Đại Đường Song Long Truyện

Chương 207: Họa haii sinh án đức




Sắc mặt Vương Thế Sung có thêm mấy phần huyết sắc, kế đó chầm chậm mở mắt, nhìn bọn Từ Tử Lăng, Vương Huyền Ứng, Vương Huyền Nộ, Âu Dương Hi Di, Lang Phụng, Tống Mông Thu, Dương Công Khanh, Linh Lung Kiều đứng xung quanh đó một lượt, rồi thở dài nói: “Ta còn chưa chết đựơc!”. Kế đó lại ngoái người ra phía sau, hỏi Khấu Trọng vẫn đang áp chưởng lên bối tâm của y truyền chân khí: “Hiện nay tình thế ra sao?”.

Khấu Trọng thấp giọng đáp: “Tình thế rất tốt!”.

Vương Huyền Ứng thất thanh kêu lên: “Thương thế của cha nặng như vậy, ngươi còn nói tình thế rất tốt nữa à?”.

Lần này thì đến cả Âu Dương Hi Di cũng cảm thấy lời của Khấu Trọng hơi quá đáng, dường như đã trở thành lời châm chọc.

Chẳng ngờ Vương Thế Sung chỉ ho khan hai tiếng, gật đầu nói: “May mà có Trường Sinh Khí của ngươi, khiến ta phùng hung hoá cát,, chỉ cần một tháng hay nửa tháng, ta tất có thể hoàn toàn phục nguyên. Hà! Dùng một chưởng này đổi lấy giang sơn của Lý Mật, chuyện này cũng lời lắm!”.

Nghe Vương Thế Sung nói vậy, nét mặt khó coi của Vương Huyền Ứng cũng trở nên dịu lại.

Vương Thế Sung chợt hỏi: “Sắp xếp thế nào rồi?”.

Khấu Trọng chậm rãi mỉm cười: “Chỉ cần chờ đục tường xong là Vương công có thể tiếp khách được rồi”.

Ngoại trừ hảo huynh đệ Từ Tử Lăng của gã ra, chúng nhân đều lấy làm ngạc nhiên.

o0o

Trần Trường Lâm đến bên Từ Tử Lăng nói khẽ: “Xong rồi!”.

Hậu đường giờ đã trở thành cấm địa, các cửa đều đóng kín, mỗi lối ra vào đều có cận vệ thân tín của Vương Thế Sung canh gác.

Từ Tử Lăng sớm đã điều tức cho sung mãn tinh thần, ngồi trên ghế đối diện với vách tường, hữu thủ thò qua một lỗ nhỏ đục trên tường, rồi lại một lỗ khác đục sau lưng ghế, áp vào bối tâm Vương Thế Sung, chân khí chầm chậm đẩy qua, giống như một nhịp cầu nối liền các kinh mạch bị bế tắc của nhân vật quyền thế nhất Lạc Dương này lại với nhau, để cho y có thể ứng phó với tình hình trước mắt. Trần Trường Lâm và Linh Lung Kiều thì đứng bên ngoài tấm bình phong, hộ pháp cho Từ Tử Lăng.

Đây chính là diệu kế che trời vượt biển mà Hư Hành Chi đã dày công nghĩ ra.

Vương Thế Sung ở tiền sảnh thở ra một tiếng đùng đục, rồi thẳng lưng dậy, hô hấp từ yếu ớt trở nên đều đặn dần dần. Không lâu sau thì có tiếng bước chân vang lên, ít nhất có hơn ba mươi người bước vào tiền sảnh, đều là các tướng lĩnh cao cấp dưới trướng Vương Thế Sung.

Tiếng hỏi thăm vang lên không ngớt.

Lang Phụng cao giọng nói: “Mời chư vị đứng dậy!”.

Có tiếng quần áo sột soạt, chư tướng lần lượt đứng dậy.

Vương Thế Sung ho khan mấy tiếng nói: “Hôm nay bản thừa mời các vị đến đây, thực ra là có một tin rất tốt muốn thông báo, thắng lợi đã đến gần trước mắt. Cụ thể thế nào, mời Dương đại tướng quân giải thích cho mọi người được hiểu”.

Dương Công Khanh lập tức hưng phấn nói: “Kế dụ địch đại công cáo thành, hiện giờ Lý Mật đã tuởng rằng thượng thư đại nhân bị hành thích trọng thương, tính mạng nguy cấp như chỉ mành treo chuông, kỳ thực thì kẻ thọ thương là một người khác. Đêm nay thượng thư đại nhân sẽ đích thân đến Yển Sư đốc quân ứng chiến, khiến cho Lý Mật có đến mà không có đi!”.

Vương Thế Sung cười lên ha hả: “Nơi này cho Lang Phụng tướng quân làm chủ, Tống Mông Thu tướng quân và Huyền Ứng, Huyền Nộ làm phó, tất cả phải chấp hành quân lệnh, không được lơ là. Ngày sau bản thừa khải hoàn trở về, dẹp yên bọn phản tặc sẽ luận công ban thưởng”.

Các tướng đều đồng thanh dạ ran, khí thế dâng trào.

Lúc này Từ Tử Lăng đã cảm thấy khó mà tiếp tục, cũng may là sau khi Tống Mông Thu dặn dò không được tiết lộ bí mật về thương thế của Vương Thế Sung, các tướng liền lập tức ra về.

Từ Tử Lăng vội vàng thu hữu thủ về, để Khấu Trọng đứng bên cạnh dùng chân khí giúp y giữ được tinh thần. Có tiếng Âu Dương Hi Di vang lên bên ngoài: “Thế Sung huynh cảm thấy thế nào?Chỉ cần tiếp thêm một đám người nữa là huynh có thể về hậu đường nghỉ ngơi rồi”.

Lúc này tiếng bước chân lại vang lên, Từ Tử Lăng hít sâu vào một hơi thanh khí, đưa tay vào lỗ nhỏ, ấn lên lưng Vương Thế Sung.

o0o

Từ Tử Lăng đang ngồi xếp bằng trên giường, vận công điều tức thì Khấu Trọng đẩy cửa bước vào,vẻ mặt mệt mỏi, nằm phịch xuống đất như muốn vứt bỏ tất cả, tứ chi duỗi ra, miệng lẩm bẩm: “Có biết thế gian này thứ gì là khó đối phó nhất không, chính là con người đó, con người lúc nào cũng nghĩ cách tranh đấu, hại người lợi mình. Chỉ cần nơi nào có người, nơi đó sẽ có chuyện xấu xa xảy ra”.

Từ Tử Lăng không có phản ứng gì, Khấu Trọng cũng chẳng lấy làm quái lạ, chẳng bao lâu thì đã ngủ thiếp đi”.

Mưa đã ngưng được nửa canh giờ, nhưng trên trời vẫn còn mây đen vần vũ, khiến người ta có cảm giác bất cứ lúc nào mưa lớn cũng sẽ trở lại thế gian.

Đến khi Hư Hành Chi và Âu Dương Hi Di đến tìm bọn gã, Khấu Trọng mới tỉnh lại, mơ màng ngồi dậy.

Âu Dương Hi Di ngạc nhiên thốt: “Tại sao lại ngủ trên đất như vậy?”.

Khấu Trọng vươn vai lười nhác, vừa ngáp dài vừa nói: “Đây gọi là hấp thụ địa khí!”. Nói đoạn liền bật người đứng dậy: “Tình hình bên ngoài thế nào rồi!”.

Âu Dương Hi Di ngồi xuống, chậm rãi thuật lại: “Dương Động đã hai lần phản công để thăm dò quân tâm sĩ khí của bọn ta, nhưng đều hao binh tổn tướng rút lui. Theo ta thấy thì trừ phi có ngoại viện, bằng không bọn chúng chỉ có ngồi mà chờ chết”.

Khấu Trọng và Hư Hành Chi ngồi xuống hai bên của lão.

Khấu Trọng cười cười nói: “Cái này gọi là mua dây buộc mình, cho dù trừ được Vương công, nhưng lại có thêm một Lý Mật, thật không hiểu Độc Cô Phong định làm trò gì nữa?”.

Từ Tử Lăng mở mắt gật đầu chào hỏi với Âu Dương Hi Di, rồi nói: “Phải là không lường trước được mới đúng. Ban đầu bọn chúng muốn mượn lực Lý Mật, nhân lúc Vương công đến Yển Sư, đoạt lấy quyền khống chế Lạc Dương, chẳng ngờ cơ sự không thành, nên mới để Vương công kịp thời trở về, thế trận đại loạn, Lý Mật mới thừa lúc sơ hở mà vào”.

Hư Hành Chi chợt lên tiếng: “Trầm Lạc Nhạn, Hoảng Công Thác đã rời Lạc Dương từ sáng sớm nay, quân Ngoã Cương giờ như tên đã rời cung, thế không thể dừng lại được”.

Khấu Trọng cả mừng thốt: “Lý Mật à! Cho dù ngươi gian ngoan như quỷ thì lần này cũng phải uống nước rửa chân của Khấu Trọng ta!”. Kế đó lại le lưỡi nói như vẫn chưa hết sợ: “Có điều đêm qua quả thực vô cùng nguy hiểm, suýt chút nữa thì không thể nào trở mình được nữa rồi”.

Âu Dương Hi Di gằn giọng: “Tri nhân tri diện bất tri tâm, không ngờ Khả Phong lại là hạng tiểu nhân bỉ ổi đó”.

Hư Hành Chi trầm ngâm: “Lão Quân Quan rốt cuộc là câu kết với Lý Mật hay Độc Cô Phong? Điểm này tương đối quan trọng”.

Khấu Trọng phân tích: “Có lẽ là liên quan với Lý Mật thì đúng hơn. Người đứng đầu Lão Quân Quan là yêu đạo Bích Trần, nói không chừng là cũng học theo Chúc Ngọc Nghiên, đặt cược Lý Mật sẽ giành được thiên hạ. Nếu như ngày nào Lý Mật lên làm hoàng đế, tà đạo của Bích Trần sẽ trở thành quốc giáo, áp chế phật môn chính tong của Từ Hàng Tịnh Trai và Tịnh Niệm Thiền Viện. Hừ! Bích Trần tính toán rất hay, có đièu ta sẽ khiến hắn trộm gà không được còn mất thêm đấu gạo!”.

Âu Dương Hi Di chán nản thở dài: “Thật không ngờ truyền nhân của Lý Nhĩ lại có hạng gian nhân hại thế như vậy, ta thật hận không thể lập tức đánh lên Thuý Vân Phong, thế thiên hành đạo một phen!”.

Lúc này có người đến báo, Tống Lỗ muốn gặp Khấu Trọng.

Khấu Trọng đang định nhờ Tống Lỗ trợ giúp, nghe tin liền mừng rỡ chạy ra đón tiếp.

o0o

Tống Lỗ và Khấu Trọng ngồi trong một gian khách sảnh nhỏ, đợi cho tỳ tử lui ra ngoài, mới lên tiếng: “Có phải tình hình Vương Thế Sung nguy ngập lắm không?”.

Khấu Trọng rướn người lại gần y thấp giọng nói: “Không nghiêm trọng như vậy, có điều muốn phục nguyên…sợ rằng cũng phải mất hơn mười ngày!”.

Tống Lỗ chau mày: “Sao lại để sơ thất như vậy?”.

Khấu Trọng không dám giấu y, bèn kể lại cả quá trình sự việc diễn ra, sau đó nói: “Kình lực của Lý Mật có thể thôi tâm phá phù, bá đạo phi thường, cũng mau lúc ấy Tiểu Lăng kịp thời đỡ lấy, thêm vào chân khí hộ thể của bản thân Vương Thế Sung cũng khá hùng hậu, hoá giải được bảy tám phần kình đạo, bằng không mạng y giờ đã ô hô ai tai rồi”.

Tống Lỗ nói: “Địa Sát Quyền của Lý Mật tương đối nổi danh trong giang hồ, bởi vậy chắc hẳn hắn tự tin mười phần vào võ công của mình. Thế nên đảm bảo hắn tuyệt đối không thể ngờ được chân khí Trường Sinh Quyết của hai người lại có khả năng khởi tử hoàn sinh, đưa Vương Thế Sung trở về từ Quỷ Môn Quan. Chẳng trách bọn Trầm Lạc Nhạn chẳng buồn lưu lại thêm một ngày để quan sát tình thế biến hoá, sáng sớm hôm nay đã theo dòng người tránh nạn, ngồi thuyền rời Lạc Dương rồi”.

Khấu Trọng mỉm cười: “Nếu không phải tiểu tử để cho chúng đi, bọn chúng cũng không đi được dễ dàng như vậy đâu. Đêm nay tiểu tử sẽ đến Yển Sư, không biết Lỗ thúc có dự định gì chưa?”.

Tống Lỗ nói: “Đại chiến đã gần kề, chúng ta ở đây lại cũng không có tác dụng gì lớn, nên cũng chuẩn bị Nam hạ, ngươi có lời gì cần ta chuyển cáo không?”.

Y nói hết sức đơn giản nhẹ nhàng, nhưng hiển nhiên là đang muốn Khấu Trọng tỏ rõ lập trường của mình với Tống phiệt.

Khấu Trọng nghĩ đến Tống Ngọc Trí, trong lòng bất giác cảm thấy hụt hẫng, hồi lâu sau mới nói: “Khấu Trọng có tư cách tranh đoạt thiên hạ hay không toàn bộ đều nhờ vào Dương Công Bảo Khố, nếu không đào được thì cho dù có khởi sự cũng chỉ có thể làm một tên tiểu tặc mà thôi. Hiện giờ nói những lời ấy dường như còn hơi quá sớm”.

Tống Lỗ vuốt râu mỉm cười: “Nếu người người đều giống như ngươi phải đợi tìm được bảo tàng mới khởi nghĩa, vậy giờ này chắc Dương Quảng vẫn còn an nhiên ngồi trên bảo toạ hoàng đế của y đó”.

Khấu Trọng cười khổ: “Đây gọi là mỗi lúc khác, khi đó khắp thiên hạ đều oán giận triều đình, chỉ cần có người đứng ra là muôn người cùng theo, hơn nữa bản thân những kẻ ấy đều là đại tướng đương quyền của Tuỳ thất hoặc cũng là hạng có tiền có thế, binh lực lớn mạnh. Giờ đây cục thế cắt đất chia giang sơn đã định, nếu muốn người khác bán mạng vì mình, tất phải có điểm đặc bệt để thu hút. Giang hồ không phải có truyền ngôn rằng chỉ cần lấy được Dương Công Bảo Khố, sẽ có được thiên hạ hay sao? Đây chính là thứ mà con quỷ nghèo như tiểu tử đây muốn có”.

Tống Lỗ gật đầu: “Chỉ nghe mấy lời này đã biết Tiểu Trọng ngươi hiểu được lòng người, đây chính là điều kiện tiên quyết để tranh đoạt thiên hạ. Yên tâm đi! Chỉ cần ngươi có thể làm ra thành tích, Tống gia sẽ toàn lực ủng hộ. Hừ, nếu để người Hồ giành được thiên hạ, người Hán bọn ta còn chỗ dung thân sao?”.

Khấu Trọng biết y đang ám chỉ Lý phiệt. Lý gia là quý tộc ở vùng Lũng Tây, xưa nay luôn tích cực thông hôn với các quý tộc Tiên Ty, xâm nhập Trung Nguyên từ thời Nam Bắc Triều để tăng cường thực lực chính trị và quân sự, còn các sĩ tộc phương Nam như Tống gia thì xưa nay luôn hôn nhân khép kín, để gìn giữ sự thuần nhất của huyết thống và văn hoá. Bởi vậy xưa nay luôn có sự cố kỵ bài xích lẫn nhau giữa người miền Nam và miền Bắc.

Ở phương Bắc, chuyện thông hôn với người Hồ là hết sức bình thường, những gia tộc gốc Hồ như Nguyên, Trưởng Tôn, Vũ Văn đều hết sức lớn mạnh. Đại thần bên cạnh Dương Động mà Vương Thế Sung muốn thanh thảo Nguyên Văn Đô rồi một nhân vật quan trọng trong Thiên Sách Phủ của Lý Thế Dân, Trưởng Tôn Vô Kỵ đều không phải là người Hán, thế nên chuyện Tống phiệt ngờ vực bài xích là vô cùng tự nhiên. Nếu không phải có tình thế vi diệu này, Tống Khuyết cũng không đồng ý hứa gả Tống Ngọc Trí cho Lý Thiên Phàm khi Lý Mật công hạ được Lạc Dương. Nguyên nhân cũng chỉ vì Vương Thế Sung là người Hồ.

Nhưng “người phương Nam” như Khấu Trọng, lại càng phù hợp với tâm ý của Tống phiệt hơn.

Khấu Trọng gật đầu nói: “Tiểu tử có một chuyện muốn nhờ, chỉ e chỉ mình Lỗ thúc mới làm nổi mà thôi”.

Tống Lỗ vui vẻ nói: “Đừng tâng bốc ta quá như vậy! Ta thấy ngươi từ một tên tiểu tử vô danh, trở thành cao thủ mà thiên hạ võ lâm đều ngưỡng mộ, cũng giống như thấy hài tử của mình trưởng thành vậy, có gì cần giúp đỡ, thì cứ thoải mái nói ra đi!”.

Khấu Trọng thầm cảm động, ngần ngừ một lúc rồi nói: “Tiểu tử muốn nhờ Lỗ thúc đi Phi Mã Mục Trường báo cho trường thủ Thương Tú Tuần một tin tức quan trọng”. Tiếp đó lại giải thích tường tận âm mưu của bọn Lưu Vũ Châu và Tiếu Tiễn cho Tống Lỗ nghe,trầm giọng nói: “Lỗ thúc phải đích thân nói rõ tình hình cho Thương trường chủ biết, nếu để người khác đi, chỉ sợ nàng ta sẽ hoài nghi mà hỏng mất đại sự”.

Tống Lỗ gật đầu: “Ta hiểu! Chuyện này ngươi cứ yên tâm!”.

Khấu Trọng lại nói tiếp: “Nếu lần này may mắn thắng được Lý Mật, tiểu tử và Tiểu Lăng sẽ đến Giang Đô xem phải đối phó với liên quân Đỗ Phục Uy, Trầm Pháp Hưng thế nào. Lỗ thúc có thể nói với Thương trường chủ, Tiểu Trọng sẽ phái một người tên Hư Hành Chi đến báo cáo tình hình cho nàng ta rõ, người này nàng ta cũng biết mặt rồi”.

Tống Lỗ trầm ngâm giây lát rồi hừ nhẹ một tiếng: “Tên tiểu tử Tiêu Tiễn này thật khả ố, mượn lực chúng ta để kềm chế Lâm Sĩ Hồng, còn mình thì mưu tính chiếm lấy trọng trấn phía Bắc Trường Giang, có điều Chu Xán lẽ nào lại để y tự ý mở rộng thế lực lên phía Bắc như thế chứ?”.

Khấu Trọng nhớ người tự xưng là Già Lâu Lan Vương Chu Xán này, khi ở bến cảng Ba Lăng, gã còn hiểu lầm động thủ với nữ nhi võ công cao cường của y, Độc Thù Chu My, bèn thuận miệng hỏi: “Tình hình phía Chu Xán gần đây thế nào?”.

Tống Lỗ đáp: “Kẻ này thủ đoạn hung tàn, nên rất không được lòng người, có điều thủ hạ của y đông đến mười vạn, tuyệt đối không thể xem thường. Gần đây có đại chiến với tam đại khấu, tuy chiếm được thượng phong, nhưng cũng không có cách nào khuếch trương thế lực, nếu ngươi có thể hàng phục binh tướng dưới trướng họ Chu này, rồi dùng nhân đạo quản trị vùng đất của y, phối hợp với các quân tinh nhuệ ở Phi Mã Mục Trường và tàn quân Cảnh Lăng, đảm bảo có thể làm nên việc lớn”.

Khấu Trọng nghe vậy hai mắt sáng rực, gật đầu nói: “Lời vàng ngọc của Lỗ thúc Khấu Trọng nhất định sẽ nghe theo, quả nhiên gừng càng già càng cay!”.

Tống Lỗ phì cười nói: “Chuyện này nói thì dễ, làm thì khó, nhưng nếu có thể trừ được mối hoạ Chu Xán này thì cũng là một chuyện tốt cho thiên hạ thượng sinh, có thể tăng thêm uy vọng cho ngươi, thu phục lòng người. Lúc ấy thuận thế trừ diệt luôn tam đại khấu, phối hợp với quân Lĩnh Nam của Tống gia chúng ta, ít nhất là một phân tư thiên hạ dã nằm trong tay ngươi rồi đó!”.

Khấu Trọng hưng phấn nói: “Chỉ cần đào được Dương Công Bảo Khố, tất cả những chuyện này đều không khó thực hiện, đến lúc ấy nhất định Lỗ thúc phải lãnh binh đến giúp tiểu tử đó!”.

Lúc này có cận vệ đến báo, có khách muốn cầu kiến.

Khấu Trọng lúc này đang hưng phấn, đâu còn tâm trí gặp bất cứ ai, khó chịu gắt lên: “Hiện giờ ta không rảnh! À, người đó có xưng tên không?”.

Tên cận vệ đáp: “Y tự xưng là Tần Xuyên, còn nói Khấu gia nhất định sẽ gặp y”.

Khấu Trọng thất thanh kêu lên: “Là nàng ta!”.

o0o

Khấu Trọng bước vào tiểu sảnh, thấy Sư Phi Huyên đóng giả nam trang vận nho phục đang ngồi trong một góc, sắc mặt điềm tĩnh, đôi mắt trong sáng nhìn gã đăm đăm, dường như ngay cả những cử động nhỏ nhặt nhất của gã cũng không bỏ qua. Tiên giá của nàng tới đâu thì dường như nơi đó liền hoá thành tiên cảnh thánh địa vậy, gian tiểu sảnh tầm thường nhờ có sự xuất hiện của nàng mà cũng trở nên thoát tục.

Khấu Trọng ngồi xuống bên cạnh Sư Phi Huyên, song phương chỉ cách nhau một chiếc bàn nhỏ.

“Sư tiên tử có phải nhầm ta với Tiểu lăng rồi hay không, trong lòng muốn gặp Tiểu Lăng, nhưng lại nói nhầm thành tặc danh của tiểu đệ đây rồi”.

Trong lòng Sư Phi Huyên cũng có cảm giác dị dạng. Từ khi rời khỏi sư môn đến giờ, đây là lần đầu tiên có người dám đùa cợt trước mặt nàng. Trước mặt tiên tử tuyệt thế của nàng, không ai là không bị khí độ siêu phàm thoát tục làm cho trấn nhiếp, chỉ sợ ngôn hành cử chỉ của mình có gì thất thố, làm nàng khinh thị, đâu có ai dám nói năng như Khấu trọng bây giờ.

Sư Phi Huyên chậm rãi nói: “Khấu huynh nhất định là người trời sinh ra đã thích đùa cợt bỡn thế, Phi Huyên lần này chân thành đến đây bái phỏng, mong được thỉnh giáo huynh mấy vấn đề. Ngoài ra, Phi Huyên không phải là tiên tử gì cả”.

Khấu Trọng thoải mái dựa người vào ghế, thở hắt ra một hơi: “Nếu muốn hỏi đáp, tốt nhất Sư tiên tử nên tìm tiểu tử Lý Thế Dân, chỉ sợ tiểu đệ đây sẽ làm tiên tử thất vọng mất thôi!”.

Sư Phi Huyên khẽ nhướng mày lên ngạc nhiên hỏi: “Khấu huynh vẫn còn chưa biết Phi Huyên sẽ hỏi gì, tại sao đã nghiêm trận đón đầu, tràn đầy địch ý như thế?”.

Khấu Trọng cười khổ: “Bởi vì ta sợ tiên tử sẽ cho tiểu đệ một cơ hội tưởng chừng như công bằng mà thực ra lại tuyệt đối bất công, xem xem Khấu Trọng này có phỉa là nhân tài có thể thống nhất thiên hạ như Lý tiểu tử kia hay không. Sau khi đã chứng thực được định kiến trong lòng mình, sau này có thể toàn lực trợ giúp Lý tiểu tử đối phó ta mà không cảm thấy hổ thẹn với lòng nữa rồi”.

Sư Phi Huyên mỉm cười: “Khấu huynh quả thật tâm cơ rất mẫn tiệp, Phi Huyên bình sinh hiếm gặp, chẳng trách mà Khấu huynh có thể trở thành nhân vật hô phong hoán vũ trong thời loạn thế này, có điều thứ cho Phi Huyên ngu muội, không biết Khấu huynh dựa vào gì để nói trong lòng Phi Huyên sớm đã có thành kiến, cho rằng Khấu huynh không bằng Lý Thế Dân vậy?”.

Khấu Trọng cười ha hả nói: “Đây căn bản không phải là thành kiến, mà là sự thực. Hiện giờ tiểu đệ chỉ mới bắt đầu, đối với việc quản chính trị quốc một khiếu cũng chẳng thông, Sư tiên tử có hỏi cũng chỉ biết á khẩu vô ngôn mà thôi. Vì vậy nên mới tình nguyệ không đáp, bảo lưu một chút cảm giác thần bí trong lòng tiên tử, để khi rảnh rỗi…biết đâu…hì hì…Sư cô nương lại nghĩ lại xem tại sao tiểu đệ lại cuồng vọng đến vậy”.

Sư Phi Huyên mệt mỏi thở dài: “Huynh rất tự bíêt mình. Chỉ riêng điểm này thôi đã hiếm có người bì kịp rồi. Nhưng nếu đã như vậy, tại sao Khấu huynh không chọn ra một minh chủ, trợ lực y thống nhất thiên hạ, giải cứu vạn dân khỏi cơn bi khốn?”.

Khấu Trọng hừ lạnh nói: “Khấu Trọng này lẽ nào lại là hạng người chịu khuất phục kẻ khác chứ? Loạn thế tranh hùng là một chuyện, trịquốc an dân sau khi nhất thống thiên hạ lại là chuyện khác. Nếu muốn hỏi, chi bằng tiên tử cứ hỏi ta làm thế nào để có được thiên hạ đi! Những chuyện khác bây giờ nói ra vẫn còn quá sớm”.

Sư Phi Huyên hứng thú hỏi luôn: “Khấu huynh tin cũng được không tin cũng được, lần này Phi Huyên đến đây không phải muốn nói đạo trị quốc với Khấu huynh. Hiện giờ Khấu huynh đã chủ động đưa ra, vậy Phi Huyên cũng không khỏi hiếu kỳ, muốn thỉnh giáo dựa vào thứ gì để đột phá cục thế quần hùng cắt đất hiện nay chứ?”.

Khấu Trọng ung dung nhún vai đáp: “Tiểu đệ đây chỉ đi bước nào hay bước đó mà thôi, nếu đại sự không thành, thì sẽ trở về Dương Châu mở một tiệm ăn nhỏ. Hắc! Trù nghệ của hai huynh đệ bọn ta cũng thuộc loại xuất sắc, nếu tiên tử quá bộ bản quán, tiểu đệ nhất định sẽ làm mấy món chay tiếp đãi. Hà hà! Khấu Trọng này căn bản là một người biết tuỳ ngộ nhi an. Sau này tiên tử không cần hao tâm phí thần với ta nữa, nếu thích thì cứ đi trợ giúp Lý tiểu tử đi!”.

Sư Phi Huyên bật cười khúc khích, duyên dáng đến đọ khiến Khấu Trọng phải tròn mắt lên nhìn, thong thả nói: “Khương thái công có được mưu trong sách Âm Phù của Hoàng Đế, lược trong sách Lục Thao, phò Võ Vương diệt Thương lập quốc, Tô Tần được chân truyền của Quỷ Cốc Tử, du thuyết lục quốc, hợp tung đối phó nước Tần, lấy được ấn tướng của cả sáu nước. Trương Lương tinh thông Tố Thư, Tam Lược giúp Lưu Bang bình định thiên hạ, nay Khấu huynh có được Trường Sinh Quyết, tuy đây là bảo vật chí cao của Đạo gia, có thể giúp Khấu huynh trở thành đại tôn sư võ học trong thiên hạ, song không hề liên quan đến chuyện tranh đoạt thiên hạ, trị quốc an dân. Sao Khấu huynh không sớm quay đầu, tiếu ngạo giang hồ, để thanh danh truyền mãi muôn đời, vậy không phải hơn việc tự mình nhảy vào vòng xoáy tranh giành quyền lực mãi không ngưng nghỉ này hay sao?”.

Khấu Trọng cười khổ: “Chẳng trách mà tiên tử lại hân thưởng tên tiểu tử Từ Tử Lăng đó, mấy câu sau cùng của nàng chính là khắc hoạ chính xác nhất của con người hắn đó. Nếu không phải vậy, hắn đã chịu toàn lực trợ giúp ta tranh đoạt thiên hạ rồi, lúc ấy thì Khấu Trọng này có thể khẳng định tuyệt đối không cần phải mở quán cơm để qua ngày đâu”.

Với tu dưỡng của Sư Phi Huyên, cũng không khỏi chau đôi mày liễu lên nói: “Nếu Khấu huynh còn cố lôi kéo y vào chuyện này, Phi Huyên đành phải cáo từ ở đây, sau này không cần nói gì thêm nữa”.

Khấu Trọng vội rối rít: “Tiên tử bớt giận, sự thực thì tiểu đệ đây cũng vô cùng ái mộ tiên tử, chỉ có điều trong lòng biết rõ sẽ có mọt ngày nàng bạt kiém đối phó với mình, nên chỉ đành cố kềm nén cảm nhận thật trong lòng mà thôi. Giờ tiểu đệ đã biết sai rồi, xin tiên tử cứ tuỳ tiện phát vấn, tiểu đệ biết sẽ nói ngay, nói sẽ nói hết”.

Từ khi xuất đạo đến nay, đây mới là lần đầu tiên Sư Phi Huyên gặp một nam tử dám công khai bày tỏ lòng ái mộ với nàng như Khấu Trọng, nhưng nàng cũng biết rõ kẻ này chỉ thuận miệng nói bừa, không hề thật lòng, trong lòng đáng lẽ phải không vui, nhưng không hiểu tại sao nàng lại cảm thấy rất khó trách cứ gã được. Đây cũng là điểm mà không ai bì kịp được Khấu Trọng, dù là địch nhân thì cũng khó mà hận gã cho được.

Từ khi Khấu Trọng bứơc chân vào gian tiểu sảnh này, hai người luôn đối chọi lẫn nhau. Chỗ cao minh nhât của gã chính là căn bản không để đối thủ nắm được nhược điểm và sơ hở của mình, với trí tuệ phi phàm của Sư Phi Huyên mà cũng có cảm giác không biết nên bắt đầu từ đâu.

Kỳ thực Khấu Trọng cũng có nỗi khổ trong lòng.

Nếu luận kiến thức hay ngôn từ, gã khẳng định không thể bì kịp tuyệt thế kiều nữ thiên hạ vô song này, còn nàng thì rõ ràng là có ý khuyên gã chọn lựa phù trợ minh chủ hoặc thoái xuất giang hồ, gác mộng tranh bá đồ vương. Giả như gã dùng những lời lẽ quá cương quyết để cự tuyệt “hảo ý” của nàng, thêm voà chuyện Hoà Thị Bích trước đó, chỉ sợ sẽ có thêm một cường địch xinh đẹp tuyệt trần mà thiên hạ không ai muốn gây chuyện đến này. Vì vậy, gã chỉ có thể dùng cách của những kẻ bàng môn tà đạo sống nơi đầu đường xó chợ, cùng với thái độ thẳng thắn trực tiếp, khiến nàng chỉ có thể phát nộ nhất thời mà không thực sự trở mặt thành thù với gã.

Chỗ vi diệu bên trong, thật sự khó nói thành lời.

Đôi mắt sáng trong của Sư Phi Huyên như dán vào người gã, hồi lâu sau mới hé nở một nụ cười nhạt, nhạt đến nỗi phải tịnh tâm chú ý mới phát hiện được: “Được rồi! Đạo, đức, nhân, nghĩa, lễ là gì? Khấu huynh có thể giải thích cho Phi Huyên được không?”.

Khấu Trọng lấy làm ngạc nhiên, đồng thời cũng thầm khen lợi hại.

Gã vốn muốn làm nàng tức giận bỏ đi, chẳng ngờ nàng lại không hề động khí, còn đưa ra một đề mục hết sức trừu tượng để thử thách gã, mục đích chính là để gã phải tự lộ cái xấu. Đây không khác gì bức gã xuất chiêu để tìm ra sơ hở, dao động lòng tin tranh đoạt thiên hạ của gã. Nếu như gã vẫn dùng cách lúc nãy để đối đáp, sẽ chỉ làm nàng khinh thị mà thôi.

Nghĩ đoạn, Khấu Trọng đành cười khổ: “Đây giống như đề mục trong thi khoa cử vậy, tiên tử có thể hỏi vấn đề gì liên quan đến hiện thực một chút được không? Ví dụ như làm hoàng đế tốt là thế nào? Làm thế nào dẹp yên được thiên hạ quần hùng? Làm thế nào tạo phúc cho bá tánh chẳng hạn? Tiểu đệ xuất thân nơi xó chợ đầu đường, tự biết mình so với những công tử quý tộc xuất thân trong danh giá thì hiểu được những vấn đề đó hơn một chút. Nhưng nếu bảo tiểu đệ đây thi khoa cử thì đảm bảo ngay cả cuối bảng cũng không có tên ta nữa”.

Sư Phi Huyên thoáng rung động, nàng giỏi thuật nhìn người, nghe những lời này, biết rõ đây đều là lời thật lòng của Khấu Trọng, lại càng hiểu rõ gã đã khéo léo lấy mình so sánh với Lý Thế Dân, khiến nàng cảm thấy dùng cách này để chọn ra minh chủ căn bản là một chuyện không hề công bằng, cũng giống như là một thư sinh đỗ khoa cử, cũng không chắc chắn sẽ trở thành một vị quan được vạn dân kính phục vậy. Đương nhiên nàng tự biết mình không phải là hạng qua loa đại khái chỉ nghe người ta trả lời mấy câu đã đưa ra quyết định như vậy, mà phải thông qua một thời gian dài quan sát và phán đoán mới có được sự chọn lựa cuối cùng.

Khi vị mỹ nữ siêu phàm thoát tục này tưởng rằng Khấu Trọng sẽ không trả lời câu hỏi của mình thì gã đã nghiêm mặt nói tiếp: “Đạo, đức, nhân, nghĩa, lễ mà tiên tử vừa nêu ra kỳ thực chỉ là một mà thôi. Hì, tiểu đệ có nói sai không? Thiên có thiên đạo, nhân có nhân đạo là quy luật mà thiên địa vạn vật đều phải tuân theo. Có đạo thì sẽ có đức. Nhân nghĩa là hành vi phát từ nội tâm, có được từ lòng trắc ẩn thương người. Còn lễ? Lễ là quy phạm được định ra từ đạo, đức, nhân, nghĩa mà tất cả phàm nhân đều phải tuân theo, để bảo vệ quan hệ luân lý đạo đức nhân nghĩa giữa người và người”.

Những lời này đều được ghi trong chương đầu tiên của cuốn binh pháp mà Lỗ Diệu Tử đã tặng cho gã, trong đó còn chỉ rõ, yếu quyết của việc hành binh khiển tướng, là phải hiểu được thiên nhân chi đạo trước đã.

Trong sách có ghi: “Thiên đạo và nhân đạo không phải là phụ trợ lẫn nhau hay sao? Các bậc thánh hiền có ai là không tâm lĩnh thần hội được quan hệ này, đồng thời tận tâm tận lực mà thuận theo thiên đạo đâu. Ví như vua Nghiêu, cung kính thuận theo phép tắc của trời như kính sợ thượng đế vậy, vua Thuấn thì đã tuân theo thiên đạo mà lập nên bảy nguyên tắc lớn để trị vì quốc gia, Đại Vũ thì thuận theo địa lý tự nhiên chia thiên hạ thành Cửu Châu, người kế thừa của triều Ân là Võ Đinh tuân theo thiên đạo nên mới khiến Đại Thương trung hưng, Văn Vương nhờ vào Pháp Thiên Tượng Địa mới suy diễn ra đựơc Bát Quái, Chu Công noi theo quy luật xuân hạ thu đông mà lập nên tổ chức quan sứ, đồng thời đặt ra tam công: thái sư, thái phó, thái bảo, phụ trách điều hoà cân bằng âm dương. Khổng Tử cảm thấy thiên nhân chi đạo thâm ảo huyền diệu nên thường không muốn nói tới, Lão Tử thì dùng một chữ vô một chữ hữu để khái quát quy luật vận hành của thiên địa. Nhìn đạo trời, thuận đạo trời, mới thành được đại nghiệp. Thiên đạo có ngũ đức, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín ai thấy được thì hưng vượng, kẻ nào bỏ qua ắt sẽ bại vong”.

Khấu Trọng là kẻ thông minh tuyệt đỉnh, đã dựa vào đây để phát huy ra một thứ lý luận của riêng gã.

Sư Phi Huyên động dung thốt lên: “Những lời này của Khấu huynh quả là lời ít mà nghĩa nhiều, khiến Phi Huyên không thể không đánh giá lại. Chỉ xin được hỏi thêm một câu nữa, Khấu huynh là vì mình hay vì vạn dân trong thiên hạ mà nói ra những lời này vậy?”.

Khấu Trọng ung dung cười cười đáp: “Nếu nói không phải vì bản thân mình, tại hạ sẽ trái với đạo đức, nhưng chỉ vì mình mà không vì người, thì lại thiếu đi nhân nghĩa. Vì vậy mới nói đạo đức nhân nghĩa chỉ là một mà thôi!”.

Sư Phi Huyên lầm đầu tiên cảm thấy không biết làm gì với tên tiểu tử này, bởi vì nếu đáp án của gã là vì hạnh phúc của vạn dân mới đi tranh đoạt thiên hạ, thì nàng có thể dựa vào đây để thuyết phục gã vì lợi ích của vạn dân mà dừng lại.

Khấu Trọng lại nói tiếp: “Còn vì mình hay vì người trước, thì chỉ sợ cả Lý tiểu tử cũng không phân biệt được rõ ràng đâu? Bằng không thì y đã bỏ đi lợi ích của cá nhân và gia tộc mà đến giúp Khấu Trọng này nhất thống thiên hạ rồi, không biết Sư tiên tử thấy ta nói có đúng không?”.

Sư Phi Huyên chau mày: “Khấu huynh nói vậy không phải là không có đạo lý, nhưng lại quá xa rời thực tế, càng khiến Phi Huyên không thể tâm phục, mà đây cũng là điểm mấu chốt của vấn đề, chính là dựa vào thực lực hiện nay của Khấu huynh, làm sao chế phục chúng?Làm sao có thể dẹp yên quần hùng? Làm cho thiên hạ càng loạn, đối với Khấu huynh và vạn dân đều chỉ có hại mà không có lợi”.

Khấu Trọng cũng phải thừa nhận Sư Phi Huyên là một thuyết khách rất có mị lực, có điều nói cho cùng nàng cũng không cho rằng gã có thể làm ra được chuyện gì, chỉ sợ gã đào được Dương Công Bảo Khố trong truyền thuyết rồi làm cho tình thế đã loạn càng thêm loạn mà thôi.

Sư Phi Huyên bất ngờ uyển chuyển đứng dậy, đôi mắt đẹp nhìn gã đăm đăm: “Thiên phát sát cơ, tinh tú chuyển dời, địa phát sát cơ, long xà rời hang, nhân phát sát cơ, thiên địa phản phục. Hoả sinh từ mộc, hoạ phát tất khắc. Gian sinh từ quốc, thơi động tất tan. Sinh là gốc của tử. Tử là gốc của sinh. Ân đức sinh ra hoạ hại, hoạ hại sinh ra ân đức. Phi huyên đã cạn lời, có duyên sau này sẽ gặp lại!”.

Nói dứt lời liền chậm rãi bỏ đi.