đắp chăn cho con. Anh quay lại bàn, vùi mặt vào hai cánh tay. Đêm nay anh sẽ thức trông cả đêm. Căn phòng lạnh dần.Bên ngoài gió vi vu lượn lờ. Bản lề cửa sổ kêu kẽo kẹt. Nến tắt còn lửa thì đã tàn. Anh nhỏm dậy nhóm lại rồi ngồi bên cạnh con. Anh kéo lại chăn cho con và xoa xoa mái đầu bù xù cáu bẩn của nó.

-Cha nghĩ là họ đang theo dõi chúng ta. Anh thầm thì.

Họ đang tìm một thứ mà cái chết cũng không phá hủy được. Nếu họ không nhìn thấy nó, họ sẽ bỏ đi và không quay lại nữa.

Thằng bé nhất định ngăn không cho anh lên tầng trên. Anh cố thuyết phục con.

-Trên đó có thể có chăn. Chúng ta phải lên xem thế nào.

-Con không muốn cha lên đó.

-Không có ai ở trên đó đâu con trai.

-Có thể lắm chứ.

-Không đâu. Nếu có thì con có nghĩ là họ đã xuống đây từ trước rồi không?

-Có thể là họ sợ.

-Chúng ta sẽ nói với họ là chúng ta không làm họ đau.

-Có thể họ đã chết rồi.

-Thế thì họ sẽ không thấy phiền đâu nếu chúng ta lấy một ít đồ. Con nhìn vào cha này. Dù trên đó có gì đi chăng nữa thì chúng ta cũng nên biết. Biết thì tốt hơn con ạ.

-Tại sao ạ?

-Vì thế thì chúng ta sẽ chủ động hơn. Cha con mình không thích bị bất ngờ đúng không. Những điều bất ngờ thì dễ làm chúng ta hoảng sợ. Với lại trên đó có thể có thứ mà cha con mình cần. Chúng ta phải lên xem.

-Dạ, tùy cha vậy.

-Tùy cha ư. Con không đồng ý sao?

-Đằng nào cha cũng không nghe con mà.

-Cha có nghe con đấy chứ.

-Nhưng không nhiều.

-Con à, không có ai ở đây cả. Chắc chắn là đã không có ai ở đây vài năm rồi. Con nhìn xem sàn không có dấu vết gì cả. Mọi thứ không hề bị lộn xộn. Đồ đạc còn nguyên. Thức ăn vẫn còn nguyên. Không có gì bị đốt trong lò cả.

-Tro thì làm sao lưu lại được dấu vết. Cha đã nói với con thế mà. Gió sẽ xóa mất dấu vết.

-Thôi được. Thế thì cha sẽ lên đó thôi vậy.

Hai cha con ở đó được bốn ngày chỉ ăn uống và nghỉ ngơi. Anh tìm được thêm nhiều chăn trên tầng. Hai cha con đi lấy rất nhiều củi về chất đống ở cạnh lò sưởi cho khô. Anh tìm được một cái cưa có vẻ như rất lâu đời rồi và định dùng nó để xẻ cây thành từng khúc. Những lưỡi cưa đã gỉ. Anh ngồi trước lò sưởi dùng cai giũa mài lại lưỡi cưa nhưng không hiệu quả lắm. Ở cách ngôi nhà không xa là một con suối. Anh băng qua bờ ruộng trơn và lầy lội xách hàng xô nước về đun để hai cha con tắm gội ở trong cái bồn đằng sau phòng tắm ở tầng trệt. Anh cắt tóc cho con và cũng tự cắt tóc, cạo râu cho mình. Hai cha con mặc quần áo mới và lấy chăn gối mới trên tầng hai. Anh phải cắt bớt ống quần đi thì mới vừa với thằng bé. Anh cũng làm lại một cái ổ mới để hai cha con ngủ ở nền lò sưởi. Anh lấy thêm một cái tủ cao trước đây đựng quần áo quây lấy chỗ ngủ cho ấm. Anh lấy xô hứng nước mưa dưới cái máng ở mái nhà. Đêm đêm, hai cha con có thể nghe thấy tiếng mưa đổ rào rào trên những nếp gợn của mái nhà bằng kim loại và âm thanh của nước dột tí tách.

Họ lục lọi cả nhà trong nhà ngoài xem có cái gì hai cha con có thể tận dụng được. Anh tìm thấy một cái xe cút kít. Anh lật ngửa nó ra, xoay chầm chậm cái bánh xe để kiểm tra lốp. Cái lốp lép kẹp và rạn nứt nhưng anh nghĩ nó vẫn có thể chứa được hơi nên anh lục tung trong một đống hổ lốn những đồ linh tinh và tìm thấy một cái bơm xe đạp. Anh ấn ống bơm vào van nhưng hơi lại xì ra. Anh phải bảo con giữ chặt lại cho đến khi nào được thì thôi. Anh lộn cái xe lại bình thường và thử đẩy đi đẩy lại. Xe còn tốt. Anh đem nó ra ngoài trời mưa và cọ rửa . Hai ngày sau trời trở nên quang đãng. Hai cha con lên đường mang theo đống chăn, quần áo và đồ ăn mới chất trên cái xe cút kít. Anh cũng tìm thêm được một đôi giày lao động và thằng bé thì đeo một đôi giày tenis rộng đến nỗi anh phải nhét thêm giẻ và bọc tất cả các đầu ngón chân của con lại. Hai cha con đeo những cái mặt nạ mới. Khi lên đến đường nhựa, hai người phải quay lại khoảng gần nửa dặm để tìm lại cái xe kéo. Thằng bé thì đẩy xe cút kít. Nó quay sang nói với anh:

-Cha con mình thật may mắn cha nhỉ?

-Ừ, chúng ta thật may mắn.

Họ ăn uống khá đầy đủ nhưng vẫn còn xa lắm mới đến được bờ biển. Anh biết anh đang đặt hy vọng vào một điều bấp bênh. Anh ước mọi việc sẽ trở nên sáng lạng hơn trong khi trái đất này đang ngày càng tăm tối. Anh đã từng nhặt được thiết bị đo ánh sáng trong một cửa hàng camera, anh mong mỏi sẽ tìm được pin cho nó chạy và khi đó anh sẽ có được những số liệu, nhưng chẳng bao giờ anh tìm được pin cả.Đêm đến, anh lại rơi vào những cơn ho không dứt. Anh ngồi đó, hai tay ghì chặt lấy đầu cố giấu đi sự tuyệt vọng. Anh chẳng khác gì một người thấy mình tỉnh dậy trong hầm mộ. Chẳng khác gì những xác chết mà hồi còn bé anh đã chứng kiến được khai quật lên để xây dựng một đường cao tốc. Xác của những người đã chết trong đợt dịch tả. Họ được mai táng một cách vội vã tạm bợ trong những cái hộp bằng gỗ. Thứ gỗ đã mục nát và thậm chí còn không có nắp đậy. Họ đào những thây ma co quắp ấy lên. Những tròng mắt xỉn màu thối rữa lòi ra khỏi hố mắt nhầy nhụa, rớt xuống mặt dưới của áo quan.

Hai cha con đứng trước cửa hàng rau quả tại một thị trấn nhỏ. Trên tường ngoài của cửa hàng có đính một cái đầu hươu. Thằng bé đứng ngắm nó một lúc lâu. Trên bậc thềm vương vãi những mảnh kính vỡ. Anh bảo con đợi ngoài cửa còn anh vào trong, nhưng bên trong chẳng có gì ngoài rác rưởi. Bên ngoài có hai cái máy bơm xăng. Hai cha con ngồi xuống bậc thềm bằng bê tông, buộc dây vào một hộp thiếc, dòng nó xuống bể chứa ngầm dưới đất và kéo lên được khoảng một cốc đầy xăng. Anh rót nó vào một bình nhựa rồi lại tiếp tục thả cái hộp xuống. Được một lúc, anh thay sợi dây bằng một đoạn ống cứng hơn vào cái hộp. Hai cha con bò rạp phía trên bể như những con đười ươi đang dùng một cái que moi kiến từ trong tổ kiến ra. Khoảng một tiếng sau thì bình đầy. Anh vặn nắp lại, cất nó xuống đáy xe và hai cha con tiếp tục lên đường.

Những ngày dài đàng đẵng. những miền quê hoang tàn nối tiếp nhau trong những cơn lốc tro bụi. Thằng bé ngồi bên ngọn lửa với những mảnh rời của tấm bản đồ trên đùi. Nó học thuộc lòng những cái tên thành phố, các dòng sông và tính toán xem mỗi ngày hai cha con đi được bao xa.

Khẩu phần ăn của hai cha con ngày một ít ỏi hơn. Số lương thực dự trữ sắp hết. Thằng bé đứng trên đường, hai tay nắm chặt tấm bản đồ. Hai cha con lắng nghe nhưng chẳng thấy gì. Tuy nhiên, anh cũng thấy được một sự đổi khác: càng đi về phía Bắc thì không khí càng thoáng đãng hơn. Và một ngày nọ khi hai cha con rẽ qua một khúc ngoặt trên đường thì một làn gió biển mang vị mằn mặn của muối táp vào mặt và thổi tung tóc họ. Hai người đứng lại lật mũ trùm áo khoác ra để cảm nhận làn gió. Phía xa xa là bờ biển xám xịt, ầm ì với những con sóng, trông như những chiếc lược bọt lầm lũi trườn vào bờ.

Trông nó điêu tàn đến mức khó lòng nhận ra. Anh tưởng như mình đang gặp một vật đến từ một thế giới chưa từng được biết đến. Phía ngoài thềm thủy triều là một con tàu bị lật nghiêng. Xa hơn nữa, nước biển màu tro sóng sánh nặng nề như một vạt xỉ lò khổng lồ. Anh đọc thấy sự thất vọng trên mặt con.

-Con trai, ta rất tiếc, nó không còn màu xanh nữa.

-Không sao đâu cha à – thằng bé đáp.

Một giờ sau, hai cha con ngồi trên bãi biển, gót chân chôn trong cát, nhìn đăm đăm vào màn khói mờ dâng lên phía chân trời. Từng đợt sóng cứ liếm mãi vào chân họ. Lạnh lẽo. Tiêu điều. Không một bóng chim. Anh giấu xe trong một bụi dương xỉ diều hâu bên kia những đụn cát. Hai cha con tìm một nơi kín gió dưới những đống củi to và ngồi ở đó rất lâu, người quấn chặt trong chăn. Dọc theo bờ vịnh tước mặt, những mảnh xương nằm rải rác với đám tảo biển. Xuống biển một chút, bộ sườn trắng ở có lẽ là của một con gia súc lộ ra trên bãi. Các hòn đá được phủ bởi một lớp muối màu tro. Gió cuốn những quả ké chạy lông nhông trên bờ biển.

-Cha có nghĩ là ngoài kia có tầu không?

-Cha nghĩ là không.

-Nếu xa quá thì không thể thấy được đúng không ạ?

-Ừ.

-Thế phía bên kia biển thì có gì hở cha?

-Chẳng có gì con ạ.

-Phải có cái gì đó chứ.

-Có thể bên kia biển có một ông bố và một cậu con trai đang ngồi cùng nhau trên bãi biển.

-Cũng có thể.

-Ừ, biết đâu đấy.

-Và hai người đó cũng có một đống lửa nữa. Ứ, có lẽ thế.

-Nhưng chúng ta không biết chắc được.

-Ừ.

-Nên chúng ta phải cảnh giác.

-Thế hai cha con mình sẽ ở đây trong bao lâu ạ?

-Cha không biết nữa. Chúng ta sắp hết thức ăn rồi.

-Con biết.

-Con thích ở đây đúng không?

-Vâng.

-Cha cũng thế.

-Thế con có được bơi không hở cha?

-Bơi ư ?

-Vâng.

-Nó sẽ là con đóng băng đấy. Lạnh hơn con nghĩ nhiều.

-Không sao đâu ạ.

-Cha không muốn xuống đấy cùng con đâu.

-Con nghĩ là không cần mà.

-Ừ, con cứ đi đi.

-Nhưng cha nghĩ là con không nên ạ?

-Không đâu. Con nên chứ.

-Thật ạ. Ừ, thật.

-Hay quá.

Thằng bé đứng dậy, trút tấm chăn xuống cát và cởi hết quần áo, giầy dép ra. Đến khi trần như nhộng thì nó ôm lấy người, nhảy tưng tưng lên cho khỏi lạnh rồi chạy thẳng xuống biển. Người thằng bé trắng xanh, trơ xương. Những cục xương vai gồ lên như muốn xuyên thủng lớp da tái nhợt. Nó chạy tồng ngồng trên bãi, nhảy lên những con sóng và hò hét.

Khi quay trở lại bờ, anh đã thấy con tím tái, thở hổn hển, răng va vào nhau lập cập. Anh lấy chăn bọc lấy con, ôm và xoa cho đên khi thằng bé trở lại bình thường. Nhưng khi anh nhìn vào mặt con thì thấy thằng bé đang khóc.

-Sao thế con?

-Không có gì ạ.

-Nào, con nói cho cha nghe nào.

-Không có gì đâu, không có gì cha ạ.

Tối đến, hai cha con nhóm một đống củi ở bên cạnh đống gỗ, ăn mướp tây, đậu xanh và một ít khoai tây còn sót lại. Đồ ăn sắp hết. Họ uống trà, ngồi với nhau bên ngọn lửa, cùng lắng nghe những con sóng rầm rì trên vịnh rồi vùi mình vào cát ngủ. Đêm, anh đứng dậy cuốn chăn vào người và bước ra trước biển. Tối đen như mực.Anh có thể cảm nhận vị mặn của muối trên môi. Chờ đợi và chờ đợi. Một tiếng ầm vang nổ ra trên biển. Sự xáo động của bầu trời rền rĩ một lúc trên biển rồi từ từ lặn mất. Anh nghĩ ngoài khơi có thể có những con tầu chết lênh đênh với những mảnh buồm rách mướp. Còn sự sống dưới đáy biển. Biết đâu những con mực khổng lồ mắt to như cái dĩa vẫn đang trườn đi dưới đáy biển lạnh giá. Và biết đâu bên kia những con sóng bạc đầu là một người đàn ống khác với một đứa trẻ khác đang lang thang trên bãi cát màu xám tro. Họ có thể đang ngủ trên một bãi biển khác giữa đống tro tàn hay đang mặc những bộ quần áo rách rưới trong một thế giới đã biến mất do không có ánh sáng mặt trời.

Anh nhớ anh cũng đã từng đi dạo thế này. Dạo ấy anh tỉnh dậy vì tiếng lách cách của mấy con cua trong cái nồi mà anh đã để xương bò từ đêm trước. Những tàn lửa li ti vờn nhau trên bãi. Anh nằm dưới một bầu trời đầy sao. Xa xa là vệt biển đen thẫm. Anh đứng dậy và đi chân trần ra bờ cát, ngắm nhìn những con sóng nổi lên, cuộn vào đến bờ rồi lại lăn ra xa, chìm lỉm trở lại vào biển đêm. Được một anh quay lại đống lửa, quỳ xuống bên cạnh và vuốt ve mái tóc của nàng. Nang đang say ngủ. Anh thầm thì:

-Nếu anh là Chúa, anh sẽ giữ cho trái đất này mãi mãi như thế, không bao giờ đổi khác.

Khi anh quay lại thì thằng bé đã tỉnh dậy và đang sợ chết kiếp. Nó đã gọi to nhưng anh không nghe thấy tiếng con. Anh ôm con vào lòng.

-Sóng to quá cha không nghe thấy tiếng con, anh nói.

Anh chất thêm củi rồi quạt cho lửa cháy lại rồi hai cha con nằm xuống và thiếp đi.

Sáng hôm sau, anh dậy nhóm lửa. Hai cha con vừa ăn sáng vừa nhìn ra biển. Sự ủ dột và lạnh lẽo của biển trong màn mưa làm nó trông giống một bức họa vùng biển bắc. Chẳng có hải âu, cũng chẳng loài chim nào hết.Những đồ vật cháy xém rải rác dọc bờ biển thỉnh thoảng bị sóng cuốn lăn lăn trên bờ cát. Sau đó, họ lại đi xuống bờ biển.

-Hai cha con mình là những người nhặt rác trên bãi biển.

-Họ là những ai hở cha?

Là những người đi dọc bờ biển và tìm kiếm những đồ giá trị bị dạt lên bờ.

-Những thứ như thế nào ạ?

-Tất cả mọi thứ, miễn là còn sử dụng được.

-Cha có nghĩ là chúng sẽ tìm được cái gì đó không?

-Cha không biết. Chúng ta phải xem mới biết được.

-Thế thì cha con mình đi xem thôi.

Hai cha con đi trên đê chắn sóng nhìn về phía Nam. Những cuộn sóng lừ lừ xô lên kè đá bao quanh vịnh. Bờ biển chạy dài uốn thành đường cong ở phía xa. Cát thẫm như màu đá nham thạch. Gió từ biển phảng phất mùi i-ốt. Chỉ có vậy. Không còn mùi gì gần gũi với biển hơn. Trên những tảng đá vẫn còn vương lại những mảng rêu biển đen xì. Họ bước qua và đi tiếp. Phía cuối bờ cát là một mũi đấy nhô ra biển. Hai cha con bỏ lại bờ biển phía sau, leo lên mũi đất. Con đường mòn ngoằn ngoèo qua các đụn đất đất đầy những xác thực vật biển. Phần đất phía dưới họ bị bao phủ trong bóng tối, gió lao từ trên mũi đất xuống phía bờ biển. Ở phía xa có con tầu ngập một nửa mình trong nước. Hai cha con nằm sụp xuống búi cỏ khô và theo dõi con tàu.

-Cha ơi, chúng ta làm gì bây giờ.?

-Chúng ta theo dõi nó một lát con ạ.

-Nhưng con lạnh lắm.

-Cha biết. Cha con mình lùi lại xuống lối mòn một chút vậy. Như thế sẽ tránh được gió.

Anh ôm con vào lòng. Những vạt cỏ chết khô rạp xuống, lẩy bẩy trước những cơn gió.. Quang cảnh xung quanh thật hoang vu. Những cơn run rẩy bất tận của biển.

-Chúng ta phải ngồi đây đến bao giờ hở cha?

-Không lâu đâu con ạ.

-Cha có nghĩ là có người trên cái tầu ấy không?

-Cha nghĩ là không.

-Có thể là họ núp đi rồi.

-Ừ, có thể thế, con có nhìn thấy gì khác thường ở đấy không?

-Không ạ.

-Chúng ta hãy đợi thêm một lát nhé.

-Con lạnh lắm.

Hai cha con lần mò quay lại bờ biển. Gió thổi phần phật. Những mảnh kính lập lờ ở viền nước. Những bộ xương của những con hải âu. Tại mép thủy triều hàng triệu bộ xương cá, cỏ dại phơi ra trên bờ cát trải dài ngút tầm mắt. Trống rỗng. Những ngôi mộ khoét trong muối. Vô nghĩa. Vô nghĩa.

Từ mũi đất đến con thuyền đó độ khoảng hơn một trăm mét. Toàn nước. Hai cha con chăm chú nhìn con thuyền. Thân nó dài gần hai chục mét, có boong tầu, phần chìm trong nước khoảng hai ba mét. Trông nó có vẻ như đã được trang bị rất kỹ nhưng cột buồm đã gãy và đổ vào boong tầu. Tất cả những gì còn lại của cột buồm là là một cái cọc lởm chởm với những đai bằng đồng còn boong tầu thì chỉ còn lại một vài cái tay vịn của hàng lan can trước đây. Anh quay người nhìn khắp bờ biển và đụn cát hồi lâu rồi đưa cho con khẩu súng. Anh bắt đầu tháo giầy.

-Cha định làm gì vậy?

-Cha sẽ ra đó xem xét con thuyền.

-Con đi với cha được không?

-Không, cha muốn con ở lại đây.

-Nhưng con muốn đi với cha cơ.

-Con phải đứng canh con trai à, hơn nữa nước rất sâu.

-Thế con có nhìn thấy cha không?

-Có chứ. Cha sẽ ra hiệu cho con để chắc chắn rằng mọi thứ đều ổn.

-Con muốn đi cùng cha, cha à.

Anh ngừng lại và nói:

-Không thể được, quần áo cha để đây sẽ bay mất. con phải đ8u1ng trông.

Anh cuộn quần áo thành một đống. Lạy Chúa, trời lạnh quá. Anh cúi xuống hôn lên trán con.

-Con đừng lo. Nhớ phải nhìn quanh đấy.

Anh lội xuống nước té nước cho ướt hết người rồi chuồi người xuống, bắt đầu lặn.

Anh ngụp lặn, hổn hển trong làn nước lạnh buốt. Đến giữa thân tầu, một cái tay vịn chĩa thẳng xuốn mặt nước. Anh đu người lên cái cửa sổ thép. Thép bị muối ăn mòn và chuyển sang màu xám nhưng anh vẫn nhìn được chữ trên thân tàu. Pájaro de Esperanza. Tenerife. Hai cái cần trục trước đây để đỡ thuyền cứu hộ bây giờ thì trống không. Anh bám vào cái tay vịn, leo lên boong và nằm bẹp ở đấy, tai áp xuống sàn run lập cập. Một vài đoạn dây cáp đập vào các đinh ốc lách cách. Những cái lỗ nham nhở trên sàn gỗ. Có lẽ trước đây ở đó là những cái đinh bị bật ra . Một sức mạnh khủng khiếp đã quét mọi thứ ra khỏi boong tầu. Anh vẫy con nhưng thằng bé không vẫy tay lại.

Khoang tàu thấp với cái mái hình vòm và những ô cửa sổ dọc hai bên. Anh nằm rạp xuống lau lớp muối phủ trên kính và nhìn vào trong nhưng chẳng thấy gì cả. Anh cố gắng đẩy cánh cửa bằng gỗ tếch nhưng nó đã bị khóa.Anh thử húc cái vai trơ xương vào nó. Nhưng cũng không được. Anh nhìn quanh xem có cái gì có thể nạy được cái khóa hay không. Anh cứ run lên cầm cập. Anh nghĩ đến việc lấy chân đạp cửa nhưng đó không phải là ý hay. Anh thử lấy khuỷu tay thúc vào cánh cửa. Hình như nó có hiệu quả. Tuy không rõ lắm. Anh thử làm thế vài lần. Khung cửa bị bửa, anh giật nó ra và bước xuống bậc thang để đi vào trong khoang.

Sàn khoang ngập những nước. Dọc theo những vách ngăn thấm nước là giấy tờ và rác rưởi. Mọi thứ đều có mùi chua chua. Ẩm ướt và nhớp nháp.Anh nghĩ là thể nào con thuyền này cũng bị lục soát rất kỹ rồi nhưng chẳng có gì ngoài nước biển đã tràn vào và xâm chiếm mọi ngóc ngách. Anh đi vào các buồng và khoang bếp. Trên sàn, những hộp thức ăn, bột và cà phê đã bị móp và gỉ. Một cái nhà vệ sinh với bồn cầu và bồn rửa bằng i-nốc. Ánh sáng yếu ớt lọt qua các cửa sổ ở hai bên tường. Quần áo bừa ra khắp nơi.

Anh cứ thấp thỏm sẽ có chuyện gì đó kinh khủng trên tầu nhưng không có gì xảy ra cả. Những tấm đệm lót trong các buồng đã bị đổ xuống sàn. Giường và quần áo dồn thành đống rác vào các chân tường. Mọi thứ đều ướt nhẹp. Cửa kho hàng ở phía mũi tàu mở nhưng bên trong tối quá không nhìn thấy gì cả. Anh cúi xuống bước qua cửa. Những thùng rượu. Những thiết bị tàu lăn lóc trên sàn. Anh bắt đầu kéo mọi thứ đặt lên một chiếc giường bị nghiêng. Những cái chăn và quần áo rét. Anh tìm thấy một cái áo len ẩm, tròng nó vào người. Anh cũng tìm thấy một đôi ủng cao su và một cái áo gió. Anh mặc tất cả vào cùng với một cái quần màu vàng từ đống đồ bằng vải dầu không thấm nước. Anh vắt cái dây nịt quần qua vai và đeo ủng vào. Sau đó anh leo trở lại lên boong tầu. Thằng bé vẫn ở nguyên chỗ cũ nhìn chăm chăm vào con tàu. Khi anh xuất hiện trên boong, thằng bé giật nảy người bật dậy. Anh quên mất là anh vừa mặc quần áo. Anh vội vẫy tay con và gọi to “cha đây” rồi quay trở xuống.

Trong phòng ngủ thứ hai, anh tìm thấy mấy cái ngăn kéo nằm dưới gầm giường không hề bị suy chuyển tí nào. Anh dốc nó ra. Toàn giấy tờ và sách bằng tiếng Tây Ban Nha. Vài bánh xà phòng. Một cài vali mầu đen cũng toàn giấy tờ đã mốc meo.. Anh cho mấy bánh xà phòng vào túi rồi đứng dậy. Trên giường là những quyển sách bằng tiếng Tây Ban Nha phồng lên và đang mủn ra. Trên cái giá dựa vào tường còn độc một quyển.

Sau khi tìm thấy một cái túi vải bạt tráng cao su, anh đảo qua khắp phần còn lại của con tầu, đẩy tay vào tường để tránh bị nghiêng theo thuyền. Cái quần vàng anh mắc bay lật phật vì gió lạnh. Anh nhét vào túi đủ thứ. Một đôi giày vải của phụ nữ anh nghĩ sẽ vừa với con. Một con dao gập chuôi gỗ. Một cái kính râm. Có một cái gì đó cố hữu trong cách tìm đồ của anh. Giống như là anh thường tìm cái anh cần nhất ở những chỗ ít có khả năng nhất trước. Lục lọi xong ở các khoang, anh mới quay trở lại khoang bếp. Anh bật thử cái lò sưởi rồi lại tắt đi.

Anh kéo chốt cửa hầm xuống buồng máy. Trong ấy có nước ngập đến nửa người và tối om om. Không có mùi của xăng dầu gì cả.Anh sập nắp hầm lại. Trong buồng lái có mấy cái ngăn được xây dưới chiếc bàn dài dùng để chứa nệm, vải buồm, đồ câu. Trong cái ngăn dưới bệ lái, anh tìm thấy vài cuộn dây thừng bằng ni-lông, vài cái bình ga bằng thép và một cái hộp để đồ làm bằng sợi thủy tinh. Gỉ nhưng vẫn xài được. Trong đó có kìm, tua vít và cờ lê. Anh đóng cái hộp rồi quay ra boong xem con thế nào. Thằng bé co ro trên nền cát rúc đầu vào đống quần áo ngủ ngon lành.

Anh mang cái hộp đồ và một cái bình ga vào trong khoang bếp rồi đi một vòng cuối qua các phòng ngủ. Sau đó anh bắt đầu rà soát lại tất cả những ngăn tủ trong phòng khách lớn, xem qua giấy tờ trong những hộp nhựa và thử tìm nhật ký tầu. Anh tìm thấy một bộ đồ sứ được bọc cẩn thận trong một thùng gỗ lớn giữa đống vỏ bào. Hầu như đã vỡ hết. Tám bộ đồ ăn, cái nào cũng khắc tên con tàu. Chắc là đồ biếu – anh nghĩ. Anh nhấc một ly trà lên xoay xoay trong lòng bàn tay rồi lại đặt nó xuống. Thứ cuối cùng mà anh tìm thấy là một hộp gỗ sồi hình vuông được lắp mộng đuôi én và một cái đĩa đồng trên nắp. Anh đoán có lẽ là hộp đựng xì gà nhưng hình dáng thì không phải. Anh nhấc nó lên, dựa vào trọng lượng của cái vật bên trong mà anh biết nó là cái gì. Anh bật cái lẫy đánh tách một cái và mở nó ra. Trong đó là một kính lục phân định vị tầu biển bằng đồng, dễ phải đến một trăm năm rồi. Anh nhấc nó ra khỏi cái hộp cực kỳ vừa vặn và giữ nó trên tay. Sững sờ vì vẻ đẹp của nó. Lớp đồng hơi xỉn, trên than có những miếng màu xanh được đặt lên cho vừa tay chủ nhân của nó. Anh cạo cạo lớp gỉ đồng trên mặt hộp. Hezzaninth, London. Anh đưa nó lên mắt và xoay thử. Đây là vật đầy tiên làm cho anh thấy hứng thú trong nhiều năm nay. Anh cầm nó trên tay một lúc, sau đó anh đặt nó trở lại vào lớp vải mịn lót bên trong rồi khóa nắp xuống và để vào chỗ cũ.

Khi quay lại boong tầu, anh sợ đứng cả tim khi không thấy con đâu. Một nỗi hoảng sợ xâm chiếm lấy anh nhưng rồi anh lại nhìn thấy thằng bé đang đi dọc bãi biển với khẩu súng trong tay, đầu cúi xuống. Đứng trên khoang, anh có thể cảm nhận con tầu đang dập dình và trượt đi. Rất nhẹ. Thủy triều lên. Sóng táp ì oạp vào mấy con đê chắn sóng. Anh quay trở lại vào khoang.

Anh lấy hai cuộn thừng, dùng gang tay đo xem chúng dài khoảng bao nhiêu và đếm xem có bao nhiêu cuộn. Có khoảng hai chục mét dây tất cả. Anh treo chúng vào cầu tầu trên boong và quay vào trong. Anh lượm lặt tất cả mọi thứ, đặt chúng lên bàn. Còn một vài bình nước trong khoang bếp nhưng chỉ một cái là còn nước. Anh nhặt một trong những cái bình rỗng lên và nhận ra rằng vỏ của nó bị nứt nên nước đã chảy ra và đã bị đóng băng ở đâu đó trong cuộc hành trình phiêu dạt của con tầu này. Có khi còn là vài lần. Anh đặt một cái bình còn đầy một nửa lên bàn, mở nắp và nâng bình lên, hớp một ngụm nhỏ rồi anh tu một hơi dài.

Những hộp bột trong khoang bếp chẳng có vẻ gì là còn tận dụng được. Những vết gỉ khắp nơi. Tất cả các nhãn đã bị bong ra, những chữ được viết trên hộp thì bằng tiếng Tây Ban Nha. Anh không rành thứ tiếng này lắm. Anh xem qua tất cả một lần, lắc thử và bóp mạnh trong tay. Sau anh xếp chúng lên trên tủ lạnh. Anh nghĩ tầu này phải dự trữ thức ăn đâu đó nhưng anh cũng không tin vào điều tốt đẹp ấy lắm. Nhưng dù thế nào thì họ cũng chỉ có thể chất được lên xe một số lượng có hạn. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu anh rằng anh sẽ mang theo cái kho từ trên trời rơi xuống kia. Nhưng rồi anh vẫn nghĩ may mắn có thể chẳng là cái gì cả. Có những đêm nằm trong bóng tối., anh tah61y không ghen tị với những kẻ đã chết.

Anh còn tìm được cả những hộp sữa, một hộp chè kim loại gỉ sét, một hộp dầu ô liu cùng một số hộp thức ăn mà anh chịu, không nhận ra đó là món gì. Một nửa hộp cà phê. Anh xem xét một cách kỹ lưỡng mấy cái giá trong các ngăn tủ, cân nhắc xem cái gì nên mang đi. Khi anh đa chất đống tất cả các thứ trong phòng khách lơn, rồi anh quay trở lại bếp với hộp đồ và tháo cái tạo nhiệt ở cái máy sưởi ra.. Anh cắt dây nối, tháo miếng nhôm từ cái tạo nhiệt ra và đút một cái vào túi áo.. Anh lấy cờ lê vặn con ốc bằng đồng rồi tháo cái tạo nhiệt, sau đó anh tách chúng ra nối một đầu vào bình ga. Anh dồn cả sang phòng khách lớn. Cuối cùng anh cho tất cả đồ ăn mà anh tìm được vào một cái bạt và túm nó lại. Anh trút quần áo để chúng vào chung với đống đồ anh vừa thu nhặt. Sau đó anh lên boong tầu trườn xuống cái tay vịn với túi vải bạt, thả mình xuống làn nước xám và buốt giá.

Anh lên bờ trong ánh sáng cuối cùng của ngày, quẳng túi bạt qua một bên, lấy tay vuốt nước khắp cơ thể rồi mặc quần áo vào. Thằng bé bám lấy cha. Nó cứ hỏi liên tục về vết tím trên vai anh, chỗ mà anh đã dùng để tông vào cửa.

-Không sao đâu con, nó không đau đâu. Cha lấy được nhiều đồ lắm, lát nữa cha sẽ cho con xem.

Hai người hối hả quay về chỗ ngồi nghỉ.

-Nếu con tầu ấy bị cuốn thì sao hở cha?

-Nó sẽ không bị cuốn đi đâu.