Dạ Khúc: Năm Câu Chuyện Về Âm Nhạc Và Đêm Buông

Chương 20




Khi chúng tôi đã đồng ý mang trả rồi, Lindy chuyển sang thái độ chiếm hữu cao độ, khư khư giữ lấy nó trước ngực suốt trong lúc chúng tôi vội vã đi qua những hành lang trong khách sạn rộng lớn đang thiêm thiếp. Bà dẫn đường xuống các cầu thang mật, theo những đường sau, qua các phòng tắm hơi và máy bán hàng. Chúng tôi không nhìn cũng không nghe thấy một ai. Rồi Lindy thì thầm: “Lối này,” và chúng tôi đẩy hai cánh cửa nặng nề vào một nơi tối tăm.

Khi đã chắc chắn chỉ có chúng tôi ở đây, tôi bật đèn pin mang theo từ phòng Lindy chiều quanh phòng. Chúng tôi đang ở phòng khiêu vũ, dù nếu lúc này anh có ý nhảy nhót thì sẽ gặp vấn đề với những bàn tiệc khắp phòng, cái nào cũng trải khăn bàn trắng và ghế đồng bộ. Giữa trần có một bộ đèn chùm cầu kỳ. Đằng xa là một bục sân khấu, có lẽ đủ rộng cho một tiết mục cỡ vừa, dù lúc này màn đang hạ che kín bục. Có người đã bỏ lại chiếc thang xếp giữa phòng và máy hút bụi dựng cạnh tường.

“Sẽ có tiệc ở đây,” bà nói. “Bốn trăm, năm trăm người gì đó thì phải.”

Tôi đi vào sâu hơn và lại lia đèn quanh phòng lần nữa. “Có thể không phải là địa điểm này. Nơi họ sẽ trao giải cho Jake.”

“Tất nhiên là ở đây. Khi tôi thấy cái này” – bà giơ bức tượng lên – “còn có cả những cái khác. Tài năng mới. An bum R&B của năm. Đại loại như thế. Sẽ là một sự kiện rất to đấy.”

Bây giờ mắt đã điều hòa lại, tôi nhìn rõ nơi này hơn, dù ánh đèn pin không sáng lắm. Và trong một lúc, khi đứng đó nhìn lên sân khấu, tôi có thể hình dung nơi này lúc ấy trông sẽ thế nào. Tôi hình dung lớp lớp người quần áo cầu kỳ, đại diện các hãng thu âm, các nhà tổ chức sự kiện cỡ bự, một vài tên tuổi làng showbiz, cười nói chúc tụng lẫn nhau; tiếng vỗ tay thành thực đến xun xoe mỗi lần MC nhắc tên một nhà tài trợ; vỗ tay to hơn nữa, lần này cộng thêm hú hét chào mừng, khi người nhận giải đi lên. Tôi hình dung Jake Marvell trên bục ấy, ôm giải thưởng trong tay, với nụ cười tự mãn như hồi ở San Diego mỗi lần hắn ta kết thúc một đoạn solo và khán giả đã hoàn thành việc đập hai tay vào nhau.

“Có lẽ chúng ta đã lầm,” tôi nói. “Có lẽ không việc gì phải đem trả lại. Có lẽ chúng ta nên ném nó vào sọt rác. Và tất cả những giải khác bà tìm thấy vào cùng.”

“Ồ?” Lindy có vẻ bối rối. “Anh muốn làm thế thật à, cưng ơi?”

Tôi thở dài. “Không, chắc là không. Nhưng làm thế mình sẽ rất… sung sướng, phải không? Tất cả giải thưởng vào sọt rác. Tôi cá từng người một trong số nhận giải ấy đều là đồ giả. Tôi cá toàn bộ họ cộng lại cũng không đủ tài năng để nhồi một cái bánh kẹp xúc xích.”

Tôi đợi Lindy đáp lại, nhưng không nghe thấy gì. Rồi đến lúc bà cất tiếng, trong giọng bà có âm sắc mới, có vẻ căng hơn.

“Làm sao anh biết vài người trong số họ không có tài? Làm sao anh biết vài người trong số họ không đáng nhận giải?”

“Làm sao tôi biết à?” Bỗng nhiên tôi chợt nổi cáu. “Làm sao tôi biết à? Ồ, cứ nghĩ xem. Cái hội đồng đã coi Jake Marvell là nghệ sĩ jazz nổi trội nhất trong năm. Họ sẽ còn tôn vinh những loại người nào khác nữa?”

“Nhưng anh biết những gì về những người này? Ngay cả về cái người tên Jake này. Làm sao anh biết anh ta không thực sự nỗ lực để đạt được như hiện tại?”

“Thế là thế nào? Bà trở thành fan ruột của Jake rồi à?”

“Tôi chỉ phát biểu ý kiến mình thôi.”

“Ý kiến của bà? Vậy giờ ý kiến bà là thế à? Tôi nghĩ lẽ ra mình không nên ngạc nhiên. Trong một lúc, tôi đã quên mất bà là ai.”

“Như thế nghĩa là thế quái gì chứ? Sao anh dám ăn nói với tôi như vậy?”

Tôi nhận ra mình đang mất tự chủ. Tôi đáp nhanh: “Được rồi, tôi đã đi quá đà. Tôi xin lỗi. Giờ chúng ta hãy đi tìm cái văn phòng thôi.”

Lindy đã trở nên im lặng, và khi quay lại nhìn bà, ánh sáng không đủ rõ cho tôi đoán bà đang nghĩ gì.

“Lindy, cái văn phòng ở đâu? Chúng ta phải tìm được nó.”

Cuối cùng, bà cũng giơ bức tượng chỉ về cuối phòng, rồi dẫn đường qua những dãy bàn, vẫn không nói một tiếng. Khi đã đến bên cửa, tôi áp tai vào cửa một lúc, và khi không nghe thấy gì mới thận trọng đẩy cửa.

Chúng tôi đang ở trong một phòng dài và hẹp hình như chạy song song với phòng khiêu vũ. Vẫn còn một ngọn đèn lờ mờ ở đâu đó, vừa đủ cho chúng tôi thấy đường mà không cần đèn pin. Đây rõ ràng không phải văn phòng mà tôi đang tìm kiếm, mà là một khu vực nửa quầy phục vụ, nửa nhà bếp. Những mặt quầy dài và rộng chạy dọc hai bên tường, để lại một lối đi ở giữa đủ rộng cho đầu bếp tô điểm những nét cuối cho món ăn.

Nhưng Lindy có vẻ thông thạo nơi này và bước nhanh quả quyết qua lối đi giữa. Nửa đường, bà bất chợt dừng lại xem xét một khay bánh còn lại trên quầy.

“Ô, bánh quy này!” Bà có vẻ đã hoàn toàn trở lại thư thái. “Tệ quá, lại bọc ni lông cả. Tôi đói mềm người rồi. Hê! Xem thử trong này là cái gì.”

Bà bước thêm vài bước nữa, đến một cái nắp hình vòm, liền nhấc lên. “Nhìn này cưng ơi. Cái này trông ngon quá đi mất!”

Bà đang cúi người trên một con gà tây quay mũm mĩm. Thay vì đậy lại nắp, bà cẩn thận đặt nó xuống bên cạnh.

“Anh có nghĩ họ sẽ bực nếu tôi rút một chân không?”

“Tôi nghĩ họ sẽ bực lắm, Lindy ạ. Nhưng kệ xác.”

“Em bé này to quá. Anh muốn chia với tôi một chân không?”

“Được, sao lại không?”

“Được rồi. Đi nào.”

Bà đưa tay về phía con gà. Rồi bỗng bà đứng thẳng lên và quay lại nhìn tôi.

“Thế thì điều lúc nãy nghĩa là thế nào?”

“Cái gì nghĩa là thế nào?”

“Cái điều anh vừa nói ấy. Anh nói anh không ngạc nhiên. Về ý kiến của tôi. Như thế nghĩa là thế nào?”

“Nào, tôi xin lỗi. Tôi không có ý xấu. Chỉ là tôi nghĩ thành tiếng, thế thôi.”

“Nghĩ thành tiếng à? Vậy thì anh nghĩ thành tiếng thêm chút nữa đi? Tôi bảo có lẽ một vài người trong số họ xứng đáng nhận giải, câu đó thì có gì ngớ ngẩn nào?”

“Thế này, tôi chỉ nói một điều là có những người không ra gì lại được giải thưởng. Thế thôi. Nhưng có lẽ bà biết rõ hơn. Bà nghĩ đấy không phải điều đã xảy ra…”

“Nhiều người trong số họ có khi đã làm việc quần quật để tới được như hiện tại. Và có thể họ cũng đáng được một chút công nhận nhỏ nhoi. Vấn đề với những người như anh là, chỉ vì Chúa đã ban tặng tài năng đặc biệt cho anh, anh nghĩ như thế là anh có quyền được mọi thứ. Là anh hơn hẳn tất cả mọi người, là anh đáng đứng hàng đầu mọi nơi mọi lúc. Anh không thấy có hàng đống người kém may mắn hơn đang phải làm việc vất vả để có chỗ đứng trên đời…”

“Thế bà nghĩ tôi không vất vả chứ gì? Bà nghĩ tôi chỉ ngồi lê cả ngày chắc? Tôi đổ mồ hôi sôi nước mắt để làm ra một thứ có giá trị, một thứ đẹp đẽ, rồi ai là người được công nhận? Jake Marvell! Những người như bà!”

“Làm sao anh dám…! Tôi thì liên quan gì đến cái này? Có phải tôi nhận giải hôm nay không? Đã ai cho tôi một cái giải gì bao giờ chưa? Có bao giờ tôi được nhận, kể cả hồi đi học, một cái giấy của nợ gì về hát hò nhảy múa hay một thứ chết tiệt gì khác? Không có! Không có bao giờ! Tôi phải giương mắt nhìn tất cả, cả đám khốn nạn nhà anh, đi lên đó, vác giải về, và bố mẹ các anh vỗ tay…”

“Không có giải? Không có giải? Nhìn bà xem! Ai là người được nổi tiếng? Ai là người được nhà to…”

Đúng lúc đó có người bật công tắc và chúng tôi đứng chớp mắt nhìn nhau trong luồng ánh sáng gắt. Có hai người đã vào theo cùng lối chúng tôi vào, và giờ đang đi lại gần chúng tôi. Lối đi ở giữa chỉ đủ để họ chen vai bước lên. Một ông da đen khổng lồ mặc đồng phục bảo vệ khách sạn, trong tay cầm vật lúc đầu tôi nghĩ là súng nhưng nhận ra chỉ là máy bộ đàm. Bên cạnh là ông da trắng nhỏ hơn mặc sơ mi xanh nhạt với mái tóc đen bóng lộn. Cả hai trông đều không có ý định tỏ ra lịch thiệp. Họ dừng lại cách chúng tôi không một hai mét, rồi ông nhỏ hơn rút thẻ khỏi túi áo.

“Sở cảnh sát Los Angeles,” ông ta nói. “Morgan.”

“Hân hạnh làm quen,” tôi nói.

Trong một lúc viên cảnh sát và bảo vệ chỉ nhìn chúng tôi im lặng. Rồi ông ta hỏi:

“Khách nghỉ ở đây?”

“Vâng,” tôi đáp. “Chúng tôi ở đây.”

Tôi cảm thấy chất vải mềm trên áo Lindy cọ khẽ vào lưng. Rồi bà đã nắm lấy cánh tay tôi và chúng tôi đứng sánh vai nhau.

“Chào buổi đêm, ngài cảnh sát,” bà nói bằng một giọng uể oải, êm ru chẳng giống gì lệ thường.

“Chào buổi đêm, thưa bà,” viên cảnh sát nói. “Ông bà có lý do đặc biệt gì để thức giấc giờ này không?”

Chúng tôi cùng lên tiếng trả lời một lúc, rồi cùng bật cười. Nhưng hai người kia không cười cũng không nhếch mép.

“Chúng tôi chỉ đang khó ngủ,” Lindy nói. “Thế nên chúng tôi đi dạo loanh quanh.”

“Đi dạo loanh quanh.” Viên cảnh sát nhìn quanh trong ánh sáng trắng lòa. “Có lẽ tìm xem có gì ăn được nữa.”

“Đúng rồi đấy, thưa ngài sĩ quan!” Lindy vẫn giữ cái giọng khó tả. “Chúng tôi cảm thấy hơi đói, chắc ngài cũng biết cái cảm giác giữa đêm khuya.”

“Tôi nghĩ là phục vụ phòng không chất lượng lắm,” viên cảnh sát nói.

“Không, chẳng được gì,” tôi nói.

“Chỉ có những thứ thông thường,” viên cảnh sát nói. “Thịt nướng, pizza, humburger, bánh kẹp ba tầng. Tôi biết vì chính tôi cũng vừa gọi phục vụ phòng ca đêm. Nhưng có thể ông bà không thích mấy loại đó.”

“Ôi, ông hiểu vì sao mà, thưa ngài sĩ quan,” Lindy nói. “ Vấn đề ở cái thú. Cái thú được lẻn ra ngoài và cắn một miếng, ngài hiểu không, một miếng đồ cấm, cũng như hồi còn bé?”

Cả hai đều không tỏ dấu hiệu mủi lòng. Nhưng viên cảnh sát nói:

“Xin lỗi phải làm phiền ông bà. Nhưng ông bà cũng hiểu khu vực này không dành cho khách. Và có một hai món đồ đã bị mất vừa đây xong.”

“Thật à?”

“Phải. Ông bà có thấy gì bất thường hay khả nghi đêm nay không?”

Lindy và tôi nhìn nhau, rồi bà lắc đầu thật lực với tôi.

“Không,” tôi nói. “Chúng tôi không thấy gì bất thường cả.”

“Không có chút gì à?”

Người bảo vệ đang bước đến gần hơn, và lúc này thì bước qua chúng tôi, ép người lách qua quầy. Tôi nhận ra mục đích là để ông ta kiểm tra được chúng tôi gần hơn, để xem liệu chúng tôi có giấu gì trên người không, trong lúc người kia giữ chúng tôi tiếp tục nói.

“Không, không có gì cả,” tôi nói. “Ông nghĩ có thể là chuyện gì?”

“Những người khả nghi. Hoạt động trái khoáy.”

“Ngài sĩ quan, có phải ý ông là,” Lindy kêu lên kinh hoảng, “có phòng ai bị đột nhập phải không?”

“Không hẳn thế, thưa bà. Nhưng một số đồ vật giá trị đã mất tích.”

Tôi có thể cảm thấy người bảo vệ dịch chuyển đằng sau chúng tôi.

“Vì thế ông mới ở đây với chúng tôi,” Lindy nói. “Để bảo vệ con người và tài sản của chúng tôi.”

“Đúng thế, thưa bà.” Ánh mắt viên cảnh sát chuyển hướng một ly và tôi có cảm giác ông ta vừa giao mắt với người bảo vệ đằng sau lưng tôi. “Thế nên nếu bà có thấy gì bất thường, làm ơn gọi ngay cho bảo vệ.”

Cuộc vấn đáp có vẻ đến đây là hết và viên cảnh sát đứng lùi một bên cho chúng tôi ra. Nhẹ người, tôi cất bước định đi, nhưng Lindy đã nói:

“Tôi nghĩ là chúng tôi cũng khá hư, đi xuống đây tìm cái ăn thế này. Chúng tôi đã định tự tiện lấy một miếng bánh ga tôi đằng kia, nhưng rồi nghĩ chắc nó dành cho một dịp đặc biệt và làm hỏng nó thì thật đáng trách.”

“Phục vụ phòng ở khách sạn này tốt lắm,” viên cảnh sát nói. “Hai tư trên hai tư.”

Tôi giật tay Lindy, nhưng giờ có vẻ bà đã buông mình cho cơn gàn dở người ta hay nói tới, khi kẻ có tội vờn quanh cái nguy cơ bị phát hiện.

“Và chính ngài cũng vừa gọi lên, phải không ngài sĩ quan?”

“Vâng.”

“Và đồ ăn có được không?”

“Khá được. Tôi khuyên ông bà cũng nên làm thế.”

“Để yên cho các ngài ấy tiếp tục điều tra nào,” tôi nói và giật tay bà. Nhưng bà không chịu thua.

“Ngài sĩ quan, tôi hỏi một điều được không?” bà nói. “Ngài có phiền không?”

“Bà cứ hỏi.”

“Ngài vừa nói về chuyện thấy gì đó bất thường. Thế ngài có thấy gì bất thường không? Về chúng tôi ấy?”

“Tôi không hiểu bà nói gì, thưa bà.”

“Như là cả hai chúng tôi mặt đều quấn kín băng này? Ngài có để ý thấy không?”

Viên cảnh sát nhìn chúng tôi thật kỹ, như để kiểm định lại nhận xét của bà. Rồi ông ta nói: “Thực tình là tôi có nhận thấy, thưa bà, có. Nhưng tôi không muốn phát biểu nhằm vào cá nhân.”

“Ồ, tôi hiểu,” Lindy nói. Rồi quay sang tôi: “Chẳng phải là ngài sĩ quan đây tế nhị lắm sao?”

“Đi thôi,” tôi nói, nắm tay bà kéo đi thật lực. Tôi còn cảm thấy cả hai người nhìn theo sau lưng suốt tới lối ra.

“Đời người cũng giống như một ly trà, không thể đắng cả đời, nhưng cũng phải đắng một lúc.”